Chương 23
Một đàn chim én bay lượn quanh gác chuông cụt. Những tia sáng đầu tiên làm những viên ngói mầu sặc sỡ lấp lánh. Gơrebê châm bếp dầu. Không biết có được phép đun nấu ở nơi tôn nghiêm này không, anh bèn áp dụng tác phong của lính là cứ làm trước khi có lệnh cấm. Anh lấy gamen ở trong sắc ra và đi tìm vòi nước ở sau bức tượng Chúa bên thánh giá. Cách đấy không xa, một người ngủ, miệng há hốc, cằm lởm chởm râu đỏ. Người đó chỉ có một chân. Cái chân gỗ được tháo ra, để bên cạnh. Nó sáng lóe dưới ánh nắng như một cái máy kỳ lạ. Gơrebê bây giờ mới thấy rõ dãy hàng hiên có mái và những cây cột cách quãng đều nhau. Những điều yêu sách của ông bõ đã được tôn trọng: nam nữ nằm riêng, cả dãy phía Nam là dành cho nữ.
Khi anh trở về, Elidabét đã dậy. Cô trông tươi mát và thoải mái, không giống những bóng ủ rũ đang đứng dậy lần lần trong khu hậu lang này.
– Anh biết một chỗ em có thể rửa mặt được, anh nói. Em nên đến trước khi mọi người đổ xô tới đi. Những nơi tôn nghiêm không bao giờ nổi tiếng về các thiết bị vệ sinh đâu. Đi, anh sẽ chỉ cho em nhà tắm của các tăng đồ.
– Anh cứ ở lại đây, cô vừa cười vừa nói với anh. Nếu không chúng ta sẽ chẳng còn cà phê lẫn bếp dầu. Anh cứ nói cho em hiểu, em sẽ tìm được.
Cô đi qua vườn theo lời anh chỉ. Cô ngủ yên đến nỗi quần áo chỉ hơi bị nhầu. Anh nhìn theo cô, lòng bỗng tràn ngập mến thương.
– À ra bây giờ, anh lại còn đun nấu trong vườn của Chúa nữa hả. – Người bõ chắc đã đi rón rén tới – Mà lại còn đun nấu trước tượng Chúa bị khổ nạn nữa chứ!
– Nếu thầy có bếp giành riêng cho những người bị nạn, tôi sẵn sàng đến đấy ngay.
– Bếp ư? Đây là đất thánh. Anh không trông thấy mộ của các giám mục thuộc Tăng hội à?
– Không phải đây là lần đầu tôi đun nấu ở nơi mộ địa, Gơrebê bình thản nói. Có lẽ gần đây có quán ăn hay bếp lưu động nào chăng?
– Quán ăn hay bếp lưu động ở đây à?
Người bõ nói câu đó như nhai phải quả thối.
– Đó không phải là một ý nghĩ xấu đâu?
– Đối với những kẻ ngoại đạo loại như anh, thì có lẽ thế đấy. May mà tất cả mọi người không phải như anh! Quán ăn ở trên đất thánh! Thật là báng bổ!
– Đâu đến nỗi. Chúa đã đem bánh mì và vài con cá[99] đủ nuôi cả một đám đông, chắc thầy cũng biết chứ. Tuy rằng Người không phải là con chim mang điểm gở như thầy. Bây giờ thì mời thầy đi đi! Lúc này là thời chiến, lại phải dạy cho thầy biết điều ấy nữa chắc!
– Tôi sẽ báo cáo điều này cho cha Biđenđích biết!
– Cứ việc nói, cha cũng sẽ mặc kệ thầy cho thầy chết mất thây, mất xác!
Người bõ bỏ đi, với vẻ nghiêm nghị của một người bị xúc phạm. Gơrebê mở gói cà phê trong đống gia tài của Binđinh để lại. Anh đưa lên mũi ngửi. Đó là cà phê bột thứ thật. Anh vừa rót nước sôi vào gamen, mùi thơm đã lan tỏa ra trong dẫy hậu lang và kết quả lập tức thấy ngay. Một cái đầu bù xù ló ra sau một tấm mồ và hít hơi. Một người đàn ông nặng nhọc đứng dậy bước lại gần Gơrebê.
– Này, ông bạn, có nhiều cho uống một tách nhỏ nào!
– Xin ông! Gơrebê nói. Chúng ta đang ở nhà của Chúa, người ta chỉ nhận lộc bố thí chứ không ai đi bố thí cả.
