Chương 6
Di ngôn
Thứ Hai, ngày 31 tháng Bảy.
Một lần nữa, Shishiya Kadomi và Fukunishi Ryota lại đến Thời Kế Quán ở Kamakura, vẫn đi bằng chiếc Golf của Shishiya. Do chưa làm rõ được tại sao hôm trước xe chết máy nên Fukunishi cứ thấp thỏm trong lòng, nhưng cũng không thể dùng lý do đó để ngăn cản nhà văn lớn gấp đôi tuổi cậu thôi lái nó đi. Cũng may máy móc hoạt động bình thường, dọc đường lại không đông xe cộ, họ vẫn kịp đến Thời Kế Quán sớm hơn giờ hẹn.
“Anh nhà văn đã tới.”
Sayoko niềm nở ra hẳn bên ngoài nhà để đón, thái độ hoàn toàn khác hôm qua. Nụ cười xơ cứng hiện trên khuôn mặt hốc hác gồ rõ cả đôi lưỡng quyền, Sayoko lịch sự cúi chào họ.
“Cảm ơn anh nhà văn không quản xa xôi đến đây. Yêu cầu ích kỉ xong lại còn được đáp ứng thế này, tôi hổ thẹn quá.”
“Chị đừng khách sáo, tôi thẹn theo.” Shishiya ngượng nghịu đưa tay vò tóc. “Quấy rầy chị trễ quá, có sao không ạ?”
“Ban ngày tôi bận nhiều việc, chỉ đến tối mới có chút thời gian chủ động. Khiến anh nhà văn vất vả thêm nhỉ?”
“Không, không có đâu. Bình thường tôi cũng nhàn tản lắm, cả ngày rong chơi, nên không sao hết.”
“Tác phẩm của anh nhà văn thực sự thú vị, cầm lên đọc là không buông xuống được nữa, hấp dẫn đến độ tôi phấn khích phải gọi điện ngay cho anh đấy. Xin lỗi vì giờ giấc.”
“Không không, tôi không dám nhận lời khen đâu. Chị thích tiểu thuyết trinh thám ạ?”
“Tôi thích lắm. Mà đặc biệt là thích thể loại suy luận phá án như anh viết đấy, trinh thám cổ điển.”
“Nghe chị nói, tôi phấn khởi quá. Thế vụ Mê Lộ Quán trong thực tế thì chị có biết không?”
“Tôi có nghe loáng thoáng. Hình như anh nhà văn cũng bị cuốn vào vụ việc ở hiện thực đúng không nhỉ?”
“Vâng. Gần nhưthế…” Shishiya lại lấy tay vò tóc, “Chị đừng gọi tôi là ‘anh nhà văn’ nữa, trịnh trọng như thế tôi ngại lắm.”
“Thế à.” Sayoko ậm ừ, tay ấn vào tai nghe đeo ở tai phải. Tuy cười tươi đến nỗi mắt hằn thêm bao nhiêu chân chim, nhưng dáng vẻ vẫn rất gượng gạo. Có lẽ vì đang mặt đối mặt với một tác giả sáng tác được loại suy luận phá án mà chị ta đặc biệt thích, nên chị ta không khỏi ngượng nghịu.
Hay là… Fukunishi bất giác suy đoán, dựa trên những điều Shishiya kể về quá khứ của người đàn bà này.
Mười năm trước, sau khi chồng và con gái lần lượt qua đời, Sayoko không còn biết thế nào là cười nữa, chính vì thế mà nụ cười của chị bây giờ trông hoàn toàn lạc quẻ trên khuôn mặt khắc khổ.
“Tối qua cậu ấy ở nhà tôi, lúc tôi nghe điện cậu cũng có mặt.” Shishiya lên tiếng giải thích khi thấy Sayoko hướng ánh mắt ngờ vực sang Fukunishi. “Tôi bèn hỏi có muốn đi cùng tối nay không. Cậu ấy cũng là fan bự của tiểu thuyết trinh thám nên chúng tôi rất nhanh làm thân. Đáng kể là, cậu ấy vốn thuộc lực lượng thực địa Thời Kế Quán đấy…”
Sayoko không phàn nàn gì nữa, bình thản nói, “Vậy thì xin mời.” Và dẫn cả hai vào nhà.
Chị ta đi trước, cả nhóm rẽ theo một trong hai hướng tách ra từ tiền sảnh. Hướng này là một hành lang thẳng tắp. Bên trái hành lang là một dãy cửa sổ treo rèm sáo trắng. Trần hành lang lắp loại đèn giống ở tiền sảnh, cứ u ám tù mù. Có lẽ vì thế mà các mặt nạ trang trí treo bên phải hành lang trông dữ dằn đến sởn gai ốc.
“Hừm?” Shishiya kêu khẽ, đột ngột khựng lại giữa chừng.
“Anh sao vậy?” Sayoko ngoái đầu hỏi, đúng lúc đâu đó vọng đến một âm thanh kì lạ. “Coong, coong…” nghe như tiếng gõ chiêng.
“Ồ,” Shishiya lại thốt lên.
Fukunishi cũng căng tai nghe, đồng thời vô thức đảo mắt nhìn khắp xung quanh.
“Chuyện gì đấy, thưa anh?” Sayoko trịnh trọng hỏi thêm lần nữa.
Giống như Fukunishi, Shishiya cấn thận quan sát bốn bề.
“Âm thanh vừa rồi là gì?”
