← Quay lại trang sách

Chương 7

Cựu quán (3)

Đó là một mùa hè nắng nóng khốc liệt kéo dài.

Đến giờ sinh hoạt tự do buổi chiều, bốn người rời khỏi đại bản doanh trại tập huấn (tức ngôi nhà thôn quê của hiệu trưởng cơ sở dạy thêm), chạy vào rừng chơi đùa.

Lá xanh tươi non, ánh nắng rực rỡ, gió hây hẩy lùa xào xạc qua tán cây, hương cỏ xen hương đất, ve ra rả rộn ràng. Rừng sâu u ám lại chứa đựng một vẻ thanh nhã huyền bí… Trước mắt bốn đứa trẻ lớn lên chốn thị thành, cảnh thiên nhiên nguyên sơ có sức mê hoặc lạ kì, không tác phẩm nhân tạo nào sánh được.

Đó là mùa hè mười năm về trước. Đúng thế. Cũng vào thời điểm cuối tháng Bảy, đầu tháng Tám. Và rồi hôm ấy, một ngày hè oi ả…

Sakiko chầm chậm chìm vào giấc ngủ, hồi ức xưa cũ thấp thoáng hiện về trong trí. Phòng cô nằm đối diện đại sảnh, bên cánh Bắc, giường ngủ phủ đầy bụi. Đêm qua cô cũng ngủ trên chiếc giường này. Không rõ người nằm trước là ai, tâm trạng có hơi lấn cấn, nhưng vẫn còn hơn là nằm dưới sàn. Cô nghĩ thế.

Hôm ấy…

Ngày nào tháng nào năm 1979 nhỉ?

Bốn người đã gặp cô gái trong rừng. Vóc dáng nhỏ nhắn mặc đồ trắng tinh, làn da trắng đến mức không thể tin nổi, mái tóc đen buông dài trước ngực, đôi mắt to đen láy hơi bất an… Một thiếu nữ xinh đẹp. Thế nhưng, nhan sắc không đủ che giấu hơi hướm bệnh tật bên trong, cho nên khi ấy Sakiko chẳng hề mong muốn được xinh đẹp như vậy.

Chị là ai…

Tôi là…

Tôi nghe trong rừng vọng ra tiếng nói cười vui vẻ.

Những câu chữ rời rạc từ từ sống lại từ đáy sâu một miền kí ức xa xăm.

Các bạn ở đâu đến?

Chúng tôi…

Chúng tôi á hả…

Tại sao cô ấy lại chết?

Cô ấy không chết vì bệnh… Trong buổi gọi hồn tối qua, hồn ma thiếu nữ nhập vào Komyoji đã nói thế. Cũng không phải chết vì tai nạn. Là tự sát hay bị giết hại? Kobayakawa và Kawaminami tìm thấy một chiếc váy cưới vấy máu. Liệu chiếc váy có liên quan gì đến cái chết của cô gái hay không?

Hôm nay ấy…

Hôm nay…

Khuôn mặt cô gái đột ngột ghé lại, khuôn mặt biến dạng vì kinh hãi, gò má tiều tụy trắng nhợt gồ lên, đôi môi nhợt nhạt mấp máy, rồi…

Nói láo!

Tại sao sắc mặt cô ấy khó coi như thế?

Nói láo!

Tôi ghét các người.

Chuyện đó…

Tại sao cô ấy lại ăn nói như thế?

Chuyện đó… không thể tin được.

Thế thì, tôi…

Tự dưng, như thể phát bệnh, cô gái quằn quại, không thở nổi, lắc đầu quầy quậy như khiếp đảm. Sakiko và các bạn đều hoảng hồn, vội vàng chia hai bên dìu đỡ, đưa cô ấy về nhà… À đúng, còn vụ đưa về nhà nữa.

Một ông già ngoài sáu mươi chặn họ lại nơi tiền sảnh tù mù, hung dữ nhìn chằm chằm vào bốn đứa nhóc. Cha cô gái chăng?

Và rồi… Đúng. Cậu bé đó.

