← Quay lại trang sách

Chương 24

Cửa sổ hình chữ nhật đầy sao nhấp nhánh, có cây bạch anh quấn quanh. Những chùm quả đung đưa lặng lẽ như những quả lắc chiếc đồng hồ vô hình.

– Bây giờ em không khóc nữa, Elidabét nói. Mà dù em khóc, anh cũng đừng để ý. Không phải em khóc mà là một cái gì mạnh hơn em và em không nén được đấy. Thông thường, người ta chỉ biết làm thế thôi, nhưng người ta cũng không buồn đâu. Em thấy sung sướng lắm.

Vai cô ngả trên tay anh, mái tóc đen trên đầu cô ghé sát đầu anh. Đồ đạc có một cái giường rộng, kiểu giường nông thôn, bằng gỗ hạnh đào, thành giường chạm trổ, nhô lên như một bức tường. Một cái tủ có ngăn cũng bằng gỗ hạnh đào chiếm một góc phòng, trước cửa sổ có cái bàn và hai cái ghế. Dưới một quả cầu bằng kính, một vòng hoa cô dâu đã ngả mầu vàng và ở sát tường, một cái gương lớn phản chiếu ánh sáng rung rinh ngoài cửa sổ.

– Em sung sướng lắm, Elidabét nói. Mấy tuần nay, xẩy ra biết bao nhiêu chuyện làm em không sao nhớ hết được. Em cố nhớ lại mà không nhớ nổi. Đêm nay anh phải kiên nhẫn với em.

– Được, nhưng giá trước khi đi, anh có thể đưa em ra khỏi thành phố, đến một làng nào nhỉ.

– Anh đã đi rồi, em ở đâu cũng được.

– Em nghĩ lầm, các làng không bị ném bom.

– Bom mãi cũng có ngày phải chấm dứt chứ, trong thành phố này, gần như không có căn nhà nào nguyên vẹn cả. Vả lại, em còn làm ở xưởng thì không thể đi đâu xa. Có được căn phòng nhỏ tuyệt đẹp này và bà Vittơ, em sung sướng quá.

Hơi thở của cô trở lại bình thản.

– Em đã tự giải quyết cho em xong rồi, đừng cho em là điên nhé. Em sung sướng lắm, nhưng niềm vui sướng ấy chập chờn bất định. Đấy không phải là niềm hạnh phúc yên ổn, như của loài bò đâu!

– Niềm hạnh phúc của loài bò? Gơrebê hỏi. Ai cần thứ đó?

– Em không biết. Đối với em thì tin rằng em có thể thích ứng với niềm hạnh phúc đó được.

– Thế thì anh cũng vậy. Người ta khó tính vì người ta không thể tự đem hạnh phúc đó lại cho mình được.

– Mười năm hạnh phúc được bảo đảm, nhàm chán và như của loài bò. – Em nghĩ rằng cuộc đời sống như thế cũng không có gì đáng khinh cả.

Gơrebê cười.

– Chính đời sống mê ly kỳ cục này của chúng ta làm chúng ta nhớ cuộc sống trưởng giả ấy. Ông cha chúng ta, những người nguyền rủa thứ hạnh phúc của loài bò ấy, lại không nghĩ như vậy, và thèm khát phiêu lưu.

– Bây giờ, chúng ta trở thành những người giản dị với những ham thích giản dị, – Elidabét nhìn anh. – Anh muốn ngủ lắm phải không? Ngủ một giấc thẳng đến sáng, phải không? Biết bao giờ anh mới được ngủ như thế vì chiều mai anh đã đi rồi?

– Trong lúc đi đường, anh có đủ thời gian để ngủ. Phải đi vài ngày mới tới nơi.

– Ở ngoài ấy, có lúc nào anh may mắn kiếm được một cái giường không?

– Không thể nào có được. Từ ngày mai, điều may mắn nhất là kiếm được một mảnh ván hay một ổ rơm. Nhưng rồi cũng quen đi. Không có gì quan trọng, sắp đến mùa hè rồi. Chỉ có mùa đông ở Nga là khủng khiếp thôi.

– Có lẽ còn phải ở đấy một mùa đông nữa.

– Nếu cứ tiếp tục rút lui thì mùa đông sắp tới bọn anh sẽ ở Balan hay ở ngay nước Đức rồi. Trời đỡ lạnh hơn và cái lạnh đó cũng quen rồi.

Anh nghĩ, bây giờ chắc cô ta sắp hỏi mình bao giờ sẽ lại về phép đây. Sao mình chỉ muốn mọi việc đều xong đi cho rồi! Elidabét sẽ đặt những câu hỏi không sao tránh được và mình sẽ trả lời bằng những câu mà cô ta đã biết rồi, mình muốn xong hết đi cho rồi. Ở đây, mình không phải là mình nữa, và cái gì ở mình cũng nhậy cảm đến nỗi mình như người đã bị lột da.

Anh đưa mắt nhìn cây bạch anh, rồi nhìn bóng nó phản chiếu trong gương. Anh thấy hình như có một điều vô cùng bí mật đang ẩn nấp sau cửa sổ đó, lúc nào đó cũng có thể xuất hiện một cách bất ngờ.