“Âm thanh nào cơ? Không nghe thấy.” Sayoko ngạc nhiên nghiêng đầu, tay ấn lên tai nghe. “Tôi không nghe thấy gì cả.”
“Vừa phát ra xong. Nghe như chảo gang rớt xuống sàn vậy. Này Fukunishi, cậu nghe thấy phải không?”
“Vâng.”
“Thế u?” Sayoko lộ vẻ bối rối, cúi đầu. “Như anh thấy đấy, tai tôi ngày càng tệ.”
“Đó là máy trợ thính à?”
“Vâng. Cho nên tôi không nghe thấy.”
“Âm thanh này khá yếu ớt. Dù vậy…”
“Anh không phải bận tâm đâu. Vì nhà xây trên đồi cao nên thường có âm thanh từ xa vọng lại, đặc biệt về đêm.”
“Thế à, tôi hiểu rồi.” Shishiya gật đầu, mắt hất sang tường bên phải. “Mặt nạ treo ở đây là…?”
“Ông chủ mua ở Venice trong lần đi du lịch châu Âu với bà chủ.” Sayoko lại nghiêng đầu. “Có vấn đề gì với mặt nạ sao?”
“Không, chẳng có gì to tát…” Shishiya đưa tay xoa xoa chiếc cằm nhọn, cặp mắt trũng nheo lại. “Giữa chiếc mặt nạ thứ ba và thứ tư từ phải sang có một quãng cách hơi rộng. Trước đó ở đây còn treo một chiếc mặt nạ nữa đúng không?”
Nghe vậy, Fukunishi cũng nhìn theo. Quả nhiên là thế. Cái đanh sắt để treo mặt nạ vẫn còn trên tường.
“Anh quan sát tốt thật đấy.” Sayoko thán phục nhìn Shishiya. “Thật ra thì qua nay tôi phát rầu vì nó đây.”
“Ồ. Nói vậy là?”
“Đúng như anh đoán, ở đó vốn dĩ có treo một chiếc mặt nạ. Nhưng tự nhiên từ chiều hôm qua nó biến mất.”
“Từ chiều hôm qua? Chị bắt đầu nhận ra khi nào?”
“Tầm 6 giờ, sau khi đưa mọi người sang Cựu quán. Tôi bắt đầu nhận ra khi anh nhà văn… à, khi hai vị ghé đến.”
Shishiya Ồ thật to, bắt đầu nhìn qua nhìn lại dãy mặt nạ.
“Chị có đoán được tại sao nó biến mất không? Nhất định phải có người gỡ nó xuống chứ.”
Đáp lại câu hỏi của Shishiya, Sayoko chỉ lặng lẽ lắc đầu.
“Cảm ơn chị.”
Shishiya và Fukunishi vào tới phòng khách. Máy lạnh đang chạy công suất cao, làm da lạnh ngắt cả đi.
“Để tôi đi chuẩn bị trà.” Sayoko nói rồi rời khỏi phòng.
Nhìn theo cho đến khi chị ta khuất dạng, Shishiya mới buông mình xuống xô-pha cạnh Fukunishi, hạ giọng hỏi, “Theo cậu tiếng động ban nãy là gì?”
“Khó xác định…”
“Sayoko bảo không nghe thấy, coi như tại tai chị ta không thính đi. Rốt cuộc là âm thanh gì mới được?”
“Tiếng chuông chùa chăng. Dưới chân núi có chùa đấy.”
“Vào giờ này sao? Giờ thỉnh chuông chiều là 6 giờ, quá 6 giờ lâu rồi.”
“Có khi là rapping đấy.” Fukunishi nừa đùa nừa thật.
“Rapping? Ý cậu là hồn ma tác quái?” Shishiya cười nửa miệng, đôi môi dày bặm lại. “Vậy mặt nạ thì sao? Cũng là do hồn ma à?”
“Sao thế được. Trong nhà này ngoài Sayoko ra vẫn còn chủ nhân biệt thự nữa mà.”
“À, phải. Ít nhất thì còn cậu Yukiya, con trai ông Michinori.”
“Vậy thì chính cậu ta, hoặc một người nào khác, vì lý do nào đó đã lén tháo mặt nạ đi. Đơn giản thế thôi.”
Một lát sau, Sayoko quay lại phòng khách cùng hồng trà và bánh kẹo, ngồi xuống đối diện hai người. Vừa an tọa, chị nói Xin phép nhé rồi rút một điếu thuốc lá dài mỏng, hương bạc hà. Chị châm thuốc bằng chiếc bật lửa trên bàn, chậm rãi hút như đang muốn trấn tĩnh lại.
“Vào đề thôi.” Shishiya mở lời. “Lúc trước chị bảo có chuyện cần trao đổi với tôi?”
Ngần ngừ một thoáng, Sayoko gác thuốc xuống gạt tàn rồi gật đầu. “Chúng ta mới gặp nhau ngày hôm qua mà tôi đã nói là có chuyện cần trao đổi, chắc anh thấy kì quặc lắm. Chỉ tại bây giờ tôi không có ai để hỏi ý kiến cả. Đêm qua đọc sách của anh, tôi đã nghĩ, a, người viết ra những dòng này… may ra có thể tâm sự cùng. Tôi đường đột quá phải không?”
“Tôi rất lấy làm vinh hạnh.” Có lẽ muốn trấn an Sayoko, Shishiya mỉm cười thật thoải mái, thong thả cho đường và sữa vào trà.
Sayoko mở to mắt, nhìn từ Shishiya sang Fukunishi, “Trước hết cho hỏi, hai anh em biết được bao nhiêu về chuyện nhà này?”