Lúc Sakiko và các bạn hớt hải rút khỏi khuôn viên nhà họ, một cậu bé thò đầu ra khỏi bóng cây nhìn họ chằm chằm. Cậu bé còn rất nhỏ, hơi quá nghiêm nghị để có thể nói là đáng yêu. Ánh mắt sắc bén xoáy vào họ, như muốn nhìn thấu điều gì.

Quả nhiên là thiếu niên đó rồi.

Yukiya. Đứa trẻ mồ côi cha mẹ từ nhỏ được gia đình Koga nhận nuôi. Thiếu niên xinh đẹp dở điên dở dại, đến giờ vẫn tin chị mình còn sống…

Chuông báo nửa đêm thi nhau vang lên.

Sakiko ngủ không yên ổn, thần trí mông lung. Cô có cảm giác rất lạ, giống như đang ở trong một đầm lầy giăng đặc sương mù, nước bùn ấm nóng đã ngập đến đầu gối. Ở một góc tâm linh đang lục tìm kí ức, tiếng chuông đồng hồ vọng tới nghe cực kì xa xôi.

Chuyện gì vậy nhỉ?

Sakiko toan rút một chân khỏi đầm lầy.

Sao lại thế này…?

Cô chỉ định ngả lưng một chút thôi, nào đã muốn ngủ, nhưng không hiểu sao cứ bập bềnh trong cơn buồn ngủ đang êm ái ôm ấp cả người…

Ngôi nhà này có vấn đề. Ý nghĩ đó đột nhiên nảy ra trong óc Sakiko. Chắc chắn thế.

Ngôi nhà này có vấn đề. Không rõ vấn đề ở chỗ nào, Nhưng nó chứa đựng một trường năng lượng xấu, khiến người ở bên trong mất tỉnh táo.

Sakiko hít một hơi thật sâu, cố nâng mi mắt nặng trĩu lên. Cảm giác bức bách lạ lùng mách bảo cô, không được ngủ thế này.

Mãi mới mở được mắt ra, nhưng vừa mở ra, cô chết điếng.

“Á…” Cô muốn thét lên, nhưng mở miệng xong chỉ phát ra được một tiếng kêu cụt lủn, không nói được gì thêm nữa.

Ai vậy?

Bóng ai đó.

Cái bóng vung cao hai tay, bổ nhào tới Sakiko đang nằm ngửa. Nhờ ánh đèn vàng vọt ở kệ đầu giường, Sakiko trông thấy khuôn mặt nó.

Gì vậy? Đây là…

Một khuôn mặt trắng bệch dị thường.

Mặt không có chút huyết sắc nào, da nhẵn trơ như sáp, cặp mắt vô hồn hình trăng lưỡi liềm. Khóe miệng nhếch lên, tạo thành một điệu cười quái ác giống hệt điệu cười của con mèo Cheshire trong Alice ở Xứ sở Diệu kỳ và Thế giới trong gương.

Đây là cái gì?

Cảm giác kinh ngạc lẫn nghi hoặc biến thành sợ hãi tột cùng, khiến Sakiko cứng đờ như hóa đá.

“A…” Cổ họng tắc nghẹn, kêu không ra tiếng, tay chân bất động như bị trói.

Đôi tay đang giơ cao bổ xuống. Giữa hai bàn tay đeo găng trắng là một vật hình vuông lấp lóe. Đồng hồ. Là chiếc đồng hồ trông khá nặng bằng đồng thau đặt ở kệ trong phòng. Chuyện gì sẽ xảy ra với mình đây? Sakiko thậm chí không còn kịp tự hỏi. Bộ máy vốn dùng để đo thời gian giờ đã hóa thành hung khí tà ác, tàn nhẫn, nhanh gọn, phũ phàng nện vào mặt Sakiko.

Ý thức của cô lại một lần nữa rơi xuống hố sâu thăm thắm, khác hẳn với trạng thái mụ mẫm mê ngủ ban nãy.