Elidabét trở về. Cô đi nhẹ nhàng vui vẻ, như vừa đi dạo chơi về.
– Cà phê ở đâu ra thế? cô ngạc nhiên hỏi.
– Ở nhà Binđinh. Uống nhanh lên, nếu không cả khu hậu lang này sẽ nhảy xổ đến chỗ chúng ta bây giờ!
Mặt trời chiếu sáng dần từng bức tượng trên các chặng đường thụ hình. Một bó hoa viôlét héo rũ trong một cái bình ở dưới chân tượng Chúa thọ hình thập tự giá. Gơrebê lấy bánh mì và bơ ở trong sắc ra. Anh dùng dao con phết bơ vào bánh.
– Bơ tươi nhỉ, Elidabét nói. Vẫn là của Binđinh à?
– Vẫn là của Binđinh. Kỳ thật, lúc nào hắn cũng hết sức giúp mình mà anh không sao có cảm tình với hắn được.
– Có lẽ vì vậy mà hắn tốt với anh. Hình như ở đời, có những trường hợp như thế.
Elidabét ngồi lên sắc gần Gơrebê.
– Lúc còn bảy tuổi, em vẫn mơ ước một cuộc đời gần giống như thế này.
– Còn anh, anh muốn trở thành thợ làm bánh ngọt.
Cô cười.
– Thế mà bây giờ anh trở thành người tiếp phẩm. Lại vào hạng cừ nữa! Mấy giờ rồi anh?
– Anh gói đồ đạc rồi đưa em đến xưởng nhé.
– Không, chúng mình cứ ở đây, phơi nắng, càng lâu càng tốt. Gói đồ đạc và mang đi, mất nhiều thì giờ lắm, hơn nữa còn phải xếp hàng để đưa tất cả xuống hầm. Hậu lang đã đông chật rồi. Khi em đi rồi, anh sẽ có đủ thì giờ, tha hồ mà thu xếp.
– Được. Không biết ở đây có được hút thuốc lá không?
– Chắc chắn là không, nhưng hút thì có sao?
– Trước khi bị tống ra khỏi đây, ta cứ tự nhiên đã, chắc cũng không lâu đâu. Anh sẽ cố tìm nơi nào để tối nay chúng ta không phải mặc cả quần áo để ngủ như thế này. Em cũng đồng ý là chúng ta sẽ đến gõ cửa nhà cha Biđenđích chứ?
– Vâng, thà quay lại nhà Pônman còn hơn.
Mặt trời lên cao đã dần dần chiếu sáng những vòm cuốn của hậu lang và bóng hàng cột đã in lên tường. Mọi người ở đó, đi lại, trông như qua một hàng rào làm bằng bóng tối và ánh sáng của một nhà tù. Trẻ nhỏ la hét. Người cụt chân đã lắp chân giả và kéo ống quần xuống. Gơrebê gói bánh mì và cà phê lại.
– Tám giờ kém mười rồi, anh nói. Em phải đi thôi. Anh sẽ đến xưởng đón em. Trường hợp có tai nạn, chúng ta hẹn gặp nhau trước hết ở nhà bà Vittơ, sau ở hậu lang này.
– Đồng ý, Elidabét đứng dậy và nói. Đây là lần cuối cùng, em phải xa anh để đi làm suốt ngày đây.
– Tối nay chúng ta có thể ngủ muộn hơn, dần dà rồi chúng ta sẽ lại dành được thời gian đã mất.
Cô hôn anh và rảo bước đi. Gơrebê nghe có tiếng cười ở sau lưng. Anh bực tức quay lại. Một người đàn bà còn trẻ đùa với đứa con trai. Đứa trẻ đứng trên tường giật tóc mẹ và chị ta cười với nó. Người đàn bà trẻ không để ý đến Gơrebê và Elidabét.
Anh định lại vòi nước để rửa gamen thì nghe tiếng chân gỗ kêu kèn kẹt của người cụt đang chạy theo anh.
– Này anh bạn! Có phải vừa rồi, anh uống cà phê đấy không?
– Phải, nhưng tôi uống hết rồi.
– Tôi đoán thế, người đó có đôi mắt to màu xanh. Tôi hỏi bã cà phê. Nếu anh bỏ đi thì cứ đưa cho tôi. Tôi sẽ đun nước nữa.
– Được, anh cứ lấy.
