Chương 25
Anh phải tìm hai ngày mới thấy trung đoàn và đến trình diện ở văn phòng đại đội. Viên đội không có đấy, chỉ có tên thư ký. Làng này ở phía tây cách làng mà Gơrebê rời bỏ ba tuần lễ trước, một trăm hai mươi cây số.
– Ở đây ra sao? anh hỏi.
– Nát bét rồi. Còn về phép thế nào?
– Thường thôi. Có gì lạ không?
– Có, cũng khá nhiều cái lạ. Mà cậu cũng đã thấy bây giờ chúng mình đang ở đâu rồi chứ gì.
– Đại đội đâu?
– Một trung đội đào chiến hào, một trung đội đi chôn người chết.
– Có nhiều thay đổi không?
– Rồi cậu sẽ thấy. Tớ không nhớ lúc cậu đi còn những ai. Chúng ta đã nhận được khá nhiều viện binh. Nhóc con cả. Đổ như rạ. Chúng chẳng hiểu thế nào là chiến tranh. Chúng ta có một trung úy mới. Muylơ đã chết rồi.
– Ông ta ra trận à?
– Không, ông ta chết ở nhà xí, ông ta bị nổ tung lên cùng với cái nhà. - Tên thư ký ngáp và nhắc lại. - Rồi cậu sẽ thấy. Sao lúc ở nhà cậu không để cho một mảnh bom trúng vào mông?
– Mình cũng đang tự hỏi tại sao đấy. Khi nghĩ tới thì bao giờ cũng muộn rồi.
– Tớ như cậu, tớ cứ ở lì thêm vài ngày nữa. Trong cảnh bát nháo này, chẳng ai biết đâu.
– Thì khi trở về đây, tớ mới nghĩ đến điều ấy.
Gơrebê đi qua làng. Nó giống làng anh đã rời đi. Tất cả các làng bị tàn phá đều giống nhau. Điều khác rõ rệt nhất là tuyết đã biến mất. Một lớp bùn đã thay thế vào đó. Bốt bị thụt sâu xuống và cứ mỗi bước lại phải lấy sức để rút chân ra khỏi đất nhão. Người ta đã ném ván trên phố chính để có thể đi lại được. Chúng bập bềnh dưới chân với một tiếng ồng ộc và khi người ta dẫm một đầu xuống thì đầu kia bồng lên và nước rỏ giọt.
Mặt trời sáng chói và nóng hơn ở Đức. Gơrebê lắng nghe mặt trận. Tiếng đại bác vang lên rồi nghe nhỏ bớt và không lúc nào ngớt hẳn. Anh tìm cái hầm mà tên thư ký chỉ cho anh và ném sắc vào một góc trống. Anh đau đớn tự trách mình là đã không nghỉ thêm một hay hai ngày nữa; quả thật là không ai để ý đến sự có mặt của anh. Anh ra tận ven làng. Chiến hào đào vội đã bị ngập nước tới nửa và mép đang lở dần. Cách từng quãng lại thấy bóng một chiếc boongke bằng bê tông.
Gơrebê vòng trở lại. Anh thấy viên đại úy Rabê ở giữa làng. Hắn đi lò dò trên ván thông như một con cò đeo kính. Gơrebê đến trình diện hắn.
– May cho cậu nhé, Rabê nói với anh. Cậu vừa đi khỏi là có lệnh cấm không cho đi phép. - Đôi mắt sáng trong của hắn đăm đăm nhìn vào Gơrebê. - Ít ra cũng đáng chứ, phải không?
– Thưa đại úy, vâng.
– Thế thì tốt lắm. Chúng ta ở đây đang bị sa lầy đến tận cổ. Sự thật thì các vị trí này đều là tạm thời. Chắc chúng ta lại sắp rút về các vị trí mới đã được chuẩn bị trước ở phía sau. Cậu đã thấy chưa? Cậu về đây là phải đi qua chỗ ấy đấy.
– Không, tôi không trông thấy.
– Không à?
– Thưa đại úy, vâng, Gơrebê nhắc lại.