Nhưng ngay trước khi rơi…

Sakiko bắt được một hương thơm phảng phất trong bóng tối. Hương thơm cô đã từng ngửi thấy.

Gục đầu lên chiếc bàn trong đại sảnh, Watanabe vừa lơ mơ ngủ vừa suy nghĩ. Tuy rất muốn ngủ sâu hẳn đi, nhưng đầu óc không trấn tĩnh được, cứ lan man liên tưởng đủ mọi chuyện.

Sau khi những xôn xao ban chiều tạm lắng, cậu ăn qua quýt vài thứ rồi ngồi chơi bài trong đại sảnh. Bộ bài là Kozue mang đến. Komyoji mất tích nên buổi gọi hồn thứ hai định diễn ra tối nay coi như phá sản. Ở Cựu quán không có ti-vi, đành chơi bài để giết thời gian.

“Nếu biết mắc kẹt thế này, tớ đã mang radio theo,” Kawarazaki phàn nàn luôn mồm. “Hay mạt chược cũng được, mọi người ở đây đều biết chơi cả.”

Watanabe hồi tưởng thái độ mọi người lúc chơi bài.

Uryu và Kawarazaki hăng hái tham gia trò chơi như thể không có chuyện gì xảy ra, Kozue cũng vậy. Ban đầu cô bé tỏ vẻ hoảng sợ với sự việc, nhưng sau khi nghe đám Uryu thuyết phục có thể tất cả chỉ là chiêu trò của Komyoji thì Kozue đã an tâm hoàn toàn, bắt đầu hò hét thắng thua theo ván bài. Trong các sinh viên, chỉ mình Sakiko là lộ vẻ nặng nề. Giữa chừng, cô rời khỏi trò chơi, nói không được khỏe và nhanh chóng về phòng.

Còn những người bên phía Kitansha…

Người mất bình tĩnh nhất là Kobayakawa. Anh thở dài thườn thượt, ủ rũ nhìn đám sinh viên đang hào hứng chơi bài. Một lát sau anh buông thõng, “Tôi về phòng, có việc thì gọi,” và cũng ra khỏi đại sảnh. Phòng anh là một trong các phòng số được tạm dùng làm phòng ngủ.

Utsuumi bộ dáng nhàn tản, loay hoay nghịch với đống máy ảnh một lúc, lại chụp vài tấm trong đại sảnh, rồi lấy chai rượu tối qua, uống từng ngụm từng ngụm. Ngoài mặt thì anh tán thành thuyết chiêu trò, nhưng trong lòng có lẽ ngập tràn bất an, nên cố gắng kiếm việc làm để phân tâm.

Người cuối cùng, Kawaminami, thì u uất thấy rõ. Anh ngồi ở một góc bàn, mở sổ cặm cụi ghi chép, có lẽ là báo cáo về chuyến thực địa này.

Tụ bài cứ tiếp tục với đủ mọi kiểu chơi. Không lâu sau, khi đồng hồ trong nhà đua nhau điểm 10 giờ, Kawarazaki ngáp một cái rõ to, đứng dậy, bảo đã mệt, muốn đi làm một giấc, những người khác cũng lục tục rời chỗ.

Khi định thần nhìn lại, đại sảnh chỉ còn mình Watanabe. Không hiểu vì sao cậu không đủ sức đứng dậy khỏi ghế nữa. Xung quanh cũng không còn ai để trò chuyện, đầu óc tự nhiên nghĩ lan man.

Khi đại sảnh đông người, Watanabe không để ý đến tiếng tích tắc của đồng hồ, giờ còn lại một mình, âm thanh đó lập tức lọt vào tai, đan xen, vang vọng lên tận trần nhà cao với vòng cửa sổ đen kịt, khiến người ta liên tưởng đến cảnh bầy muỗi chuyển động thành đàn. Hình như có ai đang ẩn náu giữa những khoảng hở của âm thanh ấy, phát động thuật thôi miên quái đản, làm Watanabe bất giác chìm vào trạng thái mơ màng.

… Có ổn không?