Đúng lúc đó, họ nghe thấy tiếng còi báo động.

– Chúng mình cứ ở lại đây, Elidabét nói. Em không muốn mặc quần áo rồi chạy ra hầm đâu.

– Tùy em.

Gơrebê ra cửa sổ. Anh đẩy lùi bàn và nghiêng người ra ngoài. Đêm sáng và lặng lẽ. Mảnh vườn ánh lên dưới ánh trăng. Đêm dễ làm cho người ta mơ mộng và tạo điều kiện lý tưởng cho những cuộc ném bom. Anh thấy bà Vittơ chạy ra vườn mặt nhợt nhạt.

– Tôi định gọi anh! – Vừa thấy anh, bà đã nói lớn trong tiếng còi báo động.

Gơrebê gật đầu. Anh còn nghe nói thêm: “Hầm trú ẩn. Phố Laibơnít”.

Anh lại gật đầu.Rồi anh thấy bà lại chạy về nhà. Anh chờ một phút. Bà ta không ra nữa. Cả bà cũng không ra hầm ẩm nấp. Anh không ngạc nhiên chút nào. Có phải căn nhà và mảnh vườn này đã được một phép màu bí mật nào che chở không. Anh thấy hình như đã có một khu vực yên tĩnh và bình dị bao bọc họ, giữa những tiếng náo động của thành phố. Những rặng cây đứng canh gác sau bãi cỏ màu trắng nhạt. Những bụi cây cũng đứng sững và cả những chùm nho cũng rung rinh trong bầu không khí lặng lẽ nữa. Hòn đảo hòa bình tắm trong ánh trăng xanh đã được một bức tường thành vô hình bảo vệ làm bão tố phải dừng lại ở đó.

Gơrebê quay lại, Elidabét đã ngồi đậy. Vai cô ánh lên một màu sáng đục và bóng tối lờ mờ làm bộ ngực chắc và nở của cô như to hơn. Mồm cô màu sẫm và hai mắt sáng trông như trong suốt. Cô ngồi rất thẳng, hai tay chống gối, như một người bỗng từ một thế giới nào đến và Gơrebê thấy cô có một vẻ bí mật lạnh lùng giống như khi cô ngủ ở ngoài vườn, dưới ánh trăng.

– Bà Vittơ cũng ở lại nhà, Gơrebê nói để phá tan sự im lặng.

– Lại đây anh.

Đi qua tấm gương, anh không nhận ra được mặt mình nữa. Đó là mặt một người khác.

– Lại đây anh. Elidabét nhắc lại.

Gơrebê cúi xuống gần. Cô đưa tay ra ôm anh.

– Việc gì xảy ra cũng mặc, cô nói.

– Không có gì đâu, anh nói. Ít ra cũng là trong đêm nay.

Không biết anh đã tìm ở đâu ra sự bảo đảm cho những lời nói ấy. Có lẽ trong mảnh vườn dưới ánh trăng, trong tấm gương phản chiếu khuôn mặt anh đã thay đổi hẳn, trên đôi vai long lanh màu xà cừ của Elidabét và cảnh bình dị bao la bỗng ập xuống đáy lòng thầm kín của anh.

– Không có gì xảy ra đâu, anh nhắc lại.

Cô đẩy chăn mềm cho rơi xuống đất. Cô trần truồng và trông thật đẹp với cặp chân dài, thon và khỏe, với đôi vai và cặp vú lượn thoai thoải, thắt đáy ở ngang lưng rồi nở ra ở dưới cặp mông to dần để sau cùng tụ vào điểm tam giác của phần sinh dục. Đó không phải là vóc dáng một thiếu nữ nữa, mà là của một người đàn bà.

Anh cảm thấy cô ở trong tay anh. Cô tuột xuống dưới người anh và anh cảm thấy như có hàng nghìn bàn tay bé nhỏ đang níu lấy anh, đỡ thân anh, vuốt ve da thịt của chính anh. Đây không còn là sự chiếm hữu cuồng nhiệt của những ngày đầu nữa, mà chỉ là một nhịp điệu êm dịu phát ra theo mỗi tiếng đập, nhấn chìm dần những lời trao đi đổi lại, những hình hài hữu hạn của thân thể họ, cả chân trời đầy đe dọa, cả ý thức của họ về chính bản thân mình…

Anh ngẩng đầu lên. Hình như anh ở rất xa trở về. Anh lắng tai nghe. Anh đi vắng đã bao lâu rồi? Bên ngoài, không một tiếng động. Anh tưởng cảm giác của anh đã làm anh bị lầm lẫn và anh lại tiếp tục lắng nghe. Vẫn không có gì, không một tiếng còi, không một tiếng gọi của lính cứu hỏa, không một tiếng nổ. Anh nhắm mắt lại và ngả người xuống. Rồi anh lại tỉnh dậy.

– Chúng không đến đâu, Elidabét ạ.

– Có đấy, cô nói thì thầm.