– Chỗ ấy chắc phải cách đây bốn chục cây số.
– Khi tôi đi qua, chắc là trời tối. Vả lại tôi ngủ suốt dọc đường.
– Chắc vì vậy.
Rabê nhìn Gơrebê vẻ dò hỏi, hình như hắn còn muốn biết thêm điều gì.
– Trung úy của cậu đã hy sinh trên bãi chiến trường rồi. Muylơ ấy. Bây giờ trung úy Mátxơ thay ông ta.
– Thưa đại úy, rõ.
Rabê lấy đầu cây roi chỉ vào lớp bùn đánh đống ở ven đường.
– Đất mà còn ở tình trạng này thì bọn Nga cũng khó mà cho xe tăng và pháo của chúng tiến lên được. Chúng ta có thời gian để tập trung lại. Việc gì cũng có mặt tốt và mặt xấu, phải không? Gơrebê, tôi rất hài lòng là anh đã trở về. Chúng ta đang cần cựu binh để kèm lính mới. - Đầu nhọn cây roi của hắn vẽ hình lên trên đất ẩm. - Ở đằng ấy, thường dân sống ra sao?
– Cũng gần giống chúng ta ở đây. Máy bay tấn công luôn.
– Thật không? Tồi tệ đến thế cơ à?
– Tôi không biết ở các thành phố khác ra sao, nhưng chỗ chúng tôi thì cứ hai ba ngày lại có báo động.
Rabê nhìn Gơrebê như đợi anh nói thêm nhiều chi tiết nữa. Nhưng Gơrebê lặng thinh.
Những người khác trở về ăn bữa xúp buổi trưa.
– Kìa! Anh chàng đi phép! Immécman nói. Khốn nạn, sao cậu lại đâm đầu về cái xó này làm gì? Sao không đào ngũ đi cho rồi.
– Để đi đâu?
Immécman gãi tai.
– Sang Thụy Sĩ, sau đó gã nói.
– Á! Chết thật, thế mà tao không nghĩ ra đấy, đồ quỉ ạ! Và tao cứ mê thấy hàng ngày, tàu hỏa hạng sang vẫn chở đầy những đứa đào ngũ sang bên đó. Các toa tàu ấy có đeo dấu hồng thập tự để khỏi bị đồng minh ném bom, và tất cả biên thùy nước Thụy Sĩ đều trang hoàng để đón họ: Hoan nghênh những người đào ngũ của Đệ tam đế chế! Mày không xui gì tao nữa à, đồ ngốc? Nhưng mày dám liều nói những chuyện như vậy từ bao giờ thế?
– Trước hết thì bao giờ tao cũng nói như vậy. Chắc mày vẫn nghe người ta thì thầm mãi ở hậu phương nên quên rồi chứ gì. Sau vì chúng ta rút lui. Gần như mạnh ai nấy chạy. Cứ lùi về sau một trăm cây số, là có thể gào to hơn một chút.
Immécman bắt đầu cạo lớn bùn khô dính trên bộ binh phục.
– Muylơ chết rồi, gã tiếp. Maineckơ và Srôđơ vào nhà thương. Maykê bị một phát đạn vào bụng. Hình như hắn đã nghoẻo ở Vácxôvi. Khi mày đi, còn ai nữa nhỉ? À, phải, còn Bécninh nó đã mất chân phải.
– Còn Hiếcsưlan, Gơrebê nói.
– Hiếcsưlan à? Sao, Hiếcsưlan à?
– Nó cũng chết rồi, phải không?
– Mày chỉ nói gở, nó kia kìa, trông thấy chưa!
Gơrebê quay lại. Thật vậy: Hiếcsưlan đang ngồi vét gamen trên một cái thùng to đã cũ. Gơrebê nghĩ, thế mà mẹ y nói quả quyết với mình rằng y đã chết, mình phải nói chuyện với y về việc ấy mới được.
Anh lại gần y.
– Tớ có gặp mẹ cậu, anh nói.
– Thật à? Cậu cũng nghĩ đến việc ấy ư? Tớ không ngờ cậu đến.