“Chuyện nhà này, ý chị là chuyện gì?” Shishiya hỏi ngược lại.
“Chuyện quá khứ của nhà này. Nếu hai người quen cậu Kawaminami ở Kitansha thì hẳn phải nghe cậu ấy kể qua…”
“Vâng. Tôi có nghe đại khái và cũng tự mình điều tra. À không, nói điều tra nghe hơi to tát, là tìm hiểu thôi. Hôm qua trước khi tới đây tôi có đi hỏi thăm ít nhiều.”
“Ít nhiều là bao nhiêu?”
“Chị muốn xác định xem tôi biết đến đâu để bắt đầu tiếp từ đấy hả?”
“Vâng.”
“Là thế này…” Shishiya tạm ngừng, dè dặt nhấp một tí trà như sợ bỏng. “Biệt thự này được xây theo thiết kế của ông Nakamura Seiji hơn mười năm về trước. Vì chủ nhân biệt thự, ông Koga Michinori, có cất giữ một bộ sưu tập đồng hồ cổ ở đây, nên nơi này được gọi là Thời Kế Quán hay Biệt thự Đồng Hồ. Hoàn công được một năm, ông Michinori qua đời, toàn bộ tài sản di chúc lại cho con trai là Yukiya. Ngoài ra trong vòng mười năm trở lại đây, có bảy cái tang của những người liên quan đến gia đình Koga.”
“Bảy cái tang. Tang những ai?”
“Cô Towa con gái ông Michinori. Cô Terai Akie, người làm ở đây. Bé Inami Kyoko, con gái chị. Anh Inami Yusaku, chồng chị. Ông Koga Michinori chủ nhà. Ông Hasegawa Toshimasa, bác sĩ của nhà Koga. Ông Hattori Ikuo, tâm phúc của ông Michinori.”
“A…” Sayoko thở dài thườn thượt, lẩm bẩm. “Anh biết tới mức đó cơ à.”
“Vì chết liên tiếp bao nhiêu người như vậy nên tự nhiên càng ngày càng xuất hiện nhiều lời đồn thổi về biệt thự. Nào là ngôi nhà bị nguyền rủa, lại gần sẽ gặp hồn ma, nào là vong hồn cô gái đã mất ở đây cứ lởn vởn trong rừng… đại loại thế đấy.”
“Đây là một ngôi nhà bất hạnh.” Sayoko hơi cúi mặt, giọng thê lương. “Nhìn một loạt bi kịch đã xảy ra, có mang tiếng ngôi nhà bị nguyền rủa cũng không lấy gì làm lạ.”
Shishiya không nói một lời, mắt nhìn đăm đăm vào đôi môi tô son hồng nhạt của người đàn bà.
Sayoko tiếp tục, “Mười năm trước, con tôi mất. Khi Yusaku cũng bỏ tôi mà đi thì tôi đã tính đến cái chết. Về sau tâm trạng bột phát vợi bớt, nhưng thực sự không biết nên sống tiếp thế nào. Giữa lúc băn khoăn lại được ông chủ bảo ở lại Thời Kế Quán luôn đi. Mà đối với tôi thì không chỉ ông chủ, cô Towa, mà cả cậu Yukiya đều là những người rất quan trọng. Vì thế tôi cảm kích nhận lời.
“Bấy giờ ông chủ đã mất cô con gái yêu, đau buồn thảm thiết. Sang thu, ông cố gắng vực mình dậy khỏi bi ai, khởi công thêm Tân quán. Nhưng mùa hè năm tiếp theo, tháp đồng hồ hoàn công chưa bao lâu thì ông ngọa bệnh, nằm liệt giường một thời gian là ra đi. Mà…” Sayoko đột ngột ngước mắt, hơi ngần ngừ một lúc. “Có lẽ bấy giờ ông đã biết ngày tháng mình chẳng còn dài, nên lúc ở trên giường có lưu lại cho chúng tôi vài dòng di ngôn.”
“Di ngôn của ông ấy có vấn đề gì à?” Shishiya nhạy bén hỏi.
“Vâng…” Sayoko đáp lại khe khẽ.
“Xin hãy nói cho tôi biết.”
“Đến lúc này rồi, tôi cũng không có gì phải giấu giếm,” Sayoko tiếp tục. “Ông dặn, sau khi ông đi, toàn bộ tài sản để cho cậu Yukiya tám tuổi thừa kế. Bà Terumi em gái ông sẽ làm giám hộ cho cậu đến tuổi trưởng thành, tôi thì được chỉ định làm quản lý biệt thự.
“Đối với cậu Yukiya, ông chủ đưa ra một số điều kiện bắt buộc, phải tuân thủ mới giữ được quyền thừa kế. Ông dặn, miễn là không gặp tình huống bất khả kháng, thì tuyệt đối không được rời nhà này. Nếu có thể thì vĩnh viễn phải ở đây.”
“Vĩnh… viễn?”
“Vâng. Mặc dù tôi không biết về mặt pháp lý thì yêu cầu đó có tính ràng buộc đến đâu. Còn đối với tôi, ông dặn vài điều. Thứ nhất là cách quản lý Cựu quán.”
“Cựu quán là ngôi nhà mà nhóm Kawaminami đang giam mình bên trong đó phải không?”
Sayoko gật đầu, liếc đồng hồ tròn treo trên tường. Đã 9 giờ 40 phút.