Họ nằm bên nhau. Gơrebê có thể trông thấy cả chăn dưới sàn, tấm gương soi, cửa sổ mở. Thoạt tiên anh tưởng đêm không bao giờ chấm dứt, nhưng bây giờ anh đã cảm thấy thời gian lặng lẽ trôi qua. Chùm bạch anh lại đung đưa trong gương và có tiếng động từ phía chân trời xa xôi vọng lại. Anh quay lại với Elidabét. Cô đã nhắm mắt. Mồm hơi hé mở. Cô thở từ từ từng hơi dài. Cô vẫn chưa hồi tỉnh mà anh thì đã trở về với thực tại. Ý nghĩ của anh bắt đầu hoạt động. Bao giờ Elidabét hồi tỉnh lại cũng lâu. Sao mình cũng muốn có thể buông thả cho mê mẩn hoàn toàn và mãi mãi! Anh thèm được như cô, yêu cô và hơi sợ cô, vì cái năng lực có thể từ bỏ tất cả của cô. Cô ở nơi xa, ở một thế giới xa lạ, mà anh không thể theo đến được, dù trong chốc lát; có lẽ đó là điều làm anh sợ. Anh chợt cảm thấy mình lẻ loi và thua kém cô một cách kỳ lạ.

Elidabét mở mắt.

– Máy bay đi đâu rồi?

– Anh không biết.

Cô đưa tay lên vuốt tóc.

– Em đói, cô nói.

Gơrebê đứng dậy và đi tìm vài hộp đồ ăn,

– Anh cũng vậy. Chúng ra có thiếu gì thức ăn đâu.

– Kìa, thịt ngỗng ướp và thịt bò lạnh. Lại có cả patê thỏ và mứt nữa.

– Chúng ta ăn patê thỏ và mứt nhé.

Gơrebê mở hộp. Anh không khó chịu khi thấy Elidabét cứ nằm trên giường để mặc anh làm lấy và không làm gì để phụ anh. Anh không thích người đàn bà còn đang được bí mật và bóng tối che phủ bỗng biến thành một bà nội trợ bận rối mù.

– Anh thấy hơi xấu hổ vì lấy các thực phẩm này của Anphôn, anh nói. Anh không nhã nhặn với hắn lắm.

– Có thể thế, nhưng anh có thấy rằng hắn cũng không nhã nhặn với những người khác không? Thế là hòa. Anh có đi đưa đám hắn không?

– Không. Có nhiều đảng viên mặc quân phục quá. Anh chỉ để ý đến bài diễn văn của đại tá Hinđơhơrăng. Hắn nói rằng tất cả chúng ta phải sống theo như Anphôn đã sống và theo những lời trối trăng của Anphôn. Hắn muốn nói đến cuộc chiến đấu một còn một mất chống kẻ thù. Nhưng những lời trối trăng của Binđinh lại hơi khác. Hắn đang mặc quần áo ngủ, và ở trong hầm với một con bé tóc vàng, chính con bé này cũng mặc áo ngủ.

Gơrebê úp hộp thịt và hộp mứt vào hai cái đĩa mượn của bà Vittơ. Rồi anh cắt bánh và mở một chai rượu. Elidabét đứng dậy. Cô đi lại khỏa thân ở trong phòng.

– Trông em không có vẻ người đàn bà cặm cụi suốt đời vá áo capôt nhà binh chút nào. Trông em như một người ngày nào cũng tập thể dục thì đúng hơn.

Cô cười.

– Tập thể dục ư? Người ta chỉ tập thể dục khi nào người ta tuyệt vọng thôi.

– Thật à? Anh chưa bao giờ nghĩ như thế đấy.

– Đó là một phương thuốc rất tốt: co ruỗi chân tay cho đến khi mệt lả, chạy đến lúc đứng không được nữa, cọ sàn nhà và rửa phòng đến mười hai lần, chải đầu cho dứt tóc ra, vân vân.

– Lảm thế khỏi tuyệt vọng ư?

– Phải, nhưng chỉ khỏi được nỗi tuyệt vọng trước hạn độ cuối cùng thôi. Khi người ta không muốn suy nghĩ gì. Đối với nỗi tuyệt vọng cao độ nhất, thì không có thuốc gì chữa nổi, đành phó mặc và cho xong đời đi thôi …

– Rồi sau đó thì sao?

– Sau thì phải chờ cho cuộc đời tự nó trở lại dần dần. Em muốn nói, cuộc đời làm chúng ta thở hít được chứ không phải cuộc đời mà chúng ta đang sống đâu.

Gơrebê nâng cốc.

– Theo ý anh, thì đối với tuổi chúng ta, chúng ra biết hơi nhiều về sự tuyệt vọng. Hãy quên điều ấy đi.

– Vâng, nhưng chúng ta cũng biết hơi nhiều về sự lãng quên nữa, Elidabét nói. Chúng ta cũng hay quên sự lãng quên đi.

– Trái lại, Gơrebê nói, chúng ta chớ nên quên cầu nguyện cho bà Klaine, nhờ có bà ta chúng ta mới có những hộp thức ăn này, và bà Vittơ nữa, nhờ bà chúng ta có căn phòng và mảnh vườn này!