– Tại sao vậy?
– Tại vì mình không hay được người ta giúp cái gì.
Gơrebê nhớ rằng, chỉ suýt nữa là anh đã quên mất cuộc đi thăm ấy.
– Mẹ mình ra sao? Hiếcsưlan hỏi. Cậu có nói với bà cụ là mình vẫn khỏe không?
– Hiếcsưlan này, mẹ cậu tưởng cậu đã chết rồi. Bà cụ nhận được một giấy báo tử chính thức của đại đội.
– Trời, sao kỳ vậy?
– Chính bà cụ nói với tớ.
Hiếcsưlan trợn tròn mắt.
– Nhưng ngày nào mình cũng viết thư cho bà cụ mà.
– Bà cụ cho rằng cậu viết những thư đó trước khi chết.
– Làm sao mà cái giấy báo tử ấy lại được gửi đi nhỉ? Ở đây có nhiều Hiếcsưlan đâu cho cam.
– Không, chắc có người cố tình làm thế đấy.
– Không ai lại cố tình làm một việc như vậy được.
– Không à? Staibrennơ thì sao?
– Nó vẫn ở đây à?
– Chứ sao! Sau khi tên cai bị chết, nó còn lên văn phòng đại đội làm việc hai ngày. Tên thư ký bị bệnh.
– Thật là đê tiện.
– Tớ cũng đồng ý với cậu đấy.
– Có phải Rabê vẫn ký giấy tờ chính thức không?
– Mẹ mình không biết gì đâu. Đối với bà thì chữ ký nào cũng thế cả thôi.
Sự việc ngày càng rõ đối với Gơrebê.
– Đồ đểu! anh nổi giận. Thật khó mà tin được! Nhưng tại sao tên chó má ấy lại làm thế?
– Để nghịch, để giáo dục mình, vì mình có máu Do Thái. Mẹ mình thấy việc ấy ra sao?
– Bà cụ bình tĩnh lắm. Cậu phải viết thư ngay cho bà đi. Cậu cứ nhắc đến tớ, bà cụ sẽ nhớ lần tớ đến thăm.
– Thư đi cũng phải mất thời gian.
Gơrebê thấy môi của Hiếcsưlan run lên.
– Chúng ta đến ngay văn phòng đi, anh nói. Họ phải đánh điện chứ, nếu không chúng ta sẽ báo cáo hết với Rabê.
– Làm thế không được!
– Sao lại không được? Chúng ta còn có thể làm hơn thế, tố cáo Staibrennơ nữa cơ.
– Không bao giờ mình làm thế được. Mình không có chứng cớ và dù mình có chứng cớ đi nữa… Không, nhất định là không thể được rồi. Cậu không hiểu ư?
– Hiểu, Hiếcsưlan ạ, Gơrebê ủ rũ nói. Nhưng cậu cứ yên trí, tất cả cái đó chỉ được một thời thôi!
Anh gặp lại Staibrennơ sau bữa xúp chiều. Mặt mày hắn trông hớn hở như đó là một tiểu đồng[102] da đỏ hồng vì nắng.
– Tinh thần ở hậu phương tốt chứ? Hắn hỏi.
Gơrebê đặt gamen xuống.
– Khi đi qua biên giới, một đại úy SS tập hợp bọn tao lại và phổ biến cho tất cả biết là không ai được nói lộ một câu gì về tình hình dân chúng, nếu trái lệnh sẽ phải chịu những hình phạt nặng nhất.
Staibrennơ cười phá lên.
– Chính tao là SS đây, mày có thể nói tất cả với tao được.
– Tao không ngốc đến thế đâu. Những hình phạt nặng nhất có nghĩa là tội tử hình vì đã phá hoại tình thần quân đội Đế chế.
Staibrennơ bỗng nghiêm mặt lại.
– Nghe mày nói, người ta tự hỏi không biết mày đã trông thấy những tai họa gì ở đấy.
– Tao chẳng nói gì cả! Tao chỉ nhắc lại lời của ông đại úy SS thôi.