“Về nguyên tắc, không dùng Cựu quán để ở. Phải khóa cửa lớn, duy trì hiện trạng của nó. Đặc biệt là phòng quả lắc, căn phòng cô Towa từng dùng, cần giữ nguyên cách bài trí như hồi cô còn sống. Ông nhấn mạnh, ngoài việc định kì lau dọn, không cho phép ai vào phòng đó. Xong vấn đề phòng ốc thì đến bảo quản đồng hồ. Không tính bộ sưu tập trong các phòng số thì có 108 cái đồng hồ đang vận hành bình thường. Ông chủ nói, phải thường xuyên bảo dưỡng, lên dây để chúng nó chạy đúng giờ.”
“Một trăm lẻ tám?” Shishiya chớp chớp đôi mắt trũng. “Con số phiền não theo Phật giáo. Cho đến giờ, toàn bộ đồng hồ đêu do một tay chị quản lý hả?”
“Cũng có vài cái từng trục trặc, cơ bản là cứ ba ngày tôi lại chỉnh giờ, lên dây một Tân.”
“Thế thì vất vả thật.”
“Quen rồi, cũng không thấy vất.” Sayoko vừa trả lời vừa ấn tay vào tai nghe, thở dài ra chiều mệt mỏi, rồi đột ngột hỏi. “Nonomiya Yasuhito. Anh có biết cái tên này không?”
“Không. Tôi mới nghe lần đầu.”
“Nonomiya Yasuhito là thầy bói mà ông chủ đã luôn nhờ tư vấn suốt từ thời còn trẻ.”
“Thầy bói à? Hả? Người thế nào?”
“Năm nay ông đã 84 tuổi rồi. Ông chủ có thiện ý giữ ông ở lại nhà phụ. Nhà phụ ở đây là một ngôi nhà xây trước khi có Tân quán. Những người giúp việc nhà như chúng tôi đều ở đấy. Ông chủ dặn sau khi ông mất cũng cứ để ông thầy bói ở lại, cho dễ hỏi ý kiến.”
“Tức là trong nhà hiện giờ có chị, Yukiya, và thầy bói Nonomiya. Ba người cả thảy, phải không?”
“Còn một người giúp việc nữa là Tadokoro Yoshiaki. Nhưng anh ấy chỉ tạt qua vào ban ngày thôi.”
“Tôi hiểu rồi.” Shishiya gật gù, tay khoanh trước ngực. “Tôi vẫn còn vài thắc mắc, nhưng để lát đúc kết hỏi luôn. Chị tiếp tục đi ạ.”
“Di ngôn của ông chủ cơ bản chỉ có ngần ấy. Nhưng còn một chuyện…” Sayoko đặt những ngón tay lên vầng trán muộn sầu, ngập ngừng mãi mới rời rạc nói. “Còn một chuyện làm tôi lấn cấn lâu nay, có lẽ thật ra cũng không quan trọng, không đáng nhắc tới. Nhưng trong chín năm qua, cùng với thời gian, cảm giác băn khoăn của tôi về nó càng lúc càng rõ rệt, thậm chí gần như không chịu đựng được nữa.”
“Xin chị cứ nói.” Shishiya khéo léo khích lệ.
“Ông chủ để lại một bài thơ, nghe không giống di ngôn chính thức.”
Sayoko nheo mắt, nhìn đăm đăm vào một điểm trong không trung, từ tốn đọc.
Nữ thần bị giam trong ngục tù thinh lặng
Ngày phán quyết, 5 tháng Tám 1992
Thời gian đã hết, ánh cầu vồng rọi chiếu thánh đường
Giữa tiếng gào thét rung trời chuyến đất, các người có nghe thấy không
Nữ thần trầm mặc, cất tiếng ngâm nga mỗi một lần
Đó là khúc lâm chung động lòng
Là bài ca oán thán, là điệu nhạc cầu nguyện
Cùng xương cốt của dã thú tội lỗi chất chồng
Đem tế trước mộ, an ủi vong linh ta.
Trên giường bệnh, vào lần cuối ý thức tỉnh táo, ông Koga Michinori đã lẩm bẩm như nói mớ, “Nghe thấy rồi, bài ca của nữ thần trầm mặc…”
Dứt lời, khuôn mặt nổi lên nụ cười mãn nguyện khó tả. Người bên cạnh chưa kịp hỏi xem bài thơ này là thế nào, ông đã tắt thở.
Tro cốt được đưa vào nhà tro xây cùng lúc với Tân quán. Bấy giờ Sayoko mới biết ông chủ đã cho khắc bài thơ Nữ thần trâm mặc vào nắp quan của chính mình.
“Nhà tro ở đâu?”
Nghe Shishiya hỏi, mắt Sayoko lóe lên, chuyển ánh nhìn về sâu trong nhà.
“Sân sau.” Chị đáp.
“Ở đó còn chôn cất ai khác không?”
“Tro cốt của cô Towa và bà Tokiyo. Mỗi người nằm trong một quan tài đá riêng.”
“Bài thơ chỉ khắc trên quan tài của ông Michinori thôi à?”
“Vâng.”
“Trước khi ngã bệnh, ông đã tự chuẩn bị quan tài rồi à?”
“‘Tôi cũng chẳng sống được bao lâu nữa.’ Từ khi cô Towa mất, ông chủ cứ nói thế suốt, như tụng kinh. Vì vậy…”
“Nữ thần trầm mặc à?”
Không biết tự lúc nào, Shishiya đã bắt đầu dùng giấy ăn trong khay bánh kẹo để gấp. Đôi bàn tay bận rộn trên bàn, nhưng mắt anh vẫn quan sát Sayoko, nắm lấy từng biểu hiện của chị.
