← Quay lại trang sách

Chương 3

Cựu quán (1)

Kobayakawa đã lấy sẵn chùm chìa dự phòng. Anh chọn một chìa để mở cánh cửa khóa kín của Cựu quán, dẫn mọi người đi xuống cầu thang.

Cửa vào sảnh xưa ở chân thang cũng vững vàng kiên cố y như cửa trên đầu cầu thang. Điểm khác biệt là có chạm khắc tinh xảo, trông như chạm hình chim đang dang cánh, nhưng nhìn kĩ lại không phải chim, bởi ở nơi lẽ ra là thân chim lại là một chiếc đồng hồ cát lớn.

Nói cách khác, là đồng hồ cát có cánh.

Nếu ví cửa này với cửa ngục, thì có thể ví hai chiếc đồng hồ hình dáng kì quặc kia như giám ngục.

Tra chìa, cửa mở, bên trong tối thui. Những tiếng tích tắc khe khẽ bổng trầm gối lên nhau, khuấy động khối bóng tối ngưng đọng.

Kobayakawa bước vào, sờ soạng tìm công tắc, chỉ chốc lát đèn bật sáng.

Vừa nhìn thấy khung cảnh trong phòng, phóng viên ảnh Utsuumi đã thốt lên, “Tuyệt vời.” Anh không còn than thất vọng như lúc ở Tân quán, thay vào đó mở to mắt, ngạc nhiên ra mặt, “Thế này mới đúng là Thời Kế Quán chứ!”

Họ đang đứng ở một tiền sảnh rộng rãi, mà Sayoko gọi là sảnh xưa. Hai bên tường không có cửa sổ, thay vào đó treo kín đồng hồ. Đếm sơ sơ cũng phải ba bốn mươi cái.

“Ly kì quá!” Kobayakawa tiến vào giữa sảnh. “Nhìn ngần này đồng hồ tập hợp ở một nơi, tự nhiên tôi có cảm giác thật dị thường.”

“Mà tất cả vẫn còn chỉ giờ rất đúng nữa.” Kawaminami nhận xét, sau khi đảo mắt một vòng khắp phòng.

Kobayakawa gật đầu đồng tình Ừ, rồi tiếp, “Ban nãy chị Sayoko có nói, một trong những lời dặn dò của ông Michinori trước lúc đi xa là đồng hồ bên Cựu quán cần được bảo dưỡng để chạy đúng giờ.”

“Chắc chị ấy vẫn định kì lên dây cót và chỉnh giờ cho đồng hồ nhỉ?”

“Có lẽ thế.”

Thứ thu hút ánh nhìn nhất là hai chiếc đồng hồ tủ đứng cao đến hai mét mà người ta thường gọi là đồng hồ ông nội đặt ở hai góc tường bên tay phải. Bề mặt khung đựng con lắc được trang trí tranh sơn mài, trông rất đẹp, rất lộng lẫy.

Nhìn lên trần nhà, đập vào mắt là một chiếc đồng hồ dạng đèn chùm treo lơ lừng, Mặt số song song với sàn, xung quanh trang trí dây leo và hoa bằng vàng. Các đồng hồ còn lại trên tường đều được chế tác xa hoa tinh xảo không tả được. Chiếc nào cũng trang hoàng rườm rà hoa lệ, y như những món đồ sưu tập mà ta chỉ có thể gặp trong viện bảo tàng hay tiệm đồ cổ. Và tất cả đều trỏ cùng một thời khắc, không mảy may sai lệch. Trạng thái ấy, như Kobayakawa nhận xét, gây ra một cảm giác thật dị thường…

Chỉ ở tiền sảnh mà đã thế này, đủ biết vào trong nữa thì còn nhiều đồng hồ đến mức nào. Muốn duy trì để tất cả hoạt động chính xác rõ ràng là một công việc vô cùng vất vả.

“Nhưng mà…” Kobayakawa ngước nhìn chiếc đồng hồ lung linh treo trên đầu. “Nghe đâu đồng hồ đang chạy ở tiền sảnh đây đều là đồ giả.”

“Đồ giả? Ý anh là sao?”

“Là không phải đồ cổ thật ấy,” Kobayakawa giải thích. “Đồng hồ thật trong bộ sưu tập Koga Michinori đều được bảo quản ở phòng số, để ngăn bụi bặm làm hỏng hóc. Còn đồng hồ đặt bên ngoài đều là phiên bản mô phỏng tinh xảo do ông ấy đặt làm thôi.”

“Ồ, vậy ở đây toàn là bản sao thôi ư!”

Thế thì càng không đơn giản, Kawaminami nghĩ. Đúng là việc mà chỉ chủ tịch công ty đồng hồ mới làm được.

“Ừm. Tuy nhiên, dù là bản sao thì cũng không phải là hàng giả sao chép vụng về đâu, toàn là đồ mắc tiền cả đấy. Đừng có xớ rớ, làm hỏng là tiêu, tổng cộng chừng 108 cái nhé.” Nói xong, Kobayakawa cắt đặt mọi người mang đống hành lý ở chân thang vào.

“Ồ, sao phải khóa cửa?”

Utsuumi đang định lấy máy ảnh ra khỏi túi thì nhìn thấy Kobayakawa lách cách khóa cửa sảnh xưa, anh bèn lên tiếng thắc mắc. Cửa này giống cửa ở đầu cầu thang, khóa hay mở từ bên trong đều cần dùng đến chìa.

“Để ngăn mọi người bỏ chạy khi ma hiện.” Kobayakawa đáp, nửa thật nửa đùa. “Trông cái mặt cậu kìa, bồn chồn thế?”

“Vậy hở?”

“Cậu sợ ma à?”

“Không… à, có…” Utsuumi ngượng ngùng vân vê râu. “Nói thật, em vẫn chưa quen với mấy thứ ma mị, dễ gặp ác mộng. Biết nội dung hoạt động của tạp chí CHAOS xong, trong lòng cứ có linh tính chẳng lành…”

Đúng lúc đó, chiếc đồng hồ treo trên mặt tường bên trái thánh thót đổ chuông. Họ ngước mắt nhìn, thì thấy kim của tất cả đồng hồ đều chỉ 6 giờ 15 phút. Ngày xưa cũng có nhiều loại đồng hồ báo mười lăm phút một, không ngờ đống bản sao này còn tái hiện được chính xác đến cả chi tiết ấy nữa.

Giật bắn mình vì tiếng chuông đột ngột, Utsuumi buột miệng “Á!”

“Này này, vững vàng lên. Kẻo các em còn đi học lại cười cho!” Kobayakawa nhăn nhó. “Tôi đang hi vọng cậu chụp được ma hiện nữa kìa. Trông cả vào cậu đấy, nhiếp ảnh gia ạ.”

Sau đây, xin phép giới thiệu sơ qua về bố cục Cựu quán của Thời Kế Quán.

Đi qua tiền sảnh thì vào đến đại sảnh hình tròn, chính là khu vực có mái vòm nếu đứng từ ngoài biệt thự nhìn vào. Nói đơn giản đại sảnh ở giữa, cả cụm kiến trúc bao quanh, tạo thành hai hình tròn đồng tâm. Vòng tròn bên trong (gồm đại sảnh) là khu sinh hoạt, vòng tròn bên ngoài là khu sưu tập.

Khu sinh hoạt là một tập hợp bếp, phòng ngủ, buồng tắm… Ốp vào đại sảnh từ hai cánh Bắc Nam. Ngoài ra, phía Đông Bắc khu sinh hoạt có một hành lang dài đâm ra ngoài phạm vi vòng tròn, dẫn sang phòng quả lắc mà Sayoko đã dặn là tuyệt đối không được bén mảng đến.

Khu sưu tập có tổng cộng mười hai phòng, các cửa phòng có đánh số La Mã từ I đến XII. Khu này lại chia làm hai phần.

Từ đại sảnh theo hành lang đi ra hướng Đông, đến hết hành lang thì rẽ phải đi vòng sang cánh Nam, gặp sáu phòng liên tiếp, đây là phần thứ nhất.

Phần thứ hai là từ tiền sảnh đi sang cánh Bắc, cũng gặp liên tiếp sáu phòng. Một trong mười hai phòng này là thư phòng, mười một phòng còn lại là phòng số. Các phòng số cất giữ nguyên mẫu đồng hồ cổ và tài liệu liên quan, chia theo chủng loại, niên đại, xuất xứ…

Cấu trúc phức tạp như vậy, những người mới đến lần đầu không dễ gì nắm bắt luôn được.