Staibrennơ quan sát Gơrebê với vẻ soi mói.
– Mày cưới vợ rồi phải không?
– Mày biết nhiều chuyện nhỉ!
– Gì tao cũng biết.
– Mày hỏi ở văn phòng thì biết chứ gì, đừng cố làm bộ khôn vặt. Hình như mày cũng hay đến văn phòng lắm đấy?
– Lúc nào cần thì tao đến. Vả lại tao cũng tranh thủ lần đi phép sắp tới để cưới vợ đấy.
– Thế à? Mày đã biết mày lấy ai chưa?
– Con gái ông đại tá sư đoàn trưởng ở quê tao.
– Tất nhiên rồi.
Staibrennơ không để ý thấy vẻ mỉa mai của Gơrebê. Nó chỉ chăm chú nói việc của nó.
– Công thức lai giống là nhất hạng đấy. Tao ở vùng Đông Phơridơ[103], vợ tao ở vùng Hạ Xắcxơ xứ Rênan. Cả hai chúng tao đều được hưởng trợ cấp để cải thiện nòi giống: tất nhiên là con cái chúng ta phải được hưởng chế độ giáo dục xứng đáng với chúng, nghĩa là tất cả cái gì đảng có thể cung cấp được. Sau năm năm, vợ tao có thể xin một cương vị chỉ huy trong Hội liên hiệp Phụ nữ đế quốc Đức[104] vì là người mẹ Đức kiểu mẫu. Nếu trong thời gian đó, chúng tao đẻ sinh đôi hay sinh ba, đức quốc trưởng sẽ là cha đỡ đầu chúng. Đối với đứa bé thứ năm và những đứa tiếp theo cũng vậy. Sự nghiệp của tao đã được vạch sẵn rồi. Mày thấy không?
– Tao hiểu rồi.
– Cải thiện nòi giống về chất lượng bằng đủ mọi cách đấy. Tiêu diệt hết bọn Do Thái chưa đủ, còn phải thay thế chúng bằng người Giécmanh chính cống nữa chứ. Một giống người chúa tể.
– Mày đã tiêu diệt được nhiều Do Thái chưa?
Staibrennơ cười khẩy.
– Nếu mày được xem bản lý lịch của tao, mày sẽ không hỏi câu ấy. Thế mới gọi là việc chứ! - Nó ghé sát Gơrebê vẻ bí mật. - Tao đã xin thuyên chuyển rồi. Tao sắp được điều đến một đơn vị SS. Ở đấy, công việc nhiều hơn, và thăng cấp cũng nhanh hơn. Ở đấy, người ta có con mắt rộng rãi hơn. Không cần đến những thể thức pháp lý vớ vẩn nữa. Có thể giết hàng loạt. Hôm nọ, trong một buổi chiều, chúng nó thanh toán ba trăm thằng Nga và Ba Lan phản bội. Vì thế mà sáu đứa trong đơn vị được thưởng bội tinh vì công trạng đặc biệt. Ở đây, thỉnh thoảng mới xử một thằng đi săn trộm, - và tất nhiên là chẳng bao giờ được thưởng huân chương cả. Các đơn vị càn quét và bọn SD có tới hàng trăm, hàng ngàn vụ. Tất nhiên việc thăng cấp phải tương xứng.
Gơrebê mê mải nhìn cánh đồng Nga rộng mênh mông đỏ ối dưới ánh chiều tà. Vài con quạ bay lượn, trông như những mảnh vải đen rách. Staibrennơ đúng là một sản phẩm hoàn hảo của đảng. Nó thật tráng kiện, giỏi về các môn vận động, trống rỗng, không có một chính kiến riêng nào và hoàn toàn vô nhân đạo. Đó là một con người máy mà thể dục thể thao, việc giữ gìn vũ khí và giết người đều là những hoạt động tương tự như nhau.
– Có phải mày đã gửi giấy báo tử về cho mẹ Hiếcsưlan phải không?
– Ai bảo mày thế?
– Tao biết.
– Mày không biết gì cả. Tại sao mày lại biết được nhỉ?