Watanabe gà gật tự hỏi.

Vậy có ổn không nhỉ?

Dễ dãi chấp nhận tất cả chỉ là thuyết chiêu trò, như Uryu và Kawarazaki đã xác định, thì có ổn không? Nhưng sự tình đã đến nước này, còn cách giải thích nào khác? Lúc nghe các bạn phân tích, Watanabe cũng bị thuyết phục, cho rằng Đúng thật. Nhưng thời gian qua đi, cậu càng lúc càng bồn chồn.

Âm thanh mà Kawaminami nghe thấy lúc đêm khuya. Nhà ngoại cảm đột nhiên mất tích, vết máu đáng ngờ trên thảm. Những chiếc đồng hồ bị đập phá… Hiển nhiên giả thuyết của Uryu và Kawarazaki có sức thuyết phục nhất định. Chính Watanabe cũng nghĩ thà cứ cho là toàn bộ câu chuyện đều do Komyoji dàn dựng nhằm đánh bóng tên tuổi, còn hơn đối mặt với một tình huống khủng khiếp như án mạng, rồi hung thủ lại còn nắm trong số bọn họ.

Đã nghĩ như thế rồi, nhưng…

Nỗi lo không biến mất, đã thế còn tăng theo từng phút từng giây.

Tại sao chứ?

Không cần hỏi lại nữa, lý do đã quá rõ ràng.

Đây là dấu hiệu cho thấy nỗi sợ của cậu đối với ngôi nhà này. Quá khứ của nó, bí mật nó cất giấu, và cả vong linh lảng vảng ở đây nữa…

Kẻ sát nhân và hồn ma… Cậu thử so sánh hai đối tượng với nhau, xem khả năng nào có sức uy hiếp thực tế hơn, nhưng cũng không giải quyết được vấn đề và cũng không thể xoa dịu lòng mình. Nếu nói đều tại ngôi nhà này không lành, nhất định sẽ bị Uryu và Kawarazaki cười cho thối mũi. Đó là phản ứng tất nhiên của những người chỉ tin vào khoa học.

Thế nhưng ngay từ đầu Watanabe nhìn nhận khoa học và hiện tượng siêu nhiên theo cách khác với bọn họ. Nếu nói một cách cường điệu thì cậu nghĩ đây là vấn đề về thế giới quan. Kozue đã từng nghiêm túc nói phải chăng Komyoji bị ma vật, rồi bị Uryu và Kawarazaki cười cợt, nhưng Watanabe thì khác. Bấy giờ cậu bảo nên gọi cảnh sát, thật ra cũng không phải do mong muốn vấn đề được giải quyết thật nhanh, mà vì muốn mau chóng được ra khỏi ngôi nhà này. Đi khỏi đây ngay, là mong mỏi bức thiết chiếm giữ toàn bộ tâm trí cậu.

Watanabe cho rằng đây không phải là một ngôi nhà bình thường. Không có căn cứ nào hết, chỉ đơn thuần là cảm giác. Tính đến giờ, cậu đã đi qua vài nơi đồn thổi là có ma, nhưng đây là lần đầu cậu có cảm giác này.

Ở Thời Kế Quán có một thứ gì đó không thể cắt nghĩa bằng kiến giải thông thường, dứt khoát là thế. Nỗi nghi ngại mơ hồ nhen lên ngay từ lúc trông thấy cửa sắt tiền sảnh lần đầu, theo thời gian đã dần dần, không, đã mau chóng trở nên rõ ràng.

Komyoji có nói linh hồn trong nhà này không nuôi ác tâm, nhưng sai rồi. Bản thân khí trường cùa ngôi nhà đã rất độc, không cho phép bất cứ người ngoài nào tùy tiện tiếp cận chỉ vì tò mò. Watanabe nghĩ, vẫn nên mau chóng tháo chạy khỏi đây. Nếu không có chìa thì hợp sức cùng nhau phá cửa, hoặc tìm kiếm biện pháp nào khác…

Chuông đồng hồ ngân lên. Vô thức đếm tiếng chuông, thì biết là đã nửa đêm.