Nói nào ngay, Kawaminami, Kobayakawa và Utsuumi mất cả tiếng đi quan sát chỗ này chỗ kia nhưng ấn tượng vẫn lờ mà lờ mờ. Bởi vậy, khi thấy Uryu Misao cũng đi một vòng với các bạn về rồi vẽ phác ra ngay mặt bằng ngôi nhà, Kawaminami không khỏi thán phục.

“Giỏi quá đi!” Kobayakawa ngưỡng mộ ra mặt khi ngó bản phác họa.

Uryu đĩnh đạc đáp, “Em học chuyên ngành kiến trúc mà, cỡ này không nhằm nhò gì hết.”

“Thằng nhóc biết tuốt xưa nay, thật đáng ghen tị mà!” Kawarazaki bông đùa xen vào. “Có gì rắc rối mọi người cứ tìm nó, không phải ngại ngùng đâu.”

Từ sơ đồ mặt bằng, có thể thấy các phòng nhỏ của khu sưu tập phân bố quanh khu sinh hoạt, giống như mười hai số trên viền mặt đồng hồ. Còn căn phòng cuối hành lang đâm chếch ra ngoài mặt số ấy vừa vặn chính là phòng quả lắc.

“Bộ sưu tập đồng hồ của nhà này đỉnh lắm.” Uryu quay sang nói với Kobayakawa.

“Cậu xem hết các phòng số rồi à?”

“Vâng, đã ngó qua một lượt.”

“Số lượng trên giấy tờ rất lớn. Một cá nhân mà sưu tập được đến mức này, chắc tìm khắp nước Nhật cũng không có người thứ hai nữa.”

“Quả có thế,” Uryu nghiêm túc gật đầu tán thành, rồi nhìn quanh đại sảnh.

Đại sảnh có bốn cửa ra vào. Cửa Tây dẫn ra tiền sảnh, đối diện là cánh cửa tương tự mở ra hành lang chạy về hướng Đông. Hai cửa Nam Bắc không có cánh. Bên mặt tường cong kê vài kệ trang trí, ở trong bày cơ man nào là đồng hồ các loại.

Giữa phòng trải thảm dày màu nâu thẫm, bên trên kê một chiếc bàn tròn. Bàn rất rộng, chín người ngồi mà vẫn thừa đầy chỗ. Bản thân chiếc bàn này cũng là một cái đồng hồ, bên dưới kính bàn là mặt số. Nền đen khắc số vàng, hai kim dài như thước im lặng dịch chuyển.

“À…” Uryu lại đưa mắt về Kobayakawa. “Tối nay chúng ta ngủ ở đâu ạ? Phòng ngủ không đủ. Hay cánh đàn ông nằm chen chúc ở đại sảnh luôn?”

“Ừm, thế này đi…” Kobayakawa chăm chú nhìn sơ đồ mặt bằng. “Có ba phòng ngủ. Ta có thể dùng được, chị Sayoko đã cho phép rồi. Ba cô gái mỗi người một phòng. Năm anh nam giới thì mang chăn gối qua phòng số, sàn mỗi phòng chắc vẫn đủ cho một người nằm được.”

“Ngủ ở phòng số ạ? Lại còn chia ra ngủ nữa.” Utsuumi đang cho phim mới vào máy ảnh, mặt mếu máo như sắp khóc. “Tha cho em đi. Em nghĩ mọi người nên ở cùng chỗ thì hơn.”

Kobayakawa phớt lờ lời thỉnh cầu đó.

“Cô Komyoji nghĩ thế nào?” Anh quay sang nhà ngoại cảm.

Komyoji đang ngồi trên cái đôn đặt trước kệ trang trí, im lìm suốt từ nãy tới giờ, hai tay nắm lại đặt ở đầu gối.

“Linh hồn trong nhà đang hoảng sợ.” Cô từ từ ngẩng lên, giọng bình tĩnh như thường. “Từ đầu tôi đã cố tìm dấu vết linh hồn. Trước tiên có thể khẳng định, vong linh đang lẩn khuất nơi đây. Nhưng tôi thấy không phải ác linh. Họ không tỏ ra thù địch gì với chúng ta cả. Ngược lại, bước sóng cho thấy họ còn hơi sợ chúng ta nữa.”

“Thế ạ?”

“Vậy nên, thay vì túm tụm một chỗ, chi bằng chia ra mỗi người một nơi. Để giao tiếp với linh hồn dễ dàng hơn, trước tiên cần làm họ bớt cảnh giác.”

“Tôi hiểu rồi.” Kobayakawa gật đầu thật mạnh, quay sang anh phóng viên ảnh đang so vai lộ rõ vẻ hoang mang. “Ở nơi như thế này, tốt nhất là nên dựa vào ý kiến của cô Komyoji. Được chứ, Utsuumi?”

“Vâng…”

“Thế thì trước tiên chúng ta chia phòng đã.”

Sau một hồi thảo luận, thứ tự phòng được chia như sau.

Ba phòng ngủ khu sinh hoạt để cho phụ nữ. Tính từ Đông sang Tây là Komyoji, Sakiko rồi Kozue.

Trong mười hai phòng số thuộc khu sưu tập, thì các phòng đánh số I, II, III ở cánh Bắc lần lượt chia cho ba sinh viên Uryu, Watanabe, Kawarazaki; các phòng VII, VIII, IX ở cánh Nam dành cho Kobayakawa, Kawaminami và Utsuumi.

Sau đó, họ điền danh sách chia phòng lên sơ đồ mặt bằng mà Uryu vừa vẽ, đem dán lên tường đại sảnh. ?

“Vậy…” Kobayakawa ngó mặt bàn xem lại giờ, rồi bảo mọi người. “Tạm thời chúng ta giải tán, ai mang đồ về phòng nấy. 8 giờ lại tập hợp ở đây. Có chuẩn bị cơm hộp rồi. Sau bữa tối, tầm 9 giờ chúng ta bắt đầu buổi gọi hồn thứ nhất. Như vậy có ổn không, cô Komyoji?”

Nhà ngoại cảm mặc đồ đen chậm rãi đưa mắt nhìn tám người ăn vận y như mình, lẳng lặng gật đầu thay lời đáp.

Đại sảnh sau bữa tối.

Chín tiếng chuông nhất loạt vang lên từ những chiếc đồng hồ trên kệ, làm mọi người đang tập trung ở đây giật nảy mình.

Bàn tròn kê giữa phòng giờ phủ kín vải đen, trên bàn là một cây nến màu đỏ lập lòe, đèn điện đã tắt hết. Chín người mặc đồ đen ngồi quanh bàn. Theo hướng dẫn của Komyoji, mọi người bỏ dép lê ra và trùm mũ linh y lên.

Giữa vùng tiếng chuông với đủ mọi âm sắc hòa vào nhau như xoáy nước, Kawaminami vô thức ngước lên nhìn trần nhà.

Căn phòng có mái vòm rất cao, ánh nến chập chờn trên nền tường cong quét vôi trắng. Quanh chùm đèn hình nhánh ở giữa trần là mười hai ô cửa sổ nhỏ hình tròn. Các cửa lắp kính màu lục thẫm, đường kính tầm 20 phân. Một lần nữa, bố cục này lại khiến người ta liên tưởng đến mặt đồng hồ.

“Nào, mọi người,” Komyoji lên tiếng, vẻ mặt thần bí. “Bây giờ chúng ta sẽ thử liên lạc với linh hồn.”

Đây là lần đầu tiên Kawaminami tham gia một buổi gọi hồn. Tuy luôn hoài nghi về sự tồn tại của thế giới bên kia, nhưng có thể là do đang ở một trong các Quán của Nakamura Seiji, lại thêm bầu không khí vô cùng huyền bí, cậu không khỏi rùng mình.

“Mọi người hãy nắm lấy cổ tay người ngồi bên phải mình. Nhìn chăm chú vào ngọn nến trên bàn. Loại bỏ tạp niệm để đầu óc thanh tĩnh, hòa mình vào không khí trong phòng.”

Kawaminami ngồi bên trái Komyoji (thứ tự ngồi là do cô ta sắp xếp), Kozue ngồi bên trái Kawaminami, cứ thế, theo chiều kim đồng hồ lần lượt là Uryu, Watanabe, Kobayakawa, Utsuumi, Kawarazaki, Sakiko.