Gơrebê đổ bã cà phê vào cái nắp mà người cụt giơ ra cho anh. Rồi anh đi lấy đồ đạc xếp lại cùng một chỗ với những người đứng trước cửa hầm. Anh đoán trước sẽ lại xảy ra cãi cọ với người bõ trẻ. Nhưng anh thấy đồng nghiệp của hắn, ông già mũi đỏ đi tới. Ông này sặc mùi rượu lễ và không nói gì.
Viên trưởng khu đứng ở cửa sổ phòng hắn,ở tầng gác thứ nhất căn nhà đã cháy. Vừa trông thấy Gơrebê, hắn ra hiệu bảo anh lên.
– Ông có thư cho chúng tôi à? Gơrebê bước vào và hỏi.
– Phải, vợ anh có một cái thư đây. Thư gửi cô Crudơ, nhưng tôi cứ đưa cho anh cũng được chứ gì?
– Tất nhiên rồi.
Gơrebê cầm phong thư. Anh thấy viên trưởng khu nhìn anh với vẻ kỳ lạ. Anh liếc nhìn bì thư và thấy lạnh toát người. Thư do cơ quan của sở mật thám gửi đến. Anh lật đi lật lại phong bì trong tay. Bì thư dán vụng về, hình như đã có ai bóc ra, rồi dán lại.
– Thư đến từ bao giờ? anh hỏi.
– Chiều hôm qua.
Gơrebê ngắm nhìn phong bì. Anh tin chắc rằng viên trưởng khu đã mở ra rồi. Anh cũng bóc thư ra xem. Đó là một tờ giấy gọi Elidabét phải có mặt ở sở Ghextapô ngay sáng nay, hồi mười một giờ rưỡi. Anh xem đồng hồ. Đã gần mười giờ.
– Được, anh nói. Kể ra không phải là sớm quá, chúng tôi vẫn đợi nó từ lâu.
Anh bỏ thư vào túi. – Chỉ có thế này thôi à?
– Đối với anh, thế chưa đủ à? người trưởng khu hỏi, mắt tò mò nheo lại.
Gơrebê cười.
– Ông có biết chỗ nào ở được, mách chúng tôi với?
– Không biết. Anh tìm chỗ ở à?
– Tôi thì không, tôi tìm cho vợ tôi.
– Thế à! viên trưởng khu nói ra vẻ không tin lắm.
– Phải, tôi sẽ trả tiền sang nhà thật hậu.
– Thế à? Viên trưởng khu nhắc lại.
Gơrebê bỏ đi. Anh cảm thấy viên trưởng khu đang từ trên cửa sổ theo dõi anh. Anh dừng lại và vờ chăm chú quan sát những nóc nhà. Rồi anh chậm chạp bước đi. Vừa rẽ ở góc phố là anh rút ngay lá thư trong túi ra. Đó là một miếng giấy mà nội dung và cả chữ ký đều được in sẵn. Chỉ có tên Elidabét và ngày là được đánh máy. Chữ A nào cũng trồi lên trên dòng.
Anh nhìn chăm chăm vào mảnh giấy nhỏ, hình chữ nhật, loại giấy xấu, đang che dấu mọi sự việc. Một mối đe dọa không rõ rệt, toát ra từ đó. Nó có mùi tử khí.
* * *
Anh đến trước quảng trường nhà thờ Thánh Catơrin lúc nào không biết. “Ernest” Anh nghe một tiếng thầm thì phía sau lưng. Anh giật mình. Đó là Giôdép. Ông ta quàng một cái áo măng tô kiểu nhà binh và ông bước vào nhà thờ, không chút quan tâm đến Gơrebê. Gơrebê nhìn xung quanh, và một phút sau, anh vào theo ông. Anh thấy ông ta ngồi trên một chiếc ghế dài ở gần khu để đồ lễ. Giôdép ra hiệu cho anh phải cẩn thận. Gơrebê bước đến bàn thờ, nhìn xung quanh rồi quay lại quì bên Giôdép.
– Pônman bị bắt rồi. Giôdép thì thầm.
– Sao?
– Pônman. Sở Ghextapô đến bắt ông ta sáng nay.
Gơrebê thoáng nghĩ, không biết giấy gọi Elidabét có liên quan gì đến việc Pônman bị bắt không. Anh liếc nhìn Giôdép.
– Thế là có cả Pônman… anh nói
Giôdép ngước mắt lên.
– Còn ai nữa không?
– Vợ tôi có nhận được một giấy gọi của Sở Ghextapô.
– Bao giờ phải đến?