“Chị muốn tôi tìm hiểu bí mật đằng sau bài thơ này?”
“Tôi luôn cảm thấy bài thơ cất giấu điều gì đó. Sống trong nhà này mà lại không hiểu nổi bài thơ để lại của chủ nhà, nói sao nhỉ, tôi không khỏi bất an… Quanh tôi giờ chẳng còn ai để bàn bạc hỏi han những vấn đề mù mờ nan giải nữa, vì thế tôi đã sống bao lâu trong tâm trạng bất an ấy rồi.”
“Vì không hiểu nổi nên bất an, cảm giác này tôi rất thấm thía.” Shishiya chia sẻ bằng lời lẽ chân thành nhất từ đầu tới giờ. “Đã nghe xong chuyện của chị thì tôi không thể bỏ mặc được nữa rồi. Gặp bí ẩn là phải tìm hiểu. Đấy là phong cách xưa nay của tôi.”
“Tôi cũng không muốn anh phải miễn cưỡng. Tóm lại, nhu cầu trước hết của tôi là được dốc bầu tâm sự cho ai đó mà thôi. Dĩ nhiên nếu anh có cao kiến gì thì tôi rất lấy làm mừng được nghe.”
“Cao kiến? Giờ chưa có gì hết. Tôi cảm thấy còn nhiều khúc mắc phải làm rõ đã. À, chị chép bài thơ vừa rồi ra giấy giúp tôi được không?”
Sayoko gật đầu. Đột nhiên, như sực nhớ ra điều gì, chị nhìn lên đồng hồ trên tường.
“Trời! Đã 10 rưỡi rồi sao.” Chị lẩm bẩm, bật dậy khỏi xô-pha. “Xin lỗi. Bây giờ tôi phải mang bữa khuya lên cho cậu Yukiya. Chút đồ ăn nhẹ thôi. Hai người có muốn dùng luôn không?”
“À không. Chúng tôi mới ăn trước lúc qua đây.”
“Tôi sẽ quay lại nhanh thôi, rồi chúng ta tiếp tục. Không có gì ngon lành để tiếp đãi, hai vị cứ tự nhiên nhé.”
“Chị đừng bận tâm. Chúng tôi đợi chị.” Shishiya đáp, tác phẩm xếp giấy trên tay đã hoàn thành. Là đồng hồ cát, giống mô hình anh gấp ở nhà hàng đêm qua.
“Ông Michinori ra dáng nhà thơ thật đấy.” Sayoko vừa ra khỏi đại sảnh, Shishiya thả luôn tác phẩm xuống mặt bàn, cất giọng nghiền ngẫm, “Nữ thần bị giam trong ngục tù thinh lặng? Hừm, là sao, Fukunishi?”
“Em cũng chịu. Anh có suy nghĩ gì không?”
“Mù tịt.” Shishiya nói, duỗi hai cánh tay dài ngoẵng ra. Anh là một người đàn ông không chải chuốt, hôm nay ăn mặc giống hệt hôm qua, quần bò đen với áo khoác xanh nõn chuối vẫn nguyên bụi đường. “Còn quá ít dữ kiện.”
“Anh cũng nghĩ như chị Sayoko, rằng bài thơ quả thật chứa đựng ý nghĩa thâm sâu nào đó, phải không?”
“Nó chắc chắn chứa đựng ý nghĩa thâm sâu.”
“Ừm.”
“Nói mới nhớ, tôi rất muốn chiêm ngưỡng bộ sưu tập đồng hồ bên Cựu quán.”
“Anh thích đồng hồ cổ à?”
“Có thể nói thế, quan tâm hơn mức bình thường. Nhất là đồng hồ lãnh chúa ấy, tôi thích từ lâu lắm rồi.”
“Đồng hồ lãnh chúa?”
“Là tên gọi loại đồng hồ cơ sản xuất ở Nhật thời Edo. Bấy giờ đồng hồ không chỉ là vật dụng đo thời gian như bây giờ, mà còn là sản phẩm thủ công mỹ nghệ cực kì đắt tiền, nên được yêu thích vô cùng. Có nhiều chư hầu lãnh chúa còn là nhà sưu tập đồng hồ nữa. Họ thuê thợ tư về làm đồng hồ, khảm bạc điểm vàng trang trí thật tinh xảo, nên gọi là đồng hồ lãnh chúa.” Shishiya uống nốt chỗ trà trong tách, rồi ngả lưng ra xô-pha, bắt hai chân vào nhau. “Cậu có biết cái gọi là ‘cách tính giờ bất định’ không?”
“Không ạ.” Fukunishi lắc đầu. “Bất định thì liên quan gì tới đồng hồ lãnh chúa?”
“Chính thế. Điểm thú vị là ở đây.” Shishiya hào hứng giải thích. “Hệ thống ghi nhận thời gian mà chúng ta đang sử dụng gọi là ‘cách tính giờ cố định’. Chắc không phải cắt nghĩa nhiều về nó nữa. Hệ thống này chia một ngày làm hai mươi tư phần, mỗi phần gọi là một giờ. Ở phương Tây, từ khi phát minh ra đồng hồ cơ, thì họ đã sử dụng hệ thống đó rồi. Nhưng Nhật thì khác nhé, không áp dụng cách tính giờ cố định, mà tính theo kiểu bất định.”
“Kiểu như ‘giờ Sửu ba khắc’ ấy ạ?