Trong thời gian gọi hồn, không ai được phép quay phim chụp ảnh.

“Tôi sẽ đảm nhận phần gọi hồn. Dù có bất kì chuyện gì xảy ra, xin mọi người đừng hét to hay vùng dậy khỏi ghế. Như tôi nói ban nãy, linh hồn trong nhà đang hoảng sợ. Khi linh hồn xuất hiện, nếu muốn bắt chuyện thì hãy nói nhỏ và dùng từ ngữ nhẹ nhàng. Chỉ cần chúng ta đừng tỏ ra thù địch thì tuyệt đối không có nguy hiểm gì. Sẵn sàng chưa?”

Kawaminami đưa tay phải nắm lấy cổ tay trái Komyoji. Đúng như cậu hình dung, tay cô rất mềm, nhưng lạnh giá dị thường. Trong khi đó, bàn tay Kozue ở bên trái vươn sang nắm cổ tay cậu lại rất ấm, thậm chí lòng bàn tay còn râm rấp mồ hôi.

“Bắt đầu.” Dứt lời, Komyoji im lặng nhắm mắt.

Mọi người làm theo lời dặn, chăm chú nhìn cây nến ở giữa bàn. Có mùi nước hoa nhè nhẹ phảng phất. Giống mùi Kawaminami ngửi thấy lúc gặp nhà ngoại cảm ở cư xá Green Heights.

Sự tịch mịch khiến bầu không khí trở nên căng thẳng. Cứ ngồi bất động như thế, Kawaminami cảm thấy tiếng đồng hồ tích tắc càng lúc càng to. Có lẽ vì nhà này thấp hơn mặt đất, lại không có cái cửa sổ nào ra hồn nên nhiệt độ trong phòng không cao lắm, thậm chí còn man mát. Thế mà mồ hôi vẫn cứ từ từ rịn ra dưới lớp áo đen, có lẽ là tại căng thẳng chăng.

Thêm một lúc…

Tiếng chuông thánh thót đột ngột vang lên từ một trong những chiếc đồng hồ đặt trên kệ trang trí làm mọi người giật bắn mình.

Đã hơn mười lăm phút trôi qua rồi ư?

Kawaminami liếm đôi môi khô ran, rời mắt khỏi cây nến, len lén liếc Komyoji. Đúng lúc ấy, những biến đổi đầu tiên xuất hiện ở nhà ngoại cảm vẫn ngồi cúi đầu bất động nãy giờ. Thoạt tiên là một cử động khe khẽ, mắt vẫn nhắm, mặt vẫn cúi, nhưng đầu nhẹ nhàng xoay hai bên trái phải. Tốc độ xoay nhanh dần, hơi thở trở nên gấp gáp, mũ trùm đầu tuột xuống, tóc rối, hai vai nhấp nhô kịch liệt.

Mọi người bắt đầu lao xao.

“Suỵt,” ai đó lên tiếng.

“Im lặng nào.” Giọng Kobayakawa. “Cô ấy chuyển sang trạng thái nhập hồn rồi đấy.”

Nhà ngoại cảm chuyển động mạnh hơn. Không chỉ đầu mà toàn bộ thân trên của cô cũng xoay trái xoay phải, làm rung lắc cả bàn tay Kawaminami đang nắm tay cô.

Trạng thái này diễn ra tầm hai, ba phút, rồi chấm dứt. Nhà ngoại cảm đổ gục đầu tới trước.

Mọi người lại nhao nhao khiến Kobayakawa phải suỵt thêm tiếng nữa. Hô hấp của nhà ngoại cảm nhẹ nhàng dần đi. Tất cả nín thở theo dõi. Một lát sau, Komyoji thở đều đặn như đang ngủ.

Rồi, đột ngột…

“Tôi…” Một giọng mỏng tanh, yếu ớt thoát ra từ miệng nhà ngoại cảm đang gục đầu. “Tôi đang ở… đây.”

Giọng nói phập phù, rời rạc xen lẫn tiếng thổn thức, khác hẳn giọng Komyoji ban nãy. Chắc là linh hồn đã nhập vào cô rồi.

“Tôi, ở đây. Tôi…”

Tóc mái xõa xuống che khuất nửa khuôn mặt của nhà ngoại cảm, chỉ trông thấy đôi môi màu tím mấp máy.

“Vậy là cô đã tới,” Kobayakawa khẽ khàng bắt chuyện. “Cô có thể trả lời câu hỏi của tôi được không?”

Sau một khoảng lặng, giọng kia đáp, “Vâng…”

“Cô là ai?” Kobayakawa hỏi.

Lại một khoảng lặng.

“Tôi, là… tôi là…”

“Cho chúng tôi biết tên được không?”

“To… wa…”

“Towa à? Towa là tên của cô à?”

“Towa… là tên tôi.”

Towa.

Kawaminami nhìn môi nhà ngoại cảm, cái tên kia vang vọng trong lòng cậu. Âm Nhật đọc là Towa, viết bằng chữ Hán là Vĩnh Viễn. Tên người con gái đã mất của Koga Michinori. Kawaminami đã nghe Kobayakawa kể qua.

“Cha cô là ông Koga Michinori, người xây nhà này, phải không?”

“Vâng…”

“Thế tại sao cô…”

Kobayakawa vừa nói tới đây, lửa nến tự dưng tắt ngấm. Vài người thảng thốt la lên. Kawaminami cũng không khỏi bàng hoàng vì tình huống bất ngờ. Tại sao nến tắt? Có ai thổi đâu…

“Trật tự nào.” Trong bóng tối, Kobayakawa bình tĩnh nhắc nhở. “Đừng làm rộn, cũng đừng đứng dậy… Tiếp tục!”

“Tôi…” Không đợi hỏi, giọng nhà ngoại cảm lại vang lên trong bóng tối. “Mười… sáu… tuổi…”

“Mười sáu tuổi? Lúc mất cô mười sáu tuổi à?”

“Không phải.”

“Vậy thì…”

“Tối quá… hố đen… đau. Đau quá!”

“Cô muốn nói gì? Xin hãy nói dễ hiểu hơn được không ạ?”

“Đau… đau. Đau quá. Đau quá.” Giọng nói cứ lặp đi lặp lại những từ giống nhau một cách khổ sở. “Đau quá. Đau quá, đau, đau…”

“Có chuyện gì thế ạ. Xin cô hãy trả lời.”

“Đau quá, đau…”

Mất một lúc, cơn nức nở làm cô nói không ra tiếng, chỉ nghe thổn thức liên hồi. Kobayakawa không hỏi nữa. Trong bóng tối xòe tay chẳng thấy ngón, Kawaminami vô thức siết mạnh cổ tay Komyoji.

Thế rồi, như để dìm lấp những tiếng thổn thức đang yếu dần của linh hồn, đồng hồ trên kệ thi nhau ngân chuông. Chính vì đang ở trong bóng tối, nên có cảm giác tiếng chuông gối chuông còn vang vọng và kéo dài hơn bình thường.

Khi tất cả đồng hồ đã ngừng chuông, tình hình buổi gọi hồn cũng thay đổi. Cơ thể Komyoji lại rung lắc dữ dội. Kawaminami đang nắm cổ tay cô cũng bị giật theo, suýt nữa ngã nhào khỏi ghế. Cơn rung lắc truyền đi khắp mọi người quanh bàn, có vài chiếc ghế xê dịch ken két trên sàn.

“Anh Kobayakawa, thế này không sao chứ?” Utsuumi nơm nớp hỏi.

“Cậu đừng lo. Cứ ngồi yên, và im lặng đi.”

“Ngồi yên á?”

“Suỵt.”

Cuối cùng cơn rung lắc cũng chấm dứt, sự tịch mịch lại bao trùm.

Komyoji đã thở đều đặn, tiếng nức nở cũng không còn. Chẳng rõ có phải do bóng tối, Kawaminami cảm thấy mùi nước hoa nồng hơn nhiều.

“Tôi hỏi tiếp nhé?” Kobayakawa lại thử bắt chuyện. “Cô Towa. Tên của cô là Towa, đúng không?”

Không thấy trả lời như ban nãy nữa. Nhưng một lát sau… Cộp! Không hiểu từ đâu trong phòng vang lên tiếng vật cứng đập mạnh.