– Sáng nay, mười một giờ rưỡi.
– Anh có mang theo giấy gọi đấy không?
– Có, đây này.
Gơrebê đưa lá thư cho Giôdép.
– Sự việc xảy ra thế nào với Pônman.
– Tôi không biết, tôi không có ở đấy. Khi trở về, tôi thấy một viên gạch đặt khác lúc tôi đi. Chắc khi bị giải đi, Pônman đã xê dịch nó. Đó là một dấu hiệu mà chúng tôi đã quy định với nhau. Một giờ sau, tôi thấy người ta chất sách của ông ta lên một chiếc xe tải.
– Trong số đó, có quyển nào có thể nguy hại đến ông ta không?
– Tôi không tin là có. Tất cả những gì nguy hiểm, kể cả đồ hộp, đều được dấu ở chỗ khác rồi.
Gơrebê nhìn lá thư mà Giôdép vẫn cầm trong tay.
– Tôi đang định tìm ông ấy để hỏi xem nên làm gì đây?
– Vì thế tôi phải đến đây để báo tin cho anh biết. Chắc chắn là có người của Ghextapô nấp trong nhà ông ấy. – Giôdép đưa tờ giấy gọi trả về Gơrebê. – Anh tính làm gì?
– Tôi không biết. Tôi chưa có thì giờ để suy nghĩ. Ở địa vị tôi, ông làm gì?
– Tôi đi trốn, Giôdép đáp ngay, không lưỡng lự.
Trong bóng tối mờ mờ, bàn thờ ánh lên nhàn nhạt, Gơrebê nhìn Giôdép.
– Trước hết, tôi đến một mình hỏi xem chúng nó muốn gì đã, anh nói.
– Nếu chúng muốn bắt vợ anh, chúng sẽ không nói gì với anh đâu.
Gơrebê thấy lạnh toát người. Nhưng Giôdép chỉ phân tích sự việc một cách sáng suốt.
– Nếu chúng muốn bắt vợ tôi, chúng nó cứ bắt như đối với Pônman. Chắc là việc khác. Vì vậy mà tôi định đến một mình. Có thể đấy là một việc không quan trọng. Gơrebê nói, vẻ thiếu tin tưởng. Trường hợp ấy, bỏ trốn là sai lầm.
– Vợ anh có phải là người Do Thái không?
– Không.
– Thế thì lại khác rồi. Khi người ta là Do Thái thì thế nào cũng phải đi trốn. Anh không thể nói được rằng cô ta đi xa à?
– Không, cô ta làm ở xưởng, muốn kiểm tra dễ lắm.
Giôdép ngẫm nghĩ.
– Cũng có thể là người ta không có ý định bắt cô ta. Anh nói phải, chúng có thể đón cô ấy ở xưởng. Anh có đoán tại sao cô ta lại bị gọi không?
– Bố cô ta ở trại tập trung và có thể là cô ta bị một người đàn bà ở cùng nhà tố cáo. Bây giờ thì cũng có thể vì cô ấy lấy chồng nên bị chú ý.
– Anh hãy hủy tất cả những gì: thư, sách, báo, vân vân, anh thấy có ít nhiều nguy hiểm rồi anh đến một mình… Có phải anh định làm thế chứ gì?
– Vâng, tôi sẽ nói là hôm nay thư mới đến và tôi không thế đến xưởng gặp vợ tôi được.
– Chỉ có cách ấy là hơn. Cố tìm hiểu xem việc gì xẩy ra. Không có gì đến với anh được, vì anh lại sắp ra mặt trận. Người ta sẽ không giữ anh lại đâu. Nếu anh muốn tìm một chỗ trốn cho vợ anh, tôi sẽ cho anh một địa chỉ. Bây giờ thì anh đi đi. Tôi còn ở đây đến tối. – Giôdép ngừng một lát. - Ở gian xưng tội của cha Biđenđích ấy. Phòng có tấm biển đề chữ: “Đi vắng” ở ngoài cửa. Như vậy là tôi có thể ngủ được vài giờ.