“Ờ. Nói sao nhỉ, cách tính giờ bất định của Nhật chia một ngày làm ban ngày và ban đêm. Mặt trời mọc đến mặt trời lặn là ban ngày, chia làm sáu phần bằng nhau. Mặt trời lặn đến mặt trời mọc lần nữa là ban đêm, cũng chia làm sáu phần bằng nhau. Sau đó dùng mười hai địa chỉ* và các khắc giảm dần từ chín đến bốn để định vị từng phần. Như thế sẽ là ‘giờ Tý có chín khắc’, ‘giờ Dần có bảy khắc’, ‘giờ Tị có bốn khắc’, hết bốn rồi thì quay lại chín, tức là ‘giờ Ngọ có chín khắc’, ‘giờ Mùi có tám khắc’… cứ thế. Lúc nãy cậu nói ‘Giờ Sửu ba khắc’, tức là quãng thời gian thứ ba trong giờ Sửu, vì ‘giờ Sửu có tám khắc’ mà.”
Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.
“Ra vậy.”
“Trong khi cách tính giờ cố định lấy tiêu chuẩn để quản lý tự nhiên, thì cách tính giờ bất định lại lấy tự nhiên làm tiêu chuẩn, xem xét thời gian theo mô hình biến động. Trong hệ thống này, độ dài của một khắc sẽ thay đổi tùy theo độ dài của ngày và đêm, độ dài của thời gian cũng có thể thu vào hoặc kéo ra cho phù hợp với các mùa hay khu vực khác nhau.”
“Cảm giác loạn xạ sao đó!”
“Tự nhiên đem đồng hồ cơ phương Tây tặng cho một người Nhật cổ thì cái đồng hồ ấy vô dụng. Bấy giờ, thợ đồng hồ sẽ phải vắt óc xem cải tiến thế nào cho phù hợp với hệ thống bất định. Ví dụ thay mặt số theo mùa, tích hợp bộ điều tốc dùng cho đêm và cho ngày vào trong đồng hồ. Thông qua công đoạn đúc kết trí tuệ người xưa khiến ta phải thán phục cảm động này mới tạo ra được những chiếc đồng hồ cơ độc nhất vô nhị trên thế giới hoạt động theo hệ thống tính giờ bất định.”
Nói đến đây, Shishiya Ồ một tiếng, dừng câu chuyện, nhìn ra cửa, “Chị Sayoko quay lại rồi sao. Nhanh thật.”
Có tiếng bước chân vang vọng ngoài hành lang. Chỉ chốc lát, một người xuất hiện nơi cửa. Nhưng không phải Sayoko mà là một ông lão nhỏ thó mặc đồ truyền thống màu nâu.
Trông thấy hai vị khách, ông lão sửng sốt khựng lại, mắt giương to. Mặt ông chi chít nếp nhăn với một cái mũi tẹt như bị nghiến bẹp, đầu gần hói sọi, chỉ lơ thơ một hai cọng tóc. Ông lão này chắc là thầy bói Nonomiya Yasuhito mà Sayoko vừa kể.
“Ông Nonomiya phải không ạ?” Shishiya mở lời. Nhưng ông lão lại thụt lùi, mắt vẫn giương to. Một lát sau, ông mới từ từ tiến vào phòng khách.
“Chào ông. Cháu là…”
Shishiya đúng dậy, tự giới thiệu. Nhưng ông lão phớt lờ anh, lẩm bẩm, “Già đã trông thấy tử thần.” Ông run rẩy nhìn quanh quất. “Tử thần ấy. Già đã trông thấy tử thần.”
Shishiya trố mắt há miệng, lòng đầy nghi hoặc, nhưng ông già không buồn để ý, cứ tiếp tục bằng giọng khàn đặc, “Hắn mặc áo trùm đen, mặt trắng bệch như tượng sáp.”
“Thế sao. Tử thần ấy ạ?”
Nhìn đôi mắt, vẻ mặt và miệng lưỡi đều như trúng tà kia, có thể suy ra đầu óc ông lão đã lẩn thẩn. Tuy rằng chưa đến mức phát điên, nhưng thần trí không còn bình thường nữa rồi. Fukunishi nghĩ thế, nhưng không biết Shishiya đón nhận ra sao, vì anh đang nghiêm túc tiếp chuyện ông lão.
“Ông thấy tử thần ở đâu vậy ạ?”
“Trong nhà tro đấy.” Ông lão trả lời, rồi hạ giọng. “Cậu nghe đây, chuyện này không được hé lộ với ai. Bí mật mà.”
“À, là bí mật sao.” Shishiya cũng hạ giọng.
“Tuy là bí mật, nhưng già sẽ tiết lộ với cậu. Già đã biết chân tướng của nó rồi.”
“Chân tướng? Của ai ạ?”
“Người quyết định mọi việc. Luân Điển ấy.”
“Luân Điển*? Ông Koga Michinori quá cố ấy ạ?”
Âm Hán-Nhật của tên Michinori.
“Nó đấy, nó hận già lắm. Thế nên nó sẽ quật mồ trở về cho mà xem.”
“Làm sao ông ấy lại hận ông ạ?”
Ông lão đưa bàn tay khô kiết, gầy rộc như chỉ còn da bọc xương lên bưng mũi miệng, hít đánh rột nước mũi đang chảy ra, “Tokiyo chết sau sinh nhật thứ 28. Towa chết trước sinh nhật thứ 16. Vận mệnh sao mà thay đổi được.”
“Vì lẽ gì?”