Gì vậy?

Kawaminami hốt hoảng nhìn quanh, nhưng tất nhiên là không thấy gì cả. Nến đã tắt, bốn bề tối om om. Ánh sao cũng không thể lọt qua những ô cửa sổ nhỏ trên trần để rọi xuống đây.

“Tiếng động vừa rồi là do cô gây ra phải không?” Kobayakawa bình tĩnh hỏi. “Nếu đúng, cô có thể gây tiếng động lần nữa được không?”

Một tích tắc, _cộp_ lần nữa, nghe như tiếng gõ vào bàn, ghế hay tường.

“Tôi hiểu rồi. Cảm ơn cô.” Kobayakawa tiếp tục hỏi, giọng trước sau vẫn rất điềm đạm. “Nếu được, rất mong cô cho biết thêm về tình hình lúc cô ra đi. Cô Towa mất vì bệnh phải không?”

Vẫn là âm thanh đó. Lần này là hai tiếng.

“Nghĩa là ‘không’ phải không? Nếu thế, xin hãy trả lời bằng một tiếng.”

_Cộp_, một tiếng.

“Ra vậy. Cô không mất vì bệnh. Tai nạn phải không ạ?” _Cộp cộp._ Hai tiếng liên tiếp. Nghĩa là không.

“Cũng không phải do tai nạn? Thế thì…”

Kobayakawa định tiếp tục thì một tiếng rít kì dị làm rung chuyển không gian tăm tối, làm ai nấy giật thót. Đó là âm thanh phát ra từ miệng nhà ngoại cảm, nghe thảm thiết sởn gai ốc như bị bóp cổ. Cô vừa rú rít vừa bắt đầu một đợt rung lắc mới.

“Có chuyện gì thế?” Lúc này, ngay cả Kobayakawa cũng ít nhiều bối rối. “Rốt cuộc là…”

Tiếng rít thảm thiết tắt lặng, nhà ngoại cảm cũng thôi rung lắc. Và bật ra một lời…

“Chìa khóa. Có chìa khóa…” Khác hẳn với giọng yếu ớt pha thổn thức ban nãy, đây là giọng của Komyoji. “Đằng sau kệ trang trí trước mặt tôi, có chìa khóa.”

Sau một tiếng _hức_ tắc nghẹn, cô nín bặt. Lại thêm một lúc, khi đã xác định sẽ không còn chuyện gì tiếp tục nữa, Kobayakawa mới cất tiếng, “Được rồi. Bật đèn lên.”

Chỉ tích tắc, ánh sáng của chùm đèn treo trên trần đã đổ đầy căn phòng.

Komyoji gục mặt trên bàn, bất động như thể đã kiệt sức.

Kobayakawa lại gần, lay nhẹ vai cô, “Cô vẫn ổn chứ? Cô Komyoji?”

Nhà ngoại cảm vụt ngẩng mặt lên như vừa bừng tỉnh, lơ láo nhìn quanh rồi hỏi.

“Hồn đâu? Có xuất hiện không?”

“Có. Còn trả lời câu hỏi của tôi nữa.”

“Thế à?” Komyoji mỉm cười nhợt nhạt, hít một hơi thật sâu. “Tôi mệt rồi. Tối nay đến đây thôi.”

“Cô còn nhớ những lời cuối cùng cô nói không?”

“Cuối cùng? Lời của tôi á? Chứ không phải của linh hồn?”

“Nghe thì là cô nói đấy.”

“Ừ, anh nói tôi mới ngờ ngợ. Hình như vì đột nhiên trông thấy cái gì đấy nên mới nói thế.”

“Có chìa khóa. Còn nói là nó ở sau cái kệ trước mặt cô.”

“Chắc thế.”

“Trước mặt cô, hẳn là cái kia?”

Kobayakawa lẩm bẩm và rời khỏi chỗ Komyoji. Anh đi vòng qua bàn, tiến lại cái kệ đang nói. Kệ này nắm sát bức tường có một cửa dẫn về hướng nhà bếp và một cửa dẫn ra tiền sảnh.

“Chúng ta tìm thử xem.”

Kobayakawa, Kawaminami, Uryu và Kawarazaki cẩn thận mang từng cái đồng hồ trên kệ ra bàn rồi cùng hợp sức nhích rộng kệ ra khỏi tường. Nhích được chừng mấy chục phân, Uryu và Kawarazaki từ hai đầu ló vào xem.

“Ồ, có này.” Kawarazaki thò tay vào khe hở, nhặt lấy một chiếc chìa khóa dính đầy bụi. “Không biết đây là chìa khóa chỗ nào?”

“Chịu…” Kobayakawa nhận lấy cái chìa màu bạc từ tay Kawarazaki, đặt nó xuống bàn trước mặt nhà ngoại cảm vẫn ngồi nguyên trên ghế. “Tìm thấy rồi, cô Komyoji. Nó có nghĩa gì vậy?”

“Tôi không biết.” Komyoji chậm chạp lắc đầu. “Có thể là… À không, vẫn chưa rõ. Thế này nhé, tạm thời cứ để tôi giữ chìa. Biết đâu tôi lại trông thấy gì qua nó.”

“Thật đáng kinh ngạc.” Người đang phát biểu cảm nghĩ một cách vô tư ấy là Kozue. Cô thổi phù phù tách trà túi lọc bốc hơi nghi ngút mới pha trong bếp. “Bối rối thật. Quá ấn tượng! Đây là lần đầu tiên em được chứng kiến cảnh này đấy.”

“Quả là sửng sốt.” Watanabe vừa cọ cọ cái mũi tẹt vừa gật đầu hưởng ứng. Khuôn mặt chằng chịt sẹo trứng cá của cậu trông y như nắm cơm tròn rắc vừng. Nếu gỡ kính ra thì lại càng giống. “Tớ từng xem một buổi gọi hồn của chị Komyoji trên ti-vi. Nhưng ấn tượng bấy giờ không mãnh liệt như hôm nay.”

“Thế à?”

“Ừ, chẳng có hiện tượng dị thường nào cả. Chỉ thấy giống như mấy bà đồng vớ vẩn ấy.”

“Hay là tại có máy quay? Thế thì chịu rồi. Không nên cho những thứ nhân tạo vào một buổi gọi hồn. Ban nãy chị Komyoji cũng nhắc còn gì.”

“Ừ, có lẽ. Uống trà nhé.”

“Mời cậu. À, các anh chị cũng uống trà đi ạ.”

Sau buổi gọi hồn, vải đen phủ bàn đã được rút đi, kim đồng hồ dưới mặt kính chỉ 10 giờ 20 phút.

Komyoji về phòng ngay. Kobayakawa bảo muốn đi xem đồng hồ ở các phòng số, nên cũng rời đại sảnh. Bảy người còn lại ngồi xuống quanh bàn tròn.

“Anh Kawaminami nghĩ thế nào ạ?” Uryu kéo trà lại gần mình, lên tiếng hỏi.

“À thì…” Kawaminami búng tàn thuốc vào chiếc gạt tàn tìm được trong bếp. Đây là điếu đầu tiên cậu hút từ khi đặt chân đến Thời Kế Quán. “Anh mới vào làm ở ban biên tập CHAOS hồi mùa xuân năm nay thôi. Đây cũng là lần đầu tiên đi thực địa thú vị thế này. Ban nãy, quả thật anh rất sửng sốt.”

“Chà. Thế ạ?”

“Bản thân anh luôn có thái độ hoài nghi với tất cả những thứ gọi là hiện tượng tâm linh. Kể cả buổi gọi hồn ban nãy, thoạt tiên anh cũng bán tín bán nghi, nhưng khi tận mắt chứng kiến tình hình không thể tin nổi ấy…”

“Thì buộc phải tin, đúng không ạ?”

“Ừm, đúng.”

“Cậu sao thế, Uryu?” Sakiko hỏi, liếc nhìn khuôn mặt của cậu bạn từ thuở thiếu thời. “Cậu có đánh giá gì khác hả?”

“Ừ, có một chút.” Uryu lấp lửng đáp.

“Anh nghi ngờ gì à?” Kozue ngạc nhiên hỏi. “Thiệt tình, lúc nào cũng vậy.”

“Thôi, Kozue.” Kawarazaki cười nhạt. “Thật ra anh cũng nghĩ giống Uryu đấy, thấy nó cứ thiếu tự nhiên sao á.”