Gơrebê đứng dậy. Tiếp theo bóng tối mờ dịu ở nhà thờ, ánh sáng bên ngoài gay gắt, làm anh tưởng ánh sáng đó chiếu xuyên qua người anh như ánh đèn pha của sở Ghextapô vậy. Anh đi chầm chậm qua các phố. Anh thấy hình như anh đang sống trong một cái lồng kính làm cho những vật gần gũi nhất cũng như xa vời không sao với tới được. Trước mắt anh, một người đàn bà bế một đứa bé trên tay đi qua, bỗng tượng trưng cho một trạng thái yên tâm tin tưởng và làm anh thấy thèm thuồng một cách đau đớn. Một người đàn ông cầm tờ báo ngồi trên một chiếc ghế dài, thể hiện sự vô tư và hai thanh niên vừa cười vừa nói với nhau đã thuộc về một thế giới xa xôi và vĩnh viễn tan nát. Anh cảm thấy anh như mắc phải một bệnh hủi vô hình đã làm cho anh bị cách biệt với tất cả mọi người chung quanh.
Anh quả quyết bước vào trụ sở của sở Ghextapô và đưa giấy gọi ra. Một tên SS dẫn anh đi theo các dẫy hành lang dài dến khu nhà bên phải. Hành lang sặc mùi hồ sơ lâu đời, mùi những phòng làm việc thiếu không khí và mùi trại lính. Anh còn phải đợi ở một gian phòng với ba người khác. Một người đứng gần cửa sổ, nhìn ra sân; người đó chắp tay sau lưng và gõ nhịp vào khoảng không, vẻ sốt ruột. Hai người kia ngồi co trên ghế, nhìn thẳng về phía trước. Một người đầu hói, luôn đưa tay lên chiếc môi sứt; nguời ngồi cạnh ông ta để ria mép kiểu Hítle và có đôi má nát nhẽo chảy thõng xuống, vẻ ủ rũ. Thấy Gơrebê đến, cả ba ngước nhanh mắt lên rồi làm như không biết có anh ở đấy.
Một tên SS mắt đeo kính đi vào. Tất cả đứng dậy, Gơrebê là người đứng gần tên đó nhất.
– Anh làm gì ở đây? Tên SS ngạc nhiên hỏi anh. Thông thường thì binh sĩ thuộc thẩm quyền tòa án binh cơ mà.
Gơrebê đưa tờ giấy gọi ra. Tên SS liếc qua.
– Có phải gọi anh đâu, gọi cô Crudơ nào đấy chứ…
– Đấy là vợ tôi. Chúng tôi mới lấy nhau được vài hôm nay. Nhà tôi làm ở xưởng trong thành phố. Tôi nghĩ tôi có thể đến thay được.
Gơrebê trình cuốn sổ gia đình anh đã mang phòng xa theo.
Tên SS phân vân gãi tai.
– Ồ, nhưng dù sao thì cũng chẳng phải việc của tôi… Anh đến phòng 72, ở tầng hầm thứ nhất.
Hắn trả giấy cho Gơrebê. Anh nghĩ, dưới hầm à. Theo như lời người ta đồn thì đó là chỗ bọn Ghextapô hay giở những hành vi đê mạt nhất.
Anh xuống thang gác. Hai người đàn ông đi ngược chiều, nhìn anh với vẻ ghen tuông; chắc họ tưởng Gơrebê quay ra với tự do còn chính họ thì chưa biết cái gì đang chờ đợi họ.
Phòng 72 là một phòng rộng có một tấm vách ngăn đôi. Một nhân viên đang ngồi ngủ gà sau một cái bàn bằng gỗ trắng. Gơrebê đưa giấy của anh cho hắn xem và giải thích vì sao lại là anh đến.
Người lính gật đầu.
– Anh có thể ký thay cho vợ anh được chứ?
– Vâng.
Người nhân viên đẩy hai tập hồ sơ để trên bàn ra.
– Anh ký vào đây. Anh ghi thêm ở dưới là: chồng Elidabét Crudơ với ngày và trụ sở phòng hộ khẩu đã đăng ký phép cưới cho anh. Bản kia là của anh.
Gơrebê chậm chạp ký. Anh không muốn để lộ rằng anh đang đọc tờ giấy in mà anh ký. Nhưng người nhân viên đã nóng nẩy đẩy đống hồ sơ.
– Trời ơi! Tro hài cốt đâu rồi! sau cùng hắn thốt lên. Hônman, anh làm lộn bậy cả lên rồi! Đem hộp cốt Crudơ lại đây.
Một tiếng càu nhàu đáp lại hắn sau bức vách. Gơrebê đã đọc được là anh công nhận đã nhận hộp hài cốt tội phạm chính trị Bécna Crudơ. Ở tờ giấy kia, có ghi lý do chết: tim ngừng đập.