“Quẻ bói nói thế. Hai người chết đúng như quẻ bói. Nó đã nhìn già với vẻ mặt ác quỷ. Nhưng vận mệnh là vận mệnh, đành chịu thôi…”
“Ông tính được ngày chết của họ á?” Shishiya hỏi lại, chừng như giật mình.
Ông lão cười sằng sặc, đắc ý gật đầu, nhưng lại mau chóng sợ sệt nhìn quanh, “Nó giam cầm già nơi đây, sớm muộn gì cũng ám chết già thôi.”
“Thế thì phiền thật.” Chưa biết câu chuyện thực hư thế nào, nhưng Shishiya vẫn chăm chú nhìn ông lão, gật đầu phụ họa.
“Các cậu cũng phải cẩn thận đấy. Hôm qua, già đã cảnh báo nhóm kia rồi.”
“Cảnh báo? Ý ông là sẽ có nguy hiểm ập tới chúng cháu?”
“Già tính ra, mà cũng đã mộng thấy. Là hủy diệt, dấu hiệu hủy diệt. Cậu cứ nghe già đi, nghĩ cho bản thân, nên tin tưởng già.” Càng nói ánh mắt ông lão càng mê mụ như trúng tà, giọng thô bạo hơn, còn phảng phất chút cuồng nhiệt lạ lùng.
Khi Sayoko quay lại phòng khách cùng ấm trà mới pha thì đã hơn 11 giờ đêm. Nhác thấy chị ta, Nonomiya Yasuhito lập tức yên phận hẳn đi, y như một đứa trẻ nghịch dại bị bắt quả tang.
“Ông ấy có làm gì thất lễ không ạ?”
Nghe giọng Sayoko lo lắng, Shishiya liền lắc đầu. “Không. Chị khỏi lo. Ông ấy còn cho chúng tôi biết một số chuyện thú vị nữa cơ.”
“Anh đừng để tâm. Mấy năm nay ông ấy không tỉnh táo lắm nữa.”
“Đúng là có cảm giác thế thật… Mà chị Sayoko này, sau đây tôi muốn hỏi thêm vài câu, có được không?”
Sayoko nghiêm túc gật đầu, ngồi thẳng lên.
Shishiya hỏi, “Trước hết, ừm, Cựu quán chính xác là hoàn công vào khi nào?”
“Mười lăm năm trước thì phải. Tôi nhớ là cả gia đình dọn vào đấy ở mùng 5 tháng Tám năm 1974, trùng với sinh nhật lần thứ mười của cô Towa.”
“Mùng 5 tháng Tám là sinh nhật cô Towa?”
“Vâng.”
“Bấy giờ vợ chồng chị đã ở đây chưa?”
“Đến từ lâu rồi. Chúng tôi đã làm việc cho nhà Koga từ hồi ông chủ còn sinh sống ở Tokyo kia.”
“Tối qua tôi cũng đã hỏi, biệt thự này được xây dựng theo thiết kế của ông Nakamura Seiji, đúng chứ?”
“Vâng.”
“Cô Towa mất vào tháng Tám năm 1979, năm năm sau khi dọn vào ở. Tiếp đó ông Michinori khởi công Tân quán. Tân quán cũng do ông Nakamura Seiji thiết kế sao?”
“Nghe nói thế.”
“Nhưng theo chỗ tôi được biết, trong vòng mười năm trước khi từ trần vào mùa thu 1985, ông Nakamura Seiji đã ẩn cư và từ chối mọi công việc.”
“Tôi không rõ chuyện này lắm.” Sayoko chậm chạp lắc đầu. “Hình như ông chủ và ông Nakamura là chỗ thân quen lâu ngày.”
“Ồ.”
“Tôi nghe kể ân sư của ông Nakamura là bạn của chồng bà Terumi. Nhờ quan hệ bắc cầu đó, ông chủ và ông Nakamura mới biết nhau.”
“Chà, thế nên Nakamura mới phá lệ nhận đơn hàng… Bà Terumi là em gái ông Michinori và là người giám hộ Yukiya nhỉ. Bây giờ bà ấy đang ở đâu?”
“Đang ở Melbourne. Vì công việc của chồng nên bao lâu nay bà ấy đều ở Úc.”
“Melbourne à? Lúc này bên đó đang là mùa đông.” Nói đoạn, Shishiya lại hí hoáy gấp giấy ăn. “Tiếp theo, tôi muốn hỏi về cô Towa. Ban nãy ông Nonomiya Yasuhito nói đã tiên đoán hạn chết của cô Towa và bà Tokiyo. Và tiên đoán đều ứng nghiệm cả. Có thật không?”
“Chuyện này…” Sayoko ấp úng, nhắm nghiền mắt như để nén xuống nỗi buồn vừa bất chợt trào dâng, “Ông Nonomiya vốn là cố vấn tâm linh được người sáng lập Công ty Đồng hồ Koga, tức cha của ông chủ đặc biệt tin tưởng. Bởi vậy nên từ thời trẻ, gặp bất cứ việc gì ông chủ cũng nghe quẻ bói của ông Nonomiya mà làm. Trước khi ra quyết định hệ trọng đều phải xin tư vấn, từ đó đường đi mới thuận buồm xuôi gió.”
“Ông lão ấy tiên đoán linh nghiệm vậy sao?”