“Gì? Cả anh Kawarazaki cũng không tin?”

“Anh cảm thấy diễn biến quá thuận lợi ấy. Đúng không, Uryu?”

“Ừ.” Uryu chống một khuỷu tay lên bàn, gật gù. “Cực kì trơn tru, như thể tiến hành theo một kịch bản dàn dựng vậy. Em không thấy thế à?”

“Sao cơ…” Kozue càng lúc càng không thể chấp nhận nổi quan điểm của họ, tiếp tục tranh luận. “Giọng chị Komyoji khác hẳn đi còn gì, giống kịch ở chỗ nào? Cả nến tắt, bàn kêu… Các anh đang bảo đều là lừa phỉnh hay sao?”

“Khả năng ấy cũng không thấp…”

“Nhưng mà…”

Kawaminami vừa nghe đám sinh viên tranh luận, vừa thầm hình dung lại cảnh tượng buổi gọi hồn.

Nến tự dưng tắt ngấm…

Không thấy ai chủ động thổi tắt. Nếu nguyên nhân là gió thì ít ra trước khi tắt, ngọn lửa cũng phải chập chờn lay động chứ. Dù rằng cậu không nhìn châm chằm vào cây nến, nhưng cách tắt của nó y như kiểu có bàn tay vô hình tự dưng bóp bấc nến ấy.

Tiếng gõ vào bàn…

Chính là hiện tượng rapping*. Tiếng động nghe không giống tiếng giậm chân hay thúc đầu gối vào bàn, mà giống như dùng nắm tay đập vào vật cứng nào đó. Từ đầu đến cuối buổi gọi hồn Kawaminami luôn nắm một cổ tay Komyoji, tay kia của Komyoji thì nắm cổ tay Sakiko, thế nên chắc chắn Komyoji không thể dùng tay gõ bàn. Tương tự, tám người còn lại trong vòng tròn cũng nắm tay nhau nên không ai làm thế được.

Tiếng động phát ra trong những căn phòng hay khoảng không gian không người, thường được cho là dấu hiệu siêu nhiên hay hồn ma.

“Gọi hồn cũng có nhiều loại, Kozue cũng biết mà phải không?”

Đáp lại câu hỏi của Uryu, Kozue nghi hoặc gật đầu.

Uryu tiếp tục, “Đầu tiên, có thể chia gọi hồn thành hai dạng ‘vật lý’ và ‘tâm lý’. Gọi hồn dạng vật lý biểu thị tâm niệm của người đã khuất thông qua những hiện tượng vật lý siêu nhiên, ví như đồ đạc tự di chuyển, âm thanh kì lạ hay ngoại khí ectoplasm*… Còn gọi hồn dạng tâm lý truyền đạt tâm niệm của người đã khuất bằng ngôn từ thông qua người gọi hồn. Có vô số cách truyền đạt, ví như chữ tự động viết ra, hay lời tự động tuôn ra, không theo ý chí của người gọi hồn. Komyoji nói thay linh hồn, hiển nhiên là gọi hồn dạng tâm lý. Thế mà lại xảy ra những hiện tượng vật lý như nến tắt hay rapping. Vậy nên anh mới nghĩ, linh lực của nhà ngoại cảm này thật khác thường.”

Các chất bài xuất từ người trung gian tâm linh trong các buổi gọi hồn. Nó được cho là biểu hiện vật chất hóa của linh hồn hay đơn giản là một loại vật chất có sẵn trong thân thế người được kích hoạt khi thực hiện nhập hồn. Arthur Conan Doyle đã miêu tả ectoplasm như chất keo nhớt có thể đông đặc lại thành một dạng vật chất hữu hình, khác với mọi dạng vật chất từng được biết đến.

“Cũng đúng nhỉ?”

“Trên thế giới lâu nay có bao nhiêu người tự xưng là nhà ngoại cảm, nhưng đại đa số đều là lừa bịp cả. Ví như…” Uryu tạm ngừng, nhấp một ngụm trà. “Mọi người đã nghe danh chị em nhà Fox ở Mỹ chưa?”

“Nhà Fox à… Nghe đâu họ chính là tổ nghề gọi hồn.”

“Đúng rồi. Hoạt động tích cực của họ đã châm ngòi cho phong trào chủ nghĩa tâm linh Mỹ và châu Âu nửa cuối thế kỉ 19. Cách giao tiếp linh hồn của họ là những tiếng gõ. Giống như phần sau buổi gọi hồn ban nãy, gõ vào đồ vật, cồm cộp, lách cách… dùng tiếng động lạ để chuyển tải thông tin. Nhưng mà về sau, một trong ba người đã thú nhận đó chỉ là lừa bịp thôi.”

“Lừa bịp?”

“À, mà còn là kiểu lừa bịp cực kì đơn giản. Bẻ khớp chân cho nó phát ra tiếng động.”

“Không phải chứ!” Đôi môi phớt hồng của Kozue chu lại chán nản, “Nhưng mà ban nãy nhất định không phải là tiếng bẻ khớp, phải không Watanabe?”

Đột nhiên bị trưng cầu ý kiến, Watanabe chớp mắt lia lịa, “Đúng, nếu là tiếng khớp xương thì chúng ta sẽ biết ngay. Với lại…” Cậu liếc Uryu. “Mặc dù Maggie Fox có tự bạch trên New York World rằng họ chỉ bịp bợm, nhưng không bao lâu sau bà ta đã rút lại lời tự bạch. Vì thế chân tướng sự việc đến giờ vẫn trong vòng tranh luận mà.”

“Cậu nắm rõ thật.” Uryu mỉm cười hào hứng. “Thật ra, muốn tạo tiếng gõ thì còn cách khác nữa.”

“Ý cậu là tiểu xảo của Eusapia Palladino?”

“Ối chà! Cậu biết rõ thế còn gì!”

“Đúng là có khả năng ấy, nhưng Uryu ạ, cái gì cũng nghi ngờ thì tớ cảm thấy không thỏa đáng lắm đâu.”

Hội nghiên cứu có khác, Uryu và Watanabe đều có kiến thức phong phú về lĩnh vực này, nhưng xem ra lập trường lại khác nhau. Trong khi Uryu giữ thái độ hoài nghi sắt đá đến cùng thì Watanabe lại đứng về phe thỏa hiệp. Kawaminami đâm ra tò mò, không biết thành viên trong hội nghiêng về lập trường của ai.

“Bất ngờ đấy!” Kawaminami châm điếu thuốc mới. “Anh cứ nghĩ là hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí sẽ tập trung toàn những người tin vào mấy chuyện tâm linh chứ.”

“Cũng không hẳn là em không tin,” Uryu đáp. “Vì em vẫn không thể mạnh dạn phủ quyết sự tồn tại của linh hồn, siêu năng lực hay UFO. Nếu gặp được người có bản lĩnh thực sự, thì cho dù người ta có thờ tà giáo, em vẫn sẽ rộng lòng đón nhận. Nhưng muốn để em đón nhận, thì dứt khoát phải cho em bằng chứng khoa học đủ giải tỏa hết hiềm nghi.”

“Anh hiểu cảm giác này.”

“Nhưng nói vậy thì mấy người như Watanabe sẽ phản đối đấy.”

“Phản đối thế nào cơ?”

“Cậu ấy cho rằng bản thân khái niệm ‘bằng chứng khoa học’ đã không đáng tin rồi, dùng khoa học tự nhiên đi chứng minh những hiện tượng siêu tự nhiên siêu khoa học thì thật vô nghĩa.”

“À, thì ra vậy… Uryu vẫn thấy buổi gọi hồn ban nãy chỉ là chiêu trò lừa gạt thôi nhỉ?”

“Nói chung em không thể tin tưởng vô điều kiện. Mọi người từng bảo em quá đa nghi, ừm. Quả thật, em cũng cảm thấy thế.”

“Tụi em nhập hội vì lý do khác với Watanabe hay Kozue. Bị cái đó rồi, nên có đa nghi cũng là bình thường.” Kawarazaki nói.

“Bị cái đó là bị gì cơ?” Kawaminami hỏi.

“Bị lừa gia nhập á anh.” Kawarazaki xoa xoa cằm.

“Bị lừa?”