Họ uống cạn cốc. Rượu mát và thơm. Gơrebê lại rót. Ánh trăng soi vào đó làm rượu thành màu vàng.

– Anh yêu quí, Elidabét nói, cùng thức với nhau sao đẹp thế, ban đêm nói chuyện với nhau thật là thú vị!

– Đúng đấy, ban đêm em là đứa con của Chúa, đầy sức trẻ và sinh lực, ban ngày em chỉ là một con bé nghèo khổ chuyên vá áo capôt nhà binh. Anh, một người lính…

– Người ta vốn dĩ thế nào thì ban đêm người ta như thế! Người ta sẽ ra sao thì ban ngày người ta là thế.

– Có lẽ, - Gơrebê cúi nhìn bánh mì, rượu và đĩa. – Nhưng nếu như thế thì chúng ta chẳng là những người sống hời hợt lắm sao! Đêm đêm chúng ta chỉ ăn và ngủ.

– Còn yêu nhau nữa, cái ấy không phải là hời hợt đâu.

– Và uống nữa.

– Và uống nữa, Elidabét đưa cốc ra và nói.

Gơrebê cười.

– Lẽ ra phải buồn rầu và ủy mị, phải nói những chuyện sâu sa và cao siêu với nhau, chúng ta lại chén một nửa miếng patê nhỏ, chúng ta thấy cuộc đời tuyệt đẹp và chúng ta cảm ơn Chúa.

– Như thế có hơn không?

– Thế là đúng. Khi người ta không chờ mong gì ở cuộc đời, thì tất cả cái gì cuộc đời cung cấp cho ta đều là một phép tiên được phát không.

– Anh học được điều ấy ở mặt trận đấy à?

– Không, học được ở đây.

– Đó là một nguyên tắc tốt, và nói tóm lại thì người ta không cần biết điều gì khác nữa.

– Phải ngoài cái ấy ra, chỉ cần một chút may mắn nữa thôi.

– Em cho là chúng mình đã có chút may mắn ấy chưa?

– Rồi, chúng ta đã có tất cả những cái gì mà con người hằng mong ước.

– Em không lấy làm buồn là cái đó đã hết rồi ư?

– Chưa hết đâu, nó chỉ thay đổi hình thức thôi.

Cô nhìn anh.

– Anh nói dối đấy, anh nói tiếp. Sự thật thì anh buồn đến chết được. Đến nỗi anh phải tự hỏi không biết ngày mai, anh có chịu được nổi cảnh chia ly không. Nhưng khi anh cố tưởng tượng rằng cần phải làm gì cho em khỏi buồn, thì anh chỉ thấy có một khả năng: là anh không bao giờ gặp em cả. Phải, thế thì anh sẽ không buồn; anh sẽ cảm thấy trống trải và lãnh đạm với tất cả, và khi ra đi, anh sẽ nghèo gấp ngàn lần hơn lúc trở về. Cứ tưởng tượng thế, là nỗi buồn của anh không còn là buồn nữa, mà là một thứ hạnh phúc đen ngòm, mặt trái của hạnh phúc.

Elidabét đứng dậy.

– Có lẽ anh trình bày không được rõ ràng lắm, Gơrebê nói. Em hiểu anh muốn nói gì chứ?

– Em hiểu và anh trình bày rõ ràng lắm, không thể nào nói rõ hơn được. Vả lại, em cũng biết trước là anh sẽ nói điều ấy mà.

Cô sát lại gần anh. Anh cảm thấy cô ở trong tay anh. Bỗng nhiên cô không có tên nữa và đồng thời cô lại có đủ các thứ tên trên đời. Thế là bắt buộc anh phải thừa nhận một cách rõ ràng không che đậy được; những chuyến đi và những chuyến về, sự có mặt và vắng mặt, cái chết và cái sống, quá khứ và tương lai, tất cả đều nhòa lẫn với nhau trước bộ mặt lạnh như đá của vĩnh viễn xa xăm – đất như xụt dưới chân anh, anh cảm thấy anh đang trôi xuống vực thẳm với Elidabét mà anh vẫn ôm trong tay. Mắt anh nhắm lại và anh buông thả mình với cô và trong tay cô.

* * *

Đó là buổi chiều cuối cùng của họ. Họ ngồi trong vườn. Con mèo lướt qua như một cái bóng. Nó sắp sinh con và hình như điều bí mật lớn lao của tạo hóa đã làm nó thấy cô đơn, nó không để ý đến ai cả.

– Em hy vọng chúng ta sẽ có một đứa con. Elidabét bỗng nói.

Gơrebê kinh ngạc nhìn cô.

– Con à? Sao vậy?

– Sao lại không?

– Một đứa con! Thời buổi này ư! Em cho là em sắp có con à?

– Có thể.

– Em ạ, anh cảm thấy đáng lẽ anh phải nói với em điều gì, phải hôn em, phải tỏ ra âu yếm và ngạc nhiên. Elidabét, anh không thể làm thế được! Anh thấy ý nghĩ đó lạ lùng quá đối với anh. Anh ít nghĩ đến điều ấy lắm!