“Vâng, chí ít là ngày trước. Còn ông ấy bây giờ, như anh thấy đấy, đã nửa điên nửa dại rồi.” Sayoko lại nhắm nghiền mắt, hít một hơi thật sâu. “Chuyện anh hỏi phải kể từ ba mươi năm trước. Mùa hè năm 1959, ông chủ kết hôn với bà Tokiyo…
“Khi ấy ông Michinori 42 tuổi, còn bà Tokiyo là một thiếu nữ chưa tròn đôi mươi. Họ đã gặp và yêu nhau thế nào, đến giờ không còn ai biết. Tóm lại, hai người đã vượt qua cách biệt tuổi tác để đến với nhau. Họ quyết định cử hành hôn lê vào sinh nhật 16 tuổi của bà Tokiyo. Sắp tới ngày vui, ông Nonomiya tự dưng tiên đoán về một tương lai bất hạnh, ‘Mười hai năm nữa, cô dâu sẽ qua đời sau sinh nhật lần thứ 28.’ Nhưng lần này ông Michinori bỏ ngoài tai tiên đoán của cố vấn tâm linh đáng tin cậy lâu nay. Ông chôn quẻ bói trong lòng, kiên quyết làm đám cưới.
“Năm năm sau đó, mùng 5 tháng Tám năm 1964, hai người chào đón niềm hạnh phúc vô bờ khi cô Towa chào đời, tình cờ thay lại đúng ngày sinh nhật của bà Tokiyo. Nhưng việc sinh nở đã gieo mầm bệnh trong bà, và bảy năm sau đó bà nhắm mắt xuôi tay, vào mùa hè 1971. Vậy là lời tiên đoán ‘sau sinh nhật lần thứ 28’ đã ứng nghiệm. Ông Michinori phải chịu một cú sốc lớn. Tuy biết rõ là vô lý, nhưng ông vẫn không khỏi đem lòng oán hận thầy bói đã tiên đoán về hạn chết của người vợ yêu thương. Tất nhiên, ông Nonomiya không có ác ý gì, khách quan mà nói ông rất thẳng tính, chỉ trung thực báo lại quẻ bói cho ông chủ mà thôi. Có lẽ vì thế nên chưa bao giờ ông chủ dằn vặt hay đổ lỗi công khai cho ông Nonomiya cả.
“Cô Towa đón sinh nhật thứ bảy trước khi bà chủ qua đời. Cô giống mẹ như đúc, cực kì xinh đẹp. Ông chủ yêu thương cô điên cuồng, như thể đã dồn hết tình yêu dành cho người vợ quá cố sang con gái vậy. Thế nhưng… Bà Tokiyo qua đời ít lâu, ông Nonomiya báo tiếp với ông chủ một hung tin. Lại một quẻ bói tử như mười hai năm trước, rằng cô Towa sẽ qua đời trước sinh nhật lần thứ 16. Tuy không tin cảnh ngộ nhà mình lại xui xẻo đến thế, nhưng ông Michinori khó lòng bỏ ngoài tai tiên đoán lần này. Sẽ thế nào nếu con gái ông cũng mệnh yểu như mẹ nó? Cô Towa càng lớn lại càng giống bà chủ thời thiếu nữ, thêm vào đó thể chất cô yếu ớt từ nhỏ. Ông thực sự khiếp hãi.
“Một năm sau, bác sĩ chẩn đoán cô Towa mắc chứng suy tủy xương ác tính. Đây là một căn bệnh nan y, nguyên nhân không rõ, chữa trị không nổi. ‘Nhiều lắm thì sống được đến năm 20 tuổi.’ Sự thật tàn khốc ấy, là bác sĩ báo cho ông Michinori.
“Hai năm sau, ông chủ xây ngôi nhà này, từ bỏ vị trí chủ tịch, đưa cô Towa về sống ở đây. Cô yếu đi trông thấy, thường xuyên nghỉ học, vận động một chút là lả người, nên ở trong nhà cũng phải ngồi xe lăn. Cô rất ít khi ra ngoài, nhiều nhất là tản bộ trong sân vườn thôi…”
“Cuối cùng, năm năm sau, cô ấy qua đời vào sinh nhật lần thứ 14?” Shishiya hỏi.
“Cô qua đời vào đầu tháng Tám năm 1979, chỉ vài ngày nữa là tròn 15 tuổi.”
“Thế là một lần nữa, tiên đoán của ông Nonomiya ứng nghiệm, chết trước sinh nhật lần thứ 16. Tôi nghe nói cô ấy ốm chết, quả nhiên là vì bệnh nan y?”
“Chuyện này thì…” Sayoko ngập ngừng.
Mắt Shishiya lóe lên sắc bén. Đồng hồ cát thứ hai đã gấp xong, anh đặt bên cạnh cái đầu tiên. “Có ẩn tình gì đúng không?”
“Đúng là thế.” Sayoko đáp lại rồi thở một hơi dài, ánh mắt dừng ở hai chiếc đồng hồ cát của Shishiya, khóe miệng hơi nhếch lên, nhưng chằng mấy chốc lại u ám và căng thẳng như cũ. “Nếu được, bây giờ hai người có thể cùng tôi lên tháp đồng hồ được không? Thư phòng của ông chủ nằm trên đỉnh tháp. Chúng ta sẽ tiếp tục câu chuyện ở đó.”
“Tất nhiên là được. Có phải là có chuyện gì nói ở tháp thì tiện hơn không ạ?”
“Không, không phải như thế. Chỉ vì tôi cảm thấy chẳng mấy khi anh đến đây, muốn dẫn anh đi tham quan nhà cửa thôi.”
Lúc này là đúng nửa đêm.
Khoảnh khắc chuyển giao giữa tháng Bảy và tháng Tám đang từ từ trôi qua.