“Kể ra thì cười sặc.” Uryu tiếp lời. “Hôm khai giảng, em, Sakiko, Kawarazaki và Fukunishi bốn đứa đi dạo trong sân trường, đến đâu cũng gặp cảnh các câu lạc bộ mời chào thành viên mới, một trong số đó là hội nghiên cứu này. Vì tên hội là Hội Mystery làm tụi em tưởng là hội liên quan đến tiểu thuyết trinh thám. Fukunishi, bạn mà hôm nay không tới được ấy, là một người cực kì thích tiểu thuyết trinh thám nên đã rủ cả đám đến văn phòng hội tham quan. Vừa đến là biết chẳng liên quan gì đến trinh thám rồi, nhưng họ lại cho tụi em xem một màn biểu diễn tại chỗ không thể tin được. Một thành viên bảo sẽ dùng ý nghĩ mượn một tờ 1000 yên của em, và quả nhiên làm cho nó bay ra lơ lửng trên không. Tất cả trố mắt há miệng, bàn tán xôn xao cả lên, giỏi quá, không thể tin được. Thừa cơ tụi em dao động, họ bèn gian xảo ghi luôn tên bốn đứa vào danh sách.”

“Phục ghê!” Kawarazaki cười đau khổ.

Uryu cũng cười đồng tình, “Vào hội được một tháng, tụi em mới biết tiểu xảo đó tên là trò ảo thuật Tiền Bay. Cả lũ đã rơi vào cái bẫy lôi kéo của họ. Nhưng cũng may đều hơi hứng thú với các hiện tượng siêu nhiên, nên tụi em cũng không nổi cáu bỏ hội…”

Rồi cậu quay sang Kawaminami. “Trong buổi gọi hồn ban nãy, hồn nhập thể Komyoji có nói… Tên cô ấy là Towa nhỉ? Có đúng con gái ông Koga Michinori tên là Towa không ạ?”

“Hình như đúng.” Kawaminami trả lời. “Koga Towa. Viết bằng Hán tự là ‘Cổ Nga Vĩnh Viễn’. Cô ấy còn mất trước cả ông Michinori. Theo lời chị Sayoko nói ở phòng khách bên Tân quán thì đó là chuyện mười năm về trước.”

“Mười năm về trước… à?” Uryu chậm rãi chớp mắt trong lúc trầm ngâm suy nghĩ. “Lúc anh Kobayakawa hỏi nguyên nhân cái chết, cô ấy đã trả lời là không phải vì bệnh, cũng không phải vì tai nạn. Vậy thì…”

“Tự sát… Hoặc là bị giết. Lúc đó chúng ta còn nghe được mấy cụm từ như ‘mười sáu tuổi’ rồi ‘hố đen’ nữa.”

“Hố đen…” Uryu đăm chiêu ra mặt. “Đúng là chuyện đáng để tâm.”

“Không lẽ nào,” Sakiko lẩm bẩm, đưa mắt nhìn đồng hồ lớn vẫn đang nhích kim dưới mặt kính, khẽ lắc đầu. “Cô gái đó không thể tự sát được…”

Uryu bất thần hít mạnh. Kawarazaki cũng có phản ứng tương tự.

“Cô gái đó! Các em biết cô con gái nhà này à?” Kawaminami dò hỏi.

Sakiko vẫn nhìn đăm đăm vào một điểm, gật đầu. “Em nghĩ thế.”

“Đã gặp mặt rồi à? Ơ, nói mới nhớ, chính là chuyện các em kể lúc ở trên taxi, phải không? Các em từng đến chơi mạn này, và gặp cô ấy, phải không?”

“Vâng… Chắc thế. Gặp lúc chơi trong rừng.”

“Uryu và Kawarazaki thì sao?”

“Em không nhớ lắm.” Kawarazaki gãi cằm. “Nhưng mà Uryu và Sakiko đã nói thế thì chắc là thế.”

“Thật ra tớ cũng không nhớ rõ lắm mà.” Uryu nói. “Vì chuyện từ mười năm trước, hồi bọn mình còn học lớp Năm cơ mà. Kí ức nhòe nhoẹt như một tấm ảnh không lấy nét… Nhưng đúng là có gặp một cô gái ở đó.”

“Tớ thì không nhớ kĩ từng chi tiết.”

“Tớ càng không,” Kawarazaki nhún vai thật mạnh. “Trí nhớ tớ không tử tế cho lắm, quên béng mọi chuyện từ đời kiếp nào, chỉ nhớ ngôi nhà thôi.”

“Em có thể kể lớp lang lại cho anh nghe không?” Kawaminami hỏi Sakiko, “Mùa hè mười năm trước các em tham gia trại tập huấn của cơ sở dạy thêm. Trong lúc chơi ở khu rừng gần trại, cả đám đã gặp một cô gái. Sau đó thì sao? Làm sao các em biết đấy chính là cô con gái tên Towa?”

“Bởi vì cô ấy chính là con của gia đình này.” Giọng Sakiko cho thấy kí ức đang từ từ quay trở lại. “Bấy giờ chưa có tháp đồng hồ, chỉ có ngôi nhà thôi. Tụi em đi cùng cô ấy đến đây…”

“Mấy đứa đi cả à?”

“Vâng.”

“Sao nữa?”

“Em nhớ có gặp người nhà họ, nhưng tụi em không vào bên trong.”

“Gặp ai? Có khi nào là ông bố, ông Michinori?”

“Có thể. Nhưng mà không hiểu sao, em lại nhớ là một đứa bé trai.”

“Bé trai… a.” Kawaminami nhớ lại đoạn đối thoại giữa Sakiko và Uryu sau khi thiếu niên xinh đẹp nọ xuất hiện trong phòng khách Tân quán. “Ý em là Yukiya phải không?”

“Em nghĩ thế.” Sakiko lưỡng lự đưa tay vuốt mái tóc dài đen. “Lúc tiễn cô gái về nhà, tụi em bất gặp một bé trai, rất đáng yêu… Vì thế…”

“Có lý.”

“Anh Kawaminami,” Watanabe nãy giờ vẫn im lặng nghe họ trao đổi bỗng dưng ngại ngần xen vào. “Em cho rằng, mình nên tạm gác hồi ức của các anh chị qua một bên để tập trung vào vấn đề trước mắt là, tại sao cô Towa lại qua đời, được không ạ? Nếu hồn ma lẩn khuất trong Thời Kế Quán chính là của cô gái chết mười năm trước, thì phải chết kiểu gì mới khiến linh hồn vất vưởng trên nhân gian mãi chứ? ”

“Nhắc đến vấn đề, ngay cậu thiếu niên kia cũng có vấn đề.” Uryu hỏi, “Anh Kawaminami, anh còn nhớ lời cậu ta nói với chị Sayoko không?”

“À có.”

Kawaminami cũng băn khoăn về điều đó. Uryu nhíu mày.

“Chị đâu rồi? Cậu ta hỏi thế. Chị ở đây là cô Towa chăng? Nhắc đến người chị đã qua đời từ lâu như thể cô ấy vẫn sống. Mà Sayoko còn phụ họa nữa chứ…”

“Trông phản ứng của Kobayakawa bấy giờ thì hình như anh ấy cũng ít nhiều nắm được tình hình của nhà Koga.”

Khi Kobayakawa trở lại đại sảnh thì chuông đồng hồ đã điểm 11 giờ.

Bấy giờ, Kozue đang vào bếp vì Uryu nhờ pha thêm một tách trà nữa. Utsuumi im lìm cầm máy ảnh, toan mở một chai rượu whiskey không rõ lấy ở đâu thì thấy Kobayakawa vừa ngáp vừa đi vào từ cửa Bắc.

“Ái chà. Cậu mang thứ này theo lúc nào đấy?” Kobayakawa hỏi ngay.

Utsuumi lúng túng vuốt râu. “Ở trong túi dụng cụ, nó…”

“Cậu đúng là đồ cơ hội. Đã cấm không được mang đồ ‘không thuần khiết’ vào còn gì.”

“Hà.”

“Thôi, uống một chút cũng được, miễn là đừng để cô Komyoji phát hiện ra.”

“Phải nhỉ! Anh cũng uống luôn nhé?”

“Uống luôn.” Kobayakawa bật cười thích chí, “Thật ra tôi còn giấu ba chai trong thùng thực phẩm. Có cả bia nữa đấy.”

Đàn ông ưa bia rượu tâm đầu ý hợp, cùng pha chút nước vào whiskey rồi bắt đầu khề khà. Tất nhiên Kawaminami cũng bị lôi vào chén chú chén anh. Cậu bèn hỏi Kobayakawa về vấn đề thảo luận với Uryu ban nãy.