– Không cần phải nghĩ, anh ạ. Nói cho cùng thì đấy không phải là việc của anh. Vả lại em cũng không chắc lắm đâu.

– Một đứa con! Trong chiến tranh sau, nó sẽ bằng tuổi chúng ta trong chiến tranh này. Và em thử nghĩ đến tất cả cảnh đau khổ sẽ theo đuổi nó từ khi nó mới ra đời cho đến những năm đầu của nó!

Con mèo cái lại xuất hiện. Nó đi về phía nhà bếp.

– Ngày nào cũng có trẻ con ra đời, Elidabét nói.

Gơrebê nghĩ đến Đoàn Thanh niên Hítle và những đứa trẻ đã tố cáo bố mẹ chúng với sở Ghextapô.

– Nói đến những việc ấy làm gì? Anh nói. Đó chỉ là một điều mong ước thôi, phải không?

– Anh không muốn làm bố à?

– Anh không biết. Thời bình thì có lẽ là muốn đấy. Anh chưa nghĩ đến việc ấy. Chung quanh chúng ta, tất cả mọi thứ đều thối nát và độc địa đến nỗi phải nhiều năm nữa không khí mới trong lành được. Trong hoàn cảnh ấy thì có con làm gì?

– Đúng vì thế mà cần phải có con đấy, Elidabét nói.

– Tại sao vậy?

– Để dậy cho nó chống với tất cả những gì đã đầu độc chúng ta. Nếu những ai chống lại chế độ này mà không muốn có con thì thế là hết. Nếu chỉ riêng bọn man rợ có con thì ai sẽ lập lại trật tự trên đời này?

– Vì thế mà em muốn có con ư?

– Không, đó chỉ là một ý nghĩ trừu tượng chợt đến với em.

Gơrebê nín lặng. Anh không có gì để phản đối lý luận về bọn man rợ.

– Em đi nhanh quá, anh không theo kịp được em. Anh chưa quen hẳn với ý nghĩ làm chồng mà em đã cho anh làm bố rồi!

Elidabét cười và đứng dậy.

– Trong tất cả cái đó, anh quên mất điều căn bản, cô nói. Em muốn có một đứa con với anh, anh có hiểu không? Và bây giờ thì em đi lo bữa ăn với bà Vittơ đây. Nó phải là một kiệt tác về đồ hộp!

Gơrebê ngồi lại một mình ở ngoài vườn. Trời đầy những đám mây hồng nhỏ. Ngày đã tàn. Một ngày trôi qua vô ích. Anh đã tự kéo dài thêm hai mươi bốn tiếng nữa lần đi phép này. Bây giờ trời đã về chiều và một giờ nữa anh phải ra đi.

Anh đã đến trạm đón tiếp những người lánh nạn một lần chót. Vẫn không có tin tức gì của bố mẹ anh. Anh đã làm tất cả những gì anh có thể làm được cho Elidabét. Bà Vittơ tuyên bố sẵn sàng nhận Elidabét ở với bà. Anh đã xem kỹ hầm nhà: nó được xây dựng cẩn thận nhưng chưa đủ sâu để có thể được coi là một cái hầm chắc chắn. Anh cũng đã đi ra hầm công cộng ở phố Laibơnít. Nó cũng tốt như đa số hầm của thành phố. Anh khoan khoái buông mình xuống ghế bành. Tiếng bát đĩa chạm vào nhau từ dưới bếp vọng tới anh. Sao lần nghỉ phép này của anh dài và đầy đủ thế! Ba năm nghỉ phép chứ không phải là ba tuần lễ. Đôi lúc anh thấy hình như tất cả những gì anh đã vội vã xây dựng lên đều dựa trên cái nền rung động, nhưng anh không muốn nghĩ đến điều ấy.

Anh nghe thấy tiếng Elidabét. Thế là anh lại sực nhớ đến điều cô đã nói về đứa con. Mảnh ván ngăn bỗng rơi mất, để lộ một mảng tương lai vô định giống như một góc vườn. Không bao giờ anh có đủ sức và đủ can đảm vượt qua giới hạn đó một mình. Quả thật là khi về đến nhà, anh có mơ ước để lại sau anh một cái gì đúng là của riêng anh và mang tên anh – nhưng ý nghĩ của anh chưa bao giờ dám đi xa đến thế. Anh ngước mắt nhìn về phía những cành cây đinh hương mà ánh nắng chiều đang xuống thấp dần ở đó. Sao cái viễn ảnh về những thế hệ tương lai dẫn người ta đi nhanh đến thế! Thoạt tiên anh chỉ nghĩ đến một chút hạnh phúc thầm lén, giành giật của chiến tranh, giữa hai chuyến tàu, của những người về phép. Và bây giờ thì hạnh phúc đó lại bao hàm một lời hẹn ước ngày về, về một sự chiếm hữu êm đềm và thỏa mãn, về một tương lai trinh bạch mà một đứa bé có đôi chân bé bỏng và tin tưởng có lẽ sẽ đi vào đó. Trước cảnh bao la đầy ảo vọng, một tình thương bao la xâm chiếm lòng anh và anh cảm thấy bắt buộc phải nhận lời hẹn ước đáng thương và giả dối về chốn vĩnh cửu ấy.