Người nhân viên đã biến sau tấm vách. Hắn lại trở ra ngay, đem theo một hộp xì gà gói trong một mảnh giấy bọc hàng quá ngắn. Người ta còn đọc được chữ Lơke[100] ở một góc hộp, và tờ giấy vàng bọc chiếc hộp đã để lộ ra ở đôi chỗ hình người da đen mang nhãn hiệu của nhà sản xuất.
– Tro hài cốt đây, người nhân viên nhìn Gơrebê với vẻ ủ rũ và nói. Anh là quân nhân nên tôi không cần phải dặn là bắt buộc phải giữ hết sức bí mật. Không được cáo phó, không được đăng báo, không được làm lễ cầu hồn ở nhà thờ. Tuyệt đối im lặng đấy, nghe chưa?
– Vâng.
Gơrebê cầm hộp đi ra.
Anh quyết định ngay là sẽ không nói gì với Elidabét. Cô biết tin cha cô bị chết lúc nào cũng vẫn là sớm. Chắc chắn sở Ghextapô không buồn đưa giấy báo lần thứ hai. Đúng lúc này, anh buộc lòng phải để cô lại một mình thì tại sao lại còn báo tin cha cô mất để đầy đọa cô thêm gấp bội?
Anh đi chậm bước trên đường về nhà thờ Thánh Catơrin. Cảnh sống lại trở lại, trên hè phố. Mối đe dọa đã tiêu tan, nó đã biến thành cái chết xa lạ và vô hại không sao tránh khỏi như một việc đã rồi. Anh đã quen với cái chết của những người khác. Hơn nữa, anh chỉ được gặp cha Crudơ khi anh còn nhỏ.
Anh cắp chặt hộp xì gà trong tay. Rất có thể là hộp đó không đựng tro hài cốt ông Bécna Crudơ. Hônman rất có thể để lẫn hộp, vả lại ở lò thiêu người, chắc gì người ta đã chịu khó để riêng tro của hàng trăm xác chết ra, giả sử rằng việc đó có làm được. Một người đốt lò đổ một xẻng tro vào mỗi hộp rồi sau đó người ta viết tên những xác người bị thiêu lên trên. Gơrebê tự hỏi, không biết người ta còn làm việc ấy làm gì cho mệt. Đó là một sự vô nhân đạo có lẫn tính chất quan liêu làm cho sự vô nhân đạo ấy lại càng vô nhân đạo hơn.
Anh tự hỏi không biết nên làm gì với đống tro này đây. Anh có thể vùi nó ở bất cứ chỗ nào trong những nhà đổ, không thiếu gì chỗ. Anh cũng có thể đem các thứ đó đến nghĩa địa: nhưng nếu thế, anh lại phải được phép, phải có một chỗ ở nhất định và Elidabét sẽ lại biết.
Anh đi qua nhà thờ và dừng lại trước gian xưng tội của cha Biđenđích. Tấm biển “Đi vắng” treo trên cửa. Anh kéo tấm rèm xanh. Giôdép nhìn anh. Ông vẫn thức và đang ngồi ở tư thế sẵn sàng có thể đẩy người định vào bất ngờ bắt ông và xô chạy ra cửa. Gơrebê thả tấm rèm xuống và ra ngồi trên ghế gần khu để đồ lễ. Một lát sau Giôdép ra. Gơrebê chỉ cái hộp cho ông.
– Chúng gọi tôi đến để đưa cái này đây, tro hài cốt ông Crudơ.
– Không còn gì nữa à?
– Thế này cũng là đủ rồi. Ông có tin gì của Pônman không?
– Không.
Họ cùng cúi đầu, nhìn vào cái hộp.
– Một hộp xìgà, Giôdép nói. Thông thường chỉ là một hộp cáctông, một hộp đồ ăn hay một cái túi giấy. Một hộp xìgà cũng gần như một cái áo quan rồi đấy. Anh định làm gì bây giờ? Bỏ lại đây ư?
Gơrebê lắc đầu. Anh vừa nảy ra một ý nghĩ.
– Tôi định đem nó bỏ vào nhà tu, anh nói, đấy cũng là một thứ nghĩa địa.
Giôdép gật đầu.
– Tôi có thể giúp ông được việc gì không? Gơrebê hỏi.
– Anh có thể ra cửa hẻm xem ở ngoài phố có gì khả nghi không. Nếu trong năm phút nữa, anh không trở lại, như thế có nghĩa là yên ổn cả. Tôi phải đi đây. Người bõ bài Do Thái làm việc từ một giờ trở đi.