Ối, muộn thế rồi ư? Watanabe cố gắng xua đuổi cơn buồn ngủ, ngẩng đầu lên. Nhưng cơ thể không cử động theo ý muốn.

Chắc trúng gió hay gì, toàn thân bải hoải cả. Nói mới nhớ, hôm nay không thấy ngon miệng, mì khô không khốc rất khó nuốt, vị xúp cũng không vừa miệng. Sinh lý thay đổi chắc cũng do ngôi nhà này chăng. Phải rồi. Chính khí trường độc địa ở đây đã tác động xấu lên tinh thần và thể chất.

Watanabe đang nghĩ ngợi thì…

Có tiếng kêu khẽ từ đâu vọng lại, giật cậu ra khỏi trạng thái lừ đừ.

Watanabe giật mình ngóc đầu lên khỏi bàn, dáo dác nhìn quanh. Đại sảnh ngoài cậu ra thì không còn ai cả.

Là gì ấy nhỉ? Cái tiếng vừa rồi?

Watanabe còn đang bối rối, tiếng kêu lại vang lên lần nữa. Không hiểu phát ra từ đâu, đứt đoạn, yếu ớt. Liền đó là một âm thanh to và rõ ràng hơn. Nhưng không phải tiếng người. Mà là âm thanh trầm đục của vật nặng rơi xuống sàn.

Watanabe co rúm người, hoảng sợ nhìn quanh phòng lần nữa. Lúc không đeo kính, thị lực của cậu chưa được 1/10, tầm nhìn lờ mờ, không trông rõ cả mặt số những chiếc đồng hồ trên kệ. Dù thế, cậu vẫn phân biệt được thay đổi xung quanh.

Âm thanh trầm đục vang lên lần nữa.

Nó phát ra từ đâu? Lần này Watanabe đã tìm ra nguồn cội. Cậu cảm thấy nó phát ra từ phía đối diện nhà bếp, tức cánh Bắc. Cậu đang ngồi quay lưng lại bếp nên cánh Bắc nắm ngay trước mặt cậu.

Watanabe gắng đứng dậy nhưng hai chân tê bại không còn chút sức lực nào cả. Cậu chống hai tay xuống bàn, cố nâng mình khỏi ghế. Tầm nhìn lờ mờ bắt đầu có thay đổi. Đối diện cửa Bắc, bên kia quãng hành lang ngắn, là một cánh cửa nâu. Đó là cửa phòng Sakiko. Cửa im lìm hé mở, một người mặc linh y đen bước ra.

Watanabe thở phào, ngồi trở lại ghế, đơn giản cho rằng cô bạn khóa trên này vừa rời phòng thôi.

“Sakiko,” Watanabe lên tiếng. “Cậu có nghe thấy tiếng động lạ vừa rồi không?”

Không rõ bóng người phản ứng thế nào. Chỉ thấy trở tay đóng cửa lại sau lung rồi nhìn về phía cậu, nhưng không trả lời, từ từ băng ngang hành lang tiến sang.

“Cậu sao thế?” Watanabe lại hỏi. “Cậu thấy hết khó chịu chưa?”

Bóng người tiến vào đại sảnh, bấy giờ Watanabe mới nhận ra dáng vẻ người này rất kì quái, mũ trùm đen kéo thấp, còn đi đứng lom khom như để cậu không nhìn thấy mặt vậy.

Watanabe sinh nghi, đứng dậy khỏi ghế. Người kia liền quay phắt đi, tiến về phía kệ trang trí ở tường bên phải, xem chừng muốn tìm kiếm gì đó, bộ dáng vẫn lom khom, ghé mặt vào những chiếc đồng hồ xếp trên kệ.

Watanabe càng lúc càng thấy đáng ngờ, nhưng vẫn tin đây là Sakiko. Hay bị ai nhập rồi? Suy nghĩ ấy sượt qua trong đầu cậu, cơ mà…

“Sakiko?”