– Sáu giờ tầu chạy, anh nói. Anh đã thu xếp xong cả rồi, bây giờ anh phải đi đây. Em đừng tiễn anh ra ga. Anh muốn từ biệt em ở đây và giữ lấy hình ảnh khu vườn này như là kỷ niệm cuối cùng về em. Chúng ra hãy tránh cảnh bị xô đẩy ở ngoài ga và những phút lúng túng cuối cùng. Lần trước, mẹ anh tiễn anh ra ga; anh can mãi không được. Vì thế mà cả hai mẹ con cùng đau khổ như nhau. Lâu lắm, anh mới quên được, và mãi về sau, cảnh người đàn bà đáng thương ràn rụa nước mắt, đầm đìa mồ hôi đứng trên sân ga nhìn đoàn tầu đi xa dần, lúc nào cũng ở trong ký ức anh. Tuy nhiên, trong tư tưởng, anh không muốn trông thấy mẹ anh như vậy đâu, em có hiểu không?

– Hiểu.

– Như vậy em cũng không nên trông thấy anh thồ nặng như một con lừa, lúc anh trở lại là một con số trong quân đội. Hãy chia tay nhau như chúng ta đang ở đây lúc này. Em cầm lấy số tiền này, anh dành dụm để cho em đấy. Ở ngoài đó, anh không cần tiền.

– Em không cần tiền, lương em cũng đủ rồi.

– Ở mặt trận, không có dịp tiêu tiền. Em cứ cầm lấy và mua cho em một cái áo dài, vớ vẩn và vô dụng hợp với cái mũ calô em mua hôm trước.

– Em sẽ mua quà bằng tiền này để gửi cho anh.

– Không, không gửi quà. Ở ngoài ấy, bọn anh được ăn nhiều hơn bọn em ở đây. Em đừng quên mua áo cho em. Xem em mua mũ, anh đã hiểu được đôi chút. Em hứa với anh là em sẽ mua một cái áo, một cái áo vô dụng, Không phải để mặc đi làm. Tiền anh đưa có đủ để mua không?

– Đủ, em còn có thể mua thêm một đôi giầy nữa cơ.

– Thế thì tuyệt, nếu vậy, mua thêm một đôi giầy dạ hội nhé.

– Đồng ý, giầy gót rất cao, nhẹ như bấc. Em sẽ đi giầy đó để chạy đón anh khi anh trở về.

Gơrebê lấy ở trong sắc ra bức tượng thánh mầu sẫm mạ vàng, anh định mang về biếu mẹ.

– Đây là một kỷ niệm anh mang từ Nga về đấy. Em cầm lấy.

Cô lùi một bước, nét mặt thay đổi.

– Không, không, Ernest. Anh đem cái này cho người khác. Nó, nó có vẻ dứt khoát quá, Gơrebê ạ. Anh cứ giữ lấy nó.

Anh nhìn bức tượng và nói.

– Anh thấy nó trong một căn nhà bị tàn phá. Có lẽ không phải là vật may đâu, anh không nghĩ đến điều đó.

Anh lại cất bức tượng thánh Nicôla có một đám thiên thần nhỏ bao quanh vào sắc.

– Nếu anh muốn, em có thể đem nó đến nhà thờ, Elidabét đề nghị, nơi cả hai chúng ta đã ngủ ấy.

Gơrebê nghĩ, nơi cả hai chúng ta đã ngủ ở đó. Hôm qua còn gần gũi thế, hôm nay đã là một kỷ niệm xa xôi vô cùng.

– Họ không nhận đâu, anh nói. Không phải cùng một đạo. Những người quản lý thần Ái tình không đặc biệt rộng lượng đâu.

Anh nghĩ, anh có thể đem pho tượng thánh chôn trong mồ của cha Blumơ cùng hộp cốt của Crudơ. Nhưng làm thế lại là một điều báng bổ nữa.

* * *

Anh không quay mặt lại. Anh bước đi không chậm, cũng không nhanh quá. Sắc của anh nặng mà phố thì dài đi mãi không hết. Anh vừa rẽ ở góc đường, sự thật mà anh để lại đằng sau đã biến thành giấc mộng. Trước đây một lát, anh còn thấy mùi thơm ở tóc Elidabét bao quanh anh, bây giờ thì chỉ còn mùi không khí nặng nề của lúc ngày tàn này.

Anh đã vượt qua các pháo đài. Một phía hàng cây ti ơn bên đường đen xì và bị cháy thui, phía bên kia vẫn xanh tươi. Lòng sông ngổn ngang những gạch ngói vỡ, rơm, bao tải, giường thủng và xà nhà cháy thành than. Anh nghĩ, nếu có báo động thì mình sẽ vào hầm trú ẩn và mình sẽ có lý do để nhỡ tầu. Nếu Elidabét thấy mình bỗng nhiên trở về, không biết cô sẽ nói gì. Anh tự hỏi mình như vậy và không trả lời được. Nhưng có điều chắc chắn là đối với họ, tất cả những điều êm đẹp giữa hai người sẽ trở thành nguyên nhân của những nguồn đau khổ mới. Nhưng ước mơ như vậy để làm gì? Nếu có báo động thì tầu sẽ không chạy và hết báo động, Gơrebê sẽ còn đủ thời gian để lên tầu.