– Được lắm.
Gơrebê đứng chờ ở ngoài nắng. Vài phút sau, Giôdép cũng ra. Ông đi sát gần anh, và không nhìn vào anh.
– Cố gắng lên nhé, ông nói thì thầm.
– Cố gắng nhé.
Gơrebê trở vào nhà thờ và đến khu hậu lang. Giờ này nơi đó vắng ngắt. Hai con bướm vàng, cánh lốm đốm đỏ bay lượn quanh một bụi cây đầy hoa trắng nhỏ. Bụi cây này ở rìa mộ linh mục Alôxiuýt Blumơ. Gơrebê lại gần để xem cho kỹ. Hầu hết các mộ đều bị sứt mẻ: bệ mộ này có một lỗ hổng hình như ăn thông vào trong. Chỗ dấu rất tiện.
Gơrebê xé một tờ giấy trong quyển sổ tay của anh và viết lên trên “Hộp này đựng hài cốt một tù nhân theo đạo Thiên Chúa” rồi nhét mảnh giấy đó vào tờ giấy gói hộp. Anh lấy lưỡi lê xén một vầng cỏ cho cái hố được rộng hơn. Anh đẩy hộp vào trong và đặt vầng cỏ vào chỗ cũ. Như thế là Bécna Crudơ – nếu đích thật là tro hài cốt ông – đã được nằm tại đất thánh, dưới chân một vị chức sắc cao cấp của Giáo hội.
Gơrebê đến ngồi trên bức tường nhỏ của tu viện. Mặt trời đã sưởi nóng những viên gạch. Anh nghĩ, có lẽ đó là một điều báng bổ hay một hành động vô ích theo tình cảm. Bécna Crudơ theo đạo Giatô mà Giáo hội thì cấm ngặt việc hỏa thiêu. Trong hoàn cảnh này, đành phải tha thứ. Và nếu cái hộp lại không đựng tro ông Crudơ mà của nhiều nạn nhân khác, theo đạo Tin lành, Do Thái giáo chẳng hạn thì điều tai hại cũng không to lắm. Đức Giêbôva[101], Chúa của những người theo đạo Tin lành hay Chúa của những người theo đạo Giatô cũng không vì điều ấy mà phiền lòng được.
Anh nhìn lần cuối nấm mồ mà anh đã nhét tro hài cốt của bố vợ anh – như con chim tu hú dấu trứng. Khi mọi việc đã xong xuôi, một cảm giác chua chát tràn ngập lòng anh. Người mới chết này mà anh đã ôm trong tay, dần dần có ý nghĩa to rộng hơn, đã trở thành hiện thân của Pônman, của Giôdép, của tất cả cảnh khốn cùng mà anh đã chứng kiến, của cả cuộc chiến tranh, cả số phận của chính anh.
Anh đứng dậy. Ở Pari anh đã đến thăm mộ người chiến sĩ vô danh, có Khải hoàn môn trang hoàng lộng lẫy, những chiến thắng lớn của nước Pháp đã được ghi vào đó. Anh thấy rút cục thì hình như mảnh cỏ xanh được đắp lại, nấm mồ thủng, hộp xìgà còn tượng trưng cho một cái gì gần như thế và có lẽ còn vĩ đại hơn thế nữa – chỉ thiếu vầng quang vinh và những chiến thắng.
* * *
– Tối nay chúng ta ngủ ở đâu? Ở nhà thờ à? Elidabét hỏi.
– Không. Một chuyện kỳ diệu đã xảy ra. Anh quay lại nhà bà Vittơ. Bà ta có một phòng để không. Con gái bà mới về quê được vài hôm nay. Chúng ta có thể ngủ ở đó, và sau khi anh đi rồi, em có thể ở lại đấy nữa. Anh đã mang cả đồ đạc của chúng ta đến đấy rồi. Hôm nay, em nghỉ phải không?
– Vâng, kể từ chiều nay. Bây giờ anh không còn phải chờ em nữa.
– Ơn Chúa! Chiều nay chúng ta phải ăn mừng việc đó mới được! Chúng ta sẽ thức suốt đêm và ngày mai chúng ta sẽ ngủ đến trưa.
– Phải, chúng ta sẽ ở ngoài vườn cho đến khi nào tất cả các vì sao mọc lên. Nhưng bây giờ em phải đi mua ngay một cái mũ đã.
– Mũ à?