– Tao nghe nói mà. Mày chơi trò ấy hay đấy!
Staibrennơ phá lên cười. Quả nó không có ý giễu cợt. Bộ mặt xinh xắn của nó tươi lên vẻ khoái trá.
– Mày cũng thấy thế à? Con mụ già xem cái ấy chắc lạ lắm nhỉ? Đùa thế chẳng có gì là nguy hiểm. Đố thằng Hiếcsưlan dám nói câu gì, vả lại người ta có thể nhầm được chứ, phải không? Việc ấy có thể xảy ra với tất cả mọi người.
Gơrebê nhìn chòng chọc vào nó, với vẻ da diết.
– Mày can đảm đấy, anh nói.
– Can đảm à? Cần gì phải can đảm mới làm thế, hài hước thì có.
– Không, đúng là can đảm. Người nào làm việc ấy chóng chết lắm. Ai cũng biết vậy mà.
Staibrennơ cười ngất.
– Sao ngốc thế! Rõ chuyện đàn bà.
– Không phải chuyện đàn bà đâu. Ai làm như vậy là ký vào bản án tử hình của mình đấy. Đó là một qui luật đã được xác nhận nhiều lần rồi.
– Thôi đi, Staibrennơ nói, tao không tin vào một lời nào của mày.
– Tao thì tin ghê lắm, và mày nên tin như tao. Đó là một điều mê tín cũ của nước Đức đấy. Tao không muốn ở địa vị mày.
– Mày điên rồi!
Staibrennơ đứng dậy. Nó không cười nữa.
– Tao biết hai đứa đã làm một việc đại khái như thế. Vài ngày sau chúng nó bị chết. Đứa thứ ba gặp may hơn. Một viên đạn đã thiến mất hai hòn dái của nó. Tất nhiên là sau đó nó thành bất lực. Có thể mày cũng chỉ bị thế thôi. Lúc ấy, thì đành chịu, hết chuyện sinh đôi, sinh ba nhé. Đành rằng một đứa khác chơi vợ mày cũng được. Nói cho cùng thì chỉ có một thứ máu thuần chủng là cần thôi, ai là bố mà chẳng được.
Staibrennơ nhìn chòng chọc vào Gơrebê.
– Sao mày có thể trơ tráo và nhẫn tâm đến thế nhỉ? Mày xưa nay có thế đâu? Thôi đi, tất cả những cái đó toàn là chuyện vớ vẩn cả.
Hắn chần chừ một lát rồi lững thững bỏ đi. Gơrebê ngả lưng nằm trên ván. Mặt trận rung động. Những con quạ vẫn tiếp tục bay lượn với vẻ tang tóc. Bỗng nhiên anh thấy như chưa bao giờ anh được đi khỏi nơi này.
* * *
Phiên gác của anh từ nửa đêm đến hai giờ sáng và anh đi một vòng quanh làng. Bóng đen những ngôi nhà đổ nổi bật trước ánh lửa của đại bác ngoài trận địa. Bầu trời rung chuyển, rực cháy và tắt đi theo từng đợt bắn của pháo binh. Tiếng bốt rền rĩ dưới bùn loãng như những tâm hồn bị đày đọa.
Lần đầu tiên nỗi đau khổ thấm vào anh một cách tàn nhẫn. Chuyến đi và ngày vừa qua đã trôi đi trong tình trạng đê mê, không một ý nghĩ gì. Mối tuyệt vọng đột nhiên thức tỉnh, dày vò anh.
Anh dừng lại và chờ đợi. Anh đợi cho nỗi đau khổ vẫn dày vò anh trở nên rõ nét hơn, cố định ở một chỗ nào, có một bộ mặt và một cái tên để cho lẽ phải, những bằng chứng và những lời an ủi thường lệ có thể tác động tới được. Lúc đó, có lẽ nhắm mắt phó mặc cho định mệnh và chịu đựng tất cả sẽ làm anh khuây khỏa.