Anh đã đến phố Bơramsơ. Từ chỗ này, anh đã đi những bước đầu tiên vào thành phố. Chiếc xe ô tô chở khách đã đưa anh về đây vẫn đợi ở chỗ cũ. Anh leo lên xe. Mười phút sau, chiếc xe nặng nề chuyển bánh. Kể từ ngày anh về, nhà ga đã lại đổi chỗ. Bây giờ nó là một cái lều lợp bằng tôn uốn, sơn xanh và nâu, nham nhở. Một tấm bạt xám che một phía căn nhà tạm thời này. Để đánh lừa máy bay địch, người ta làm giả một loại nhà trại bằng gỗ có một cái đầu bò bằng gỗ thò ra ngoài. Hai con ngựa đang ăn cỏ trên cánh đồng có đường sắt chạy qua.

Đoàn tầu đã được ghép xong. Một số toa đeo biển đề: dành riêng cho những người đi phép. Một người lính gác đứng kiểm soát giấy tờ. Hắn như không để ý thấy là Gơrebê đến chậm một ngày. Anh lên toa và tìm một chỗ ngồi ở gần cửa sổ. Một lát sau, có ba người nữa bước vào, một viên hạ sĩ quan, một viên cai, mặt có sẹo dài và một người lính pháo thủ, vừa đến nơi là ăn ngay. Một cái bếp lưu động do hai nữ y tá đeo băng tay có phù hiệu kiểu na-di được đưa đến sân ga.

– Họ mang cà phê đến cho bọn ta kìa! viên hạ sĩ reo lên. Cậu có thấy không?

– Không phải cho bọn ta đâu, viên cai nói. Cho một đoàn lính mới lần đầu tiên ra mặt trận đấy. Tôi vừa nghe được thế xong. Họ còn được nghe một bài diễn văn nữa. Đối với bọn ta, người ta không bày vẽ nhiều đâu.

Một toán người đi tản cư xếp hàng đôi trên sân ga. Người ta điểm danh họ. Dưới chân họ, là những gói hành lý, hình thù kỳ dị. Chiếc bếp lưu động như thôi miên họ. Vài tên sĩ quan SS xuất hiện. Chúng đi bốt đánh bóng và mặc quần áo đi ngựa nên trông giống như những con sếu. Ba người đi phép khác lại bước vào trong toa. Một người trong số đó mở cửa sổ và nhô người ra ngoài. Một người đàn bà và một đứa trẻ đứng đợi trên sân ga. Gơrebê nhìn đứa bé rồi nhìn người đàn bà. Đó là một người bé nhỏ, mảnh khảnh, mắt quầng đen, ngực lép, thân bó chặt trong một cái áo dài mùa hè đã bạc màu, có in những chiếc cối xay gió xanh. Anh thấy cái gì cũng có vẻ tinh khiết lạ thường gần như đáng e ngại.

– Henrich, cứ như thế nhé, người đàn bà nói.

– Cố gắng lên, Mari, em hôn tất cả mọi người ở đằng ấy hộ anh nhé.

– Vâng.

Họ im lặng nhìn nhau. Đội kèn của thành phố xếp hàng trên sân ga.

– Sao phấn khởi thế, viên cai nói. Lớp bia đỡ đạn non tơ lại được vinh dự có đội kèn chào. Mình tưởng những chuyện như thế này đã hết từ lâu rồi.

– Lẽ ra họ có thể cho chúng ta một chầu cà phê thì phải, viên hạ sĩ nói. No cho cùng, thì chúng ta cũng đi chiến đấu cơ mà!

– Chờ đến tối nay, cậu sẽ được ăn xúp.

Mệnh lệnh được hô vang. Toán lính mới đi đều bước đến. Hầu hết còn rất trẻ. Nhưng ngoài ra cũng lẫn vào vài người lớn tuổi và lực lưỡng hơn. Chắc bọn ấy ở đội SA hay SS đến.

– Này, các cậu thử xem bọn nhóc kia, viên cai nói. Không còn mấy đứa cần cạo râu đâu. Thế mà phải trông vào bọn ấy để giữ vững trận địa đấy!

Toán lính mới lượn trên sân ga. Bọn hạ sĩ quan the thé hạ lệnh. Rồi yên lặng trở lại. Có người nói.

– Đóng cửa sổ vào, viên cai nói với người đang cúi xuống với vợ.

Anh ta không trả lời. Tiếng nói của diễn giả lại vang lên cộc lốc và lanh lảnh. Gơrebê tựa lưng vào thành ghế và nhắm mắt lại. Henrích vẫn nghiêng người ra ngoài cửa sổ. Anh ngượng ngùng và ủ rũ, nhìn Mari với vẻ mặt hơi ngây ngô. Mari cũng nhìn lại anh ta. Gơrebê nghĩ, mình bảo Elidabét đừng ra đây, thật là phải!