Watanabe vừa gọi vừa thấp thỏm tiến tới gần người nọ. Mặc dù nghe tiếng cậu gọi, nhưng người đó vẫn không quay đầu lại.

“Sakiko, cậu sao thế?”

Watanabe vừa dứt lời, đối phương quay ngoắt lại. Khi trông rõ diện mạo dưới vành mũ trùm, Watanabe Ối một tiếng kinh hoàng, ngã phệt xuống đất.

“Á… Á…”

Đó không phải là khuôn mặt của Sakiko.

Đôi mắt hình trăng lưỡi liềm khoét trên làn da trắng bệch trơn lì, giữa cái cằm nhọn và cái mũi là cái miệng nhếch lên.

Đây không phải diện mạo của bất cứ ai trong số những người Watanabe quen.

… Mặt nạ?

Đây là mặt nạ. Khi nhận thức vỡ òa, cũng là lúc Watanabe thấy mắt nổ đom đóm, đỉnh đầu hứng một cú đập chí mạng, tai ong ong át đi mọi âm thanh.

Cậu ngã ngửa ra sàn. Lập tức hiểu mình vừa bị tấn công. Cậu thở dốc, cố lật người dậy, cú đánh giờ đã chuyển hóa thành cơn đau kịch liệt. Cậu cố bò dậy nhưng cánh tay rã rời, khuỷu tay mềm nhũn không chống đỡ nổi cơ thể, đành tì cả vào đầu gối, lấy đà nâng hông lên. Mặt gí xuống sàn, mông lại chổng cao, cậu bò lết đi trong tư thế khó coi ấy.

“Cứu… tôi với…”

Tiếng kêu cứu đứt quãng bật ra khỏi họng Watanabe. Nhưng cú giãy chết này chỉ phí công vô ích, đỉnh đầu lại bị nện mạnh, đánh tan toàn bộ ý thức sau cuối của cậu.

“Anh Kawaminami…”

Đang ngủ, Kawaminami choàng tỉnh vì nghe ai gọi tên mình.

“Anh dậy đi, anh Kawaminami.”

Là Kawarazaki. Nghe ra sự gấp gáp trong giọng cậu ta, Kawaminami biết có chuyện lớn, vội vàng tung chăn ngồi dậy.

“Nguy rồi.”

Đèn phòng vẫn sáng. Kawarazaki đứng cách cửa vài bước, hình như vội vàng quá không kịp gõ cửa mà cứ thế lao vào.

“Sao thế?”

Cơn buồn ngủ của Kawaminami bị thổi bay. Cậu vừa hỏi vừa rút đồng hồ bỏ túi ra xem. 1 giờ kém 5 phút. Đồng hồ treo tường cũng chỉ giờ tương tự.

“Tìm thấy Komyoji rồi à?”

Suy nghĩ đầu tiên của Kawaminami bật ra thành tiếng, nhưng Kawarazaki run rẩy lắc đầu quầy quậy, mặt xanh mét. Bộ dạng kinh hãi tột độ.

“Không lẽ, cô ấy…”

Trông Kawarazaki luôn lạc quan hoạt bát giờ thành ra thế này, Kawaminami đã linh cảm được tính nghiêm trọng của sự việc.

“Có… có án mạng.” Kawarazaki thông báo, khuôn mặt ngăm đen méo mó hẳn đi. “Có án mạng…”

“Nói vậy là tìm thấy thi thể Komyoji rồi sao?”

“Không. Không phải.” Kawarazaki lại lắc đầu. “Sakiko và Watanabe bị giết…”

“Cái gì?!” Kawaminami hét lớn, nhảy xổ lại chỗ Kawarazaki. “Thật không?”

“Anh cứ tới đại sảnh đi đã.”

“Những người khác đâu?”

“Uryu và Kozue đang ở đại sảnh rồi. Anh Kobayakawa thì em mới đi gọi ban nãy.”

“Còn anh Utsuumi?”

“Em định đi gọi đây.”

“Đi mau!”

Kawaminami và