“Cậu bé đó à. Ừ thì…” Ngập ngừng một hồi, Kobayakawa đưa rượu lên dốc một hơi cạn sạch. “Hình như trục trặc ở chỗ này.”

“Chỗ này?” Kawaminami ngạc nhiên hỏi lại. “Đầu óc cậu ta không bình thường?”

“Ừ.” Kobayakawa gật đầu, mặt ửng đỏ vì rượu. “Cậu không nhận ra sao?”

“Ừm… Nghe anh nói em mới nhớ, ánh mắt cậu ấy hơi tán loạn, như không nhìn thấy hiện thực. Mà, cậu ấy tìm chị, là sao?”

“Cậu ấy tin chắc mười mươi là cô chị còn sống.”

“Sao đầu óc lại thành ra thế? Bẩm sinh ạ?”

“Tôi không rõ lắm. Hình như cũng không phải là thiểu năng hay gì đâu. Nghe bảo cậu ấy vốn dĩ là con trai em họ ông Michinori. Cậu ta chào đời không lâu thì cha mẹ mất cả, nên được gia đình Koga nhận nuôi.”

“Tức là con nuôi.”

“Ừ. Tình trạng của cậu ấy hẳn có liên quan đến chuyện mười năm về trước, năm ấy cô Towa chết, năm tiếp theo ông Michinori qua đời. Sau đó thần trí cậu ta mới mụ mẫm dần đi.”

“Nghe đồn nhà này liên tục có người chết. Không biết thực hư thế nào?”

“À. Về người chết thì…”

“Êu, dừng mấy chuyện này ở đây được không?” Utsuumi chen ngang, ngáp sái quai hàm rồi pha thêm một ly rượu-nước mới. “Lát nữa chúng ta đều phải về phòng riêng ngủ một mình mà cứ khơi khơi tán gẫu mấy chủ đề chết chóc, có khi ma quỷ lại tìm đến cửa đấy.”

Trông vẻ mặt nhát gan của anh phóng viên ảnh, Kobayakawa cười khổ, “Cũng phải, vậy chủ đề gì thì thích hợp đây?”

“À, chỉ bằng…” Utsuumi nhấp rượu, rồi đứng lên. “Cả bọn chụp ảnh làm kỉ niệm nhé?”

Anh cầm lấy chiếc máy ảnh đang đặt trên bàn. Khác với máy ảnh ống kính rời, đây là máy ảnh tự động cỡ nhỏ.

Trong khi đó…

“Giữa các số La Mã trên mặt đồng hồ này có một số rất khác thường.” Phía bên kia bàn tròn, Uryu đang tán gẫu với hai đàn em khóa dưới. “Mọi người nhận ra không? Và có biết tại sao không?”

“Ý cậu là số IIII á hả?” Watanabe hỏi.

Kozue ngồi bên cạnh, tỏ vẻ không hiểu, “Bốn thì sao, có gì khác thường?”

“Kí tự sai,” Watanabe trỏ vào mặt đồng hồ trên bàn. “Này, cái đồng hồ kia cũng thế. La Mã có viết số Bốn như thế đâu.”

“À, đúng nhỉ.”

Nghe vậy, Kawaminami cũng đưa mắt nhìn mặt đồng hồ dưới lớp kính. Chỗ 4 giờ là IIII. Thông thường số Bốn La Mã phải viết là IV. Kawaminami không hề để ý đến điểm này, thậm chí không cảm thấy có gì đáng ngờ nữa kia. Cậu cho rằng người ta viết IIII chẳng qua là để dễ nhìn dễ đọc hơn thôi.

Watanabe cũng chung quan điểm với Kawaminami, “Không phải sao?” Cậu nghiêng đầu. “Hay còn ý nghĩa nào khác?”

“Tớ báo trước, đây chỉ là một giả thuyết thôi nhé.” Uryu mỉm cười, bắt đầu giải thích. “Vào giữa thế ki 14, Charles V của Pháp cho lắp đồng hồ trên tháp cung điện Paris. Đó là thời trào lưu xây tháp đồng hồ thịnh hành khắp châu Âu. Ban đầu, đồng hồ dùng IV cho số Bốn, nhưng Charles trông thấy thì nổi giận.”

“Tại sao?”

“IV nghĩa là V bớt đi I. Mang tên là Charles V mà lại trừ đi I thì còn ra thể thống gì, bởi vậy ổng bắt sửa IV thành IIII.”

Trong lúc tiếp tục chủ đề ấy, các bạn trẻ cũng thể hiện rất nhiều kiến thức liên quan đến đồng hồ. Xem ra Uryu không chỉ hiểu sâu về hiện tượng siêu nhiên mà còn có kiến thức rộng về nhiều lĩnh vực khác.

Rất giống một người, Kawaminami thầm nghĩ. Và nghĩ kĩ thêm thì cậu nhớ ra là giống người nào rồi. Một người bạn thời đại học, cùng sinh hoạt trong hội nghiên cứu tiểu thuyết trinh thám…

Đã ngà ngà say, dòng suy tưởng bắt đầu tách khỏi hiện tại, lao vút về quá khứ xa xôi. Khi phát hiện ra vụ việc ba năm trước lại bất thần trỗi dậy kèm kí ức vô cùng đen tối, cậu bất giác rùng mình.

Khi đồng hồ ở khắp nơi trong nhà nhất loạt ngân lên âm vang nửa đêm, họ rời đại sảnh, đi về phòng ngủ của mình.

Kawaminami bừng tỉnh lúc 3 giờ sáng. Nguyên nhân trực tiếp chắc là do tiếng chuông đồng hồ treo trên tường.

Giữa màn đêm sâu thẳm, trong giây lát cậu không nhớ được mình đang ở đâu. Dư âm chuông ngân đã nhắc nhở cậu. Đây là phòng VIII, một trong các phòng số của Cựu quán, Thời Kế Quán.

Kawaminami chui ra khỏi tấm chăn len, từ từ ngồi dậy, cảm giác hơi buồn tiểu. Đây cũng là một trong các nguyên nhân làm cậu tỉnh giấc.

Kawaminami đứng lên, mò tay lên tường, có lẽ do uống rượu trước khi đi ngủ nên chân chuệnh choạng, đầu óc mờ mịt như sương giăng. Mất một lúc cậu mới sờ thấy công tắc đèn.

Đèn sáng, Kawaminami dụi cặp mắt lờ đờ, nhìn quanh. Phòng này hình vuông, cửa vào gắn kính mờ hình elip. Bốn mặt tường ốp gạch mosaic theo phong cách Hồi giáo. Không có cửa sổ. Ở mặt tường trong cùng là giá sách ngất ngưởng xếp chặt giấy tờ hồ sơ về bộ sưu tập. Các khoảng trống còn lại dành cho tủ kính gắn cố định vào tường, với thiết kế phù hợp cho việc trưng bày đồng hồ.

Ở khoảng trống của hai tường trái phải có thiết kế vô cùng tinh xảo. Hai đồng hồ ghép bằng gạch mosaic đường kính tầm một mét, đồng hồ hai bên đều chỉ đính một kim. Trong đồng hồ không lắp bộ phận chuyển động nào, nên có lẽ đây chỉ là đồ trang trí. Tính ra, hình như trên tường tiền sảnh và hành lang cũng có mấy chỗ trang trí mặt đồng hồ mosaic na ná thế này.

Duy chỉ có chiếc đồng hồ treo trên tường cạnh cửa ra vào còn hoạt động. Nó cũng là chiếc đồng hồ đổ chuông ban nãy, còn bộ sưu tập trong các tủ kính đều nằm im lìm, không chiếc nào hoạt động.

Phòng VIII cất giữ toàn đồng hồ kiểu Nhật* thời Edo*, nên kể cả còn chạy được thì cũng không ích lợi gì với người hiện đại. Thời đó áp dụng cách tính giờ bất định*, đồng hồ cũng thiết kế theo cách tính giờ bất định, khác hẳn cách tính giờ và đồng hồ thời nay.

Một loại đồng hồ cơ phát minh vào thời Edo để tính giờ theo hệ thống mười hai canh giờ kiểu cũ.