Nhưng hiển nhiên là một sự mất mát vĩnh viễn, không gì đền bù được, một hình phạt sáng suốt vì đã có được tất cả lại vứt cả đi, vẫn tồn tại. Những chiếc cầu nối với dĩ vãng đều bị cắt đứt. Anh lắng tai nghe lòng mình. Anh còn nghe rõ được một tiếng nói, một tiếng vang của hy vọng, một lời thầm thì an ủi… nhưng anh không nghe thấy tiếng gì. Trong anh chỉ còn sự trống rỗng của nỗi đau thương, không sao nói lên được.
Anh nghĩ, thế vẫn còn là sớm quá. Để sau này khi đau khổ hơi dịu đi đã. Anh tập trung tất cả nghị lực lại, anh đấu tranh để khỏi phải đau khổ vì u buồn, tóm lại là chỉ cần chịu đựng một thời gian nữa. Anh đọc những tên người, tìm cách gợi những kỷ niệm lên. Bộ mặt hoảng hốt của Elidabét như anh đã trông được, lần cuối, hiện lên như trong sương mù. Tất cả những bộ mặt khác cũng mờ mờ ảo ảo. Anh cố hình dung căn vườn và cái nhà nhỏ của bà Víttơ. Nhưng hình như anh bấm những phím một cây đàn dương cầm câm. Anh nghĩ, việc gì đã xảy ra vậy? Có lẽ cô đã bị thương? Có lẽ nhà đã bị xập. Có lẽ cô đã chết. Anh rút chân lên khỏi mặt đất. Đống bùn thốt lên một tiếng thở dài nhão nhoét. Anh thấy mồ hôi toát khắp người.
– Cậu làm thế mệt lắm đấy, có người nói.
Đó là Daoê. Y ẩn trong góc chuồng bò đã bị phá.
– Ở xa hàng cây số, cũng nghe được tiếng của cậu. Cậu làm sao thế? Tập thể dục Thụy Điển à?
– Daoê này, cậu có vợ chưa?
– Nhất định rồi chứ. Khi người ta có một cái trại, người ta phải lấy vợ… Không có vợ thì không có trại tốt được.
– Cậu lấy vợ đã lâu chưa?
– Mười lăm năm rồi. Sao cơ?
– Khi người ta lấy vợ lâu đến thế, thì ra sao nhỉ?
– Ủa, hỏi gì lạ vậy? Cậu muốn nó ra làm sao?
– Chẳng hạn như có phải nó như một cái neo giữ cậu lại, làm cậu phải quay về đấy không?
– Cái neo à, neo là cái gì? Tất nhiên mình phải nghĩ chứ. Suốt ngày hôm nay, mình chỉ nghĩ có thế thôi. Bây giờ là lúc cắt rơm. Còn khoai tây không biết ra sao? Cứ nghĩ thế mà phát ốm lên được.
– Không phải tới muốn nói đến cái trại đâu! Cậu có nghĩ đến vợ cậu không?
– Cũng thế thôi. Tớ vừa nói với cậu đấy. Không có vợ thì không có trại tốt được. Nhưng nghĩ thế có hơn gì đâu. Chỉ tổ lo thêm! Thằng súc sinh Immécman lúc nào cũng đi kể rằng bọn tù binh ngủ với tất cả vợ lính bị đưa ra mặt trận - Daoê hỉ mũi ầm ĩ. - Tớ à, tớ có một cái giường lớn cho hai người nằm. Rồi nhân sự liên tưởng kỳ dị, hắn nói tiếp.
– Immécman là thằng ba hoa.
– Nó nói rằng đàn bà nào đã phải hơi trai, sau mà thiếu thì không sao chịu nổi. Thế nào cũng phải kiếm cho kỳ được.
– À! Đồ chó chết! Gơrebê bỗng nổi giận. Thằng cộng sản ngu ngốc ấy tưởng tất cả mọi người, ai cũng như nhau. Thật là một điều ngu xuẩn nhất trên đời.
[102] Trong bản tiếng Pháp: tiểu thiên thần gôtích
[103] Một vùng ở phía Tây Bắc nước Đức, giáp giới với Hà Lan
[104] Nguyên văn: Reichfrauenschaft