Diễn giả đã đọc xong bài diễn văn của hắn. Đội kèn thổi bài: “Nước Đức trên hết” rồi đến bài “Hócsơ Vétxen”. Hai bài quốc ca được chơi rất nhanh, mỗi bài chỉ chơi một đoạn. Trong toa không ai nhúc nhích. Viên cai cậy dỉ mũi, và hững hờ quan sát chỗ dỉ mũi dính ở đầu ngón tay trỏ. Toán lính mới lên toa riêng, theo sau là các nữ y tá. Vài phút sau, người ta thấy đẩy cái bếp lưu động rỗng không đi qua.

– Đồ sỏ lá, viên hạ sĩ nói, bọn lính cựu chúng ta bị bỏ mặc với trời.

Người lính pháo thủ ngừng ăn một lát và hỏi lại.

– Cậu nói gì thế?

– Tớ bảo, đồ sỏ lá!

Người lính pháo thủ lại ăn một chiếc bánh kem khác.

– Ngu như lợn! anh ta chỉ nói một câu thôi.

– Lợn à?

Viên hạ sĩ đưa mắt nhìn xem có người đi phép nào đồng tình với hắn. Người lính pháo thủ như đã quên mất hắn rồi. Henrích vẫn chiếm cả cửa sổ.

– Em hôn cả thím Béctơ nhé, anh ta nói với Mari.

– Vâng.

Họ lại nín lặng.

– Tại sao chúng ta vẫn chưa đi nhỉ? Có người hỏi. Đã hơn sáu giờ rồi mà.

– Có lẽ còn đợi một ông tướng nào đấy.

– Bọn tướng đi máy bay cơ.

Lại phải đợi thêm nửa giờ nữa.

– Em về đi chứ, thỉnh thoảng Henrích lại nói.

– Em có thể đợi được.

– Còn phải cho con ăn chứ.

– Còn cả buổi tối mà.

Một hồi yên lặng nữa.

– Nói chuyện nhiều với Giôdép vào nhé, Henrích lại nói.

– Được, em sẽ nói.

Người lính pháo thủ đánh rắm ầm ĩ, thở dài rồi bắt đầu ngủ. Đoàn tầu, như chỉ chờ có tín hiệu ấy, chuyển bánh.

– Thôi, Mari, gửi lời hỏi thăm tất cả nhé.

– Tạm biệt nhé, anh Henrích.

Tàu đi nhanh dần. Mari chạy theo bên cửa toa.

– Trông con cẩn thận đấy, Mari.

– Anh cũng phải giữ gìn.

– Tất nhiên rồi.

Gơrebê thấy bộ mặt thiểu não của người đàn bà chạy theo bên ngoài cửa sổ. Chị ta chạy nhanh, hình như tất cả còn lệ thuộc vào giây đồng hồ được thêm để theo dõi chồng. Và bỗng nhiên anh trông thấy bóng Elidabét. Cô đứng sau cái lều, ở ga, ở một chỗ mà trước đó anh không sao trông thấy cô được. Anh chỉ ngờ ngợ trong giây lát rồi anh nhận ra được cả nét mặt cô. Trông như mặt một người đã chết. Anh xô ra cửa sổ và nắm lấy vai Henrích.

– Lui ra, cho tôi xem nào.

Anh bỗng quên tất cả. Anh không hiểu tại sao anh lại đi ra ga một mình. Anh không hiểu gì hết. Thế nào anh cũng phải trông thấy cô. Anh phải thét lên. Anh chưa nói với cô điều quan trọng nhất.

Anh tuyệt vọng đẩy Henrích ra. Henrích đã nhô cả thân trên ngoài cửa sổ. Khủy tay trái của anh ta chặn mất khoảng cách mà Gơrebê có thể lẹn vào được. Anh ta gào lên trong tiếng tàu chạy ầm ầm.

– Hỏi thăm Lidơ nhé.

– Lui ra cho tôi xem nào, trời ơi! Vợ tôi ở ngoài ấy.

Gơrebê ôm lấy vai Henrích và đẩy y ra. Henrích hích khủy tay đẩy Gơrebê lùi lại. Y vẫy tay từ biệt Mari đã khuất đi rồi. Con tàu đi vào một đoạn đường vòng. Gơrebê trông thấy Elidabét qua đầu Henrích. Cô đã bé lại và đứng lẻ loi bên cái lều sơn nham nhở. Anh đưa tay lên trên đám tóc ngắn của Henrích để vẫy. Có lẽ cô trông thấy rõ người nhưng không sao nhận ra anh được. Một dãy nhà nhô ra và che khuất hẳn nhà ga.

Henrích từ từ rời cửa sổ.

– Đồ… Gơrebê bực tức bắt đầu nói. Nhưng anh nín lặng. Henrích đã quay mặt đi. Những giọt nước mắt to chảy trên mặt anh ta. Gơrebê lùi lại một bước.

– Ôi đểu thật, anh nói thầm thì.

– Có thế mà cũng lắm chuyện! viên cai nói.