1603-1868. Còn gọi là thời kì Mạc phủ Tokugawa, tiếp thu khoa học công nghệ phương Tây, phát triển mạnh về văn hóa khoa học nghệ thuật.

Áp dụng từ thời Edo đến năm Minh Trị thứ 5 (1872), tính theo giờ mặt trời lặn và mọc, chia đêm (hoặc ngày) ra làm sáu phần bằng nhau, nhưng các phần này dài ngắn thế nào thì tùy mùa.

Lắc lắc cái đầu nặng trịch, Kawaminami cầm chiếc đồng hồ bỏ túi đặt cạnh gối lên nhìn. Viền đồng hồ hình tam giác ngược rất ít thấy, mặt số cũng mang hình tam giác ngược cùng chiều, chứ không lộn xuôi như đồng hồ tam giác Freemason* nổi tiếng. Theo yêu cầu cùa Komyoji, cậu để chiếc đồng hồ bỏ túi yêu thích lại bên Tân quán. Không có đồng hồ, cậu cứ cảm thấy thiêu thiếu. Mặc dù nhà này để đồng hồ khắp nơi, nhưng mỗi lần muốn xem giờ cậu đều vô thức lần tay vào túi. Vì thực sự bồn chồn, nên sau khi giải tán, cậu đã lén mượn chiếc đồng hồ này ở đại sảnh về.

Đồng hồ tam giác Freemason. Mặt đồng hồ có biểu tượng thước vuông và compa của Hội Tam Điểm, đỉnh quay về hai hướng ngược nhau.

Dĩ nhiên Kawaminami không quên lời nhắc của Sayoko, rằng không được đụng vào đồng hồ trong Quán. Nhưng cậu cảm thấy, chỉ cần sử dụng nhẹ nhàng thì cái đồng hồ không dễ mà hỏng được. Còn nếu Komyoji phát hiện và hỏi đến thì cũng không sao, vì đây là đồ vật ở sẵn trong Quán rồi, khó mà nói là đồ không thuần khiết. Xác định xong, cậu bèn làm theo ý mình. Bạo gan như thế, có lẽ cũng là tại hơi men nữa.

Kawaminami xem lại giờ. Đồng hồ chỉ 3 giờ 5 phút. Cậu lắc lư đi ra khỏi phòng. Đèn hành lang tù mù. Chân bước trên thảm trải màu nâu mà đầu óc còn mụ mẫm, cứ loạng chà loạng choạng.

Một tay vịn tường, cậu đi men theo hành lang khúc khuỷu. Được một lát thì hành lang thẳng ra, bề ngang cũng mở rộng gấp đôi, từ đây cứ đi thẳng thì sẽ đến đại sảnh.

Đèn chùm treo ở đại sảnh đã tắt. Nương theo ánh sáng hành lang, Kawaminami băng ngang qua phòng. Trên mặt bàn vẫn còn vung vãi ly tách, tiếng đồng hồ tích tắc đều đều trong tịch mịch âm u. Đi theo lối cửa Bắc, rẽ phải thì tới buồng vệ sinh. Giải quyết nỗi buồn xong, Kawaminami chuệnh choạng quay lại theo đường cũ. Ra tới hành lang, cậu bất thần dừng bước vì một âm thanh tí tách, khác hẳn âm thanh cơ khí của đồng hồ.

Tim cậu thoắt đập thùm thụp. Tuy không phải người nhát gan, nhưng cũng phải tùy xem tình hình thế nào. Canh ba nửa đêm tự nhiên nghe tiếng động lạ thì khó mà bình thản được. Hai chữ hồn ma lướt qua tâm trí cậu.

Chẳng mấy chốc, âm thanh tương tự lại vang lên, là tiếng cửa cọt kẹt.

Kawaminami không trở vào đại sảnh mà tiếp tục đi sang trái, cậu cảm thấy âm thanh nọ vang lên ở hướng ngược với đại sảnh. Tính phòng thì chắc là phòng ngủ của Komyoji… Cậu dừng lại ở chỗ rẽ trước cửa phòng nhà ngoại cảm, nhòm thử xem có gì không. Một cái bóng đen kịt lướt vụt qua trong ánh sáng tù mù. Bóng người. Kawaminami đang tự hỏi “Chị Komyoji?”, thì trông thấy cái bóng đã đến góc xa hành lang và biến mất ở lối rẽ chếch sang trái.

Kawaminami vội vàng bám theo.

Thật ra lúc này hành động của cậu không hề có mục đích rõ ràng là bám theo, đầu óc còn mụ mẫm, bước chân vẫn loạng choạng. Thậm chí còn có cảm giác kì lạ là phân nửa tâm trí mông lung này đang bị một sức mạnh bên ngoài điều khiển.

Hành lang tuôn chéo đi, như bị bóng tối hút mất. Bóng người ban nãy xuất hiện ở đêm sâu, người ấy không thắp đèn, chỉ âm thầm tiến bước. Mũi Kawaminami chợt bắt được một mùi hương quen thuộc. Mùi nước hoa của Komyoji.

Vào giờ này, mà lại chỉ có một mình, chị ta định làm gì đây. Ở cuối hành lang thăm thẳm kia chỉ có phòng quả lắc, mà căn phòng ấy cũng khóa rồi…

Bất chợt, Kawaminami vỡ lẽ… Chiếc chìa khóa bọn họ tìm thấy sau lưng kệ trong đại sảnh vào cuối buổi gọi hồn có khi chính là chìa dự phòng của phòng quả lắc.

Bóng người tan vào màn đêm. Kawaminami đang định tiến sang hành lang thì chợt nghe tiếng kim khí khe khẽ lẫn vào tiếng đồng hồ tích tắc trên tường. Tiếp đó là tiếng lách cách ngân vang.

A, ắt hẳn là cái chìa đó rồi…

Kawaminami rảo bước nhanh hơn, đã mấy lần cậu suýt ngã vì giẫm vào gấu linh y lượt thượt trên sàn. Trong bóng tối mịt mù trước mặt đột nhiên lóe lên tia sáng, hình như là lọt ra qua khe cửa phòng quả lắc.

Kawaminami tiến đến gần, áp mình vào cửa, vừa chú ý động tĩnh bên trong vừa vươn tay về phía quả nắm. Quả nắm không nhúc nhích, hẳn đã bị khóa trái… Đúng lúc đó có tiếng người phát ra bên kia cánh cửa, giọng Komyoji thì phải, nhưng không nghe rõ là nói gì.

Kawaminami áp tai vào cửa.

“… Tại sao?”

Vẫn không rõ ràng. Cố lắm chỉ nghe được hai ba chữ, có lẽ đang nói chuyện với ai đấy.

“… Làm gì… kia?”

Câu nói vang lên bỗng tắt nửa chừng, liền đó là một âm thanh trầm đục như thể có thứ bị đập vụn. Kawaminami đang cố đoán là thứ gì, thì lại nghe bịch một cái như thể ai ngã. Sao thế nhỉ?

Hoang mang cực độ.

Không hiểu gì cả.

Trong phòng xảy ra chuyện gì? Kawaminami cố sức áp tai để nghe cho rõ, nhưng chỉ bắt được tiếng đồng hồ tích tắc khe khẽ.

“Chị Komyoji!” Cố gắng xua đuổi cơn hoảng sợ đang trào dậy, Kawaminami gọi vọng qua cánh cửa. “Chị Komyoji. Có chuyện gì thế?”

Boong! Âm thanh nặng nề từ đằng sau vọng tới làm Kawaminami giật nảy mình. Chuông báo 3 rưỡi sáng. Các đồng hồ xếp dọc hành lang cũng thi nhau điểm chuông. Từ phòng quả lắc cũng có tiếng chuông vọng ra. Có tiết tấu êm ái, có cả giai điệu nước ngoài thánh thót như hộp nhạc lên giây cót…

Bối rối, hoài nghi, và cả sợ hãi khó tả xâm chiếm Kawaminami, như thể tổ hợp chuông ngân kia đã khuấy đảo tâm trí vốn dĩ mông lung của cậu. Cùng lúc, trong lòng cậu còn nổi lên ý nghĩa rất kì quái mà có vẻ cũng hợp lý, đó là tất cả cảnh tượng trước mắt đều không phải hiện thực, mà là cảnh mộng.

Một lát sau, tiếng chuông tắt lặng.

Không nghĩ ra cách nào để đối phó với tình hình này, Kawaminami hộc tốc lao về phòng như ch?