– Phải, mua hôm nay hoặc không bao giờ mua cả.
– Nhưng em nhất định mua mũ để làm gì chứ? Em định đội mũ ở ngoài vườn tối nay à?
Cô cười.
– Sao lại không? Nhưng việc ấy không đáng kể, việc đáng kể là hãy đi mua mũ. Đó là một hành động có ý nghĩa tượng trưng. Một cái mũ giống như một lá cờ vậy. Người ta mua mũ khi người ta sướng hay người ta khổ. Anh có hiểu không?
– Không. Nhưng không hề gì, chúng ta cứ mua mũ để ăn mừng việc em được tự do đã. Phải mua mũ trước khi ăn! Không biết giờ này còn tiệm nào mở cửa nữa không nhỉ? Có cần phải phiếu vải không?
– Em có đây, và em còn biết ở đâu có mũ nữa cơ.
– Được, thế chúng ta đi mua một cái mũ hợp với cái áo dạ hội của em đi.
– Áo dạ hội không cần có mũ. Không, chúng ta mua mũ, chỉ có thế thôi, không cần để làm gì cả, để chúng ta nhớ rằng không còn xưởng nữa. Cần lắm đấy chứ.
Một phần mặt cửa hàng vẫn còn nguyên. Chỗ còn lại được thay bằng ván gỗ. Họ dừng lại đó. Chỗ ấy có bầy hai cái mũ. Cái thứ nhất có gài hoa giả, cái thứ hai gài lông mầu sặc sỡ. Gơrebê cố hình dung Elidabét đầu đội các thứ mũ này nhưng không nổi. Đúng lúc đó, anh thấy một người đàn bà tóc bạc trắng sắp sửa ra đóng cửa hàng. Anh nói: “Mau lên”.
Bà già dẫn họ ra sau quầy hàng, đèn thắp sáng trưng. Ngay lúc đó, giữa hai người đàn bà bắt đầu một cuộc đối thoại mà Gơrebê không hiểu gì. Anh lại ngồi gần cửa, trên một chiếc ghế vàng mỏng mảnh. Bà già bật đèn ở tấm gương ba mặt và đi tìm hộp cáctông và vải. Cái cửa hiệu tồi tàn bỗng biến thành một động tiên. Những chiếc mũ nhỏ mỏng mảnh mầu xanh, hồng và trắng như hoa nở trên các quầy, còn những mảnh vải có sợi bạc, óng ánh, có vân, nhẹ, bay phấp phới quanh hai người đàn bà. Người ta tưởng họ đang thử một vương miện và một tấm khăn choàng cho một buổi lễ bí mật. Elidabét tiến, lùi, quay đi, quay lại trước cái gương phản ánh mãi không hết cái khung cảnh hư hư thực thực này. Gơrebê ngồi trong bóng tối sửng sốt quan sát cảnh cái thế giới khác đã chấm dứt ngày vừa trôi qua một cách kỳ lạ. Elidabét không bị ràng buộc, trở lại với chính mình, đang mải mê làm cái việc duyên dáng và sâu sắc của người đàn bà, thí nghiệm những vũ khí của giới mình một cách nghiêm trang và ý nhị. Anh không để ý nghe mà cũng thấy những lời đối thoại kín đáo và đơn điệu giữa hai người đang xoa dịu tai anh như tiếng suối rì rào. Elidabét đi đi lại lại trong vòng ánh sáng như từ ở người cô tỏa ra và niềm hạnh phúc bình dị bao quanh cô mạnh đến nỗi Gơrebê không còn biết đâu là cái đúng, cái thật trong cái chết và mối lo của ngày hôm nay hay trong tấm gấm thêu nhấp nhánh.
– Một cái mũ calô tròn, Elidabét nói. Một cái mũ calô thường, tròn, che kín được cả đầu.
[99] Theo kinh thánh thì Chúa Giêsu đã có lần làm phép biến được một số ít bánh mì và cá thành rất nhiều bánh mì và cá để cho đông đảo các tín đồ đang nghe Chúa truyền đạo ở bờ hồ Tibêriađơ ăn và tiếp tục nghe lời Chúa phán. Chúa Giêsu giải thích đó là của Trời ban cho những người có lòng tin vào Chúa.
[100] Lơke, thủ đô nước Cộng hòa Ả rập thống nhất
[101] Danh từ tôn kính nhất trong tiếng nói của dân tộc Hêbrơ (Do Thái) để gọi Chúa của họ. Còn có tên nữa là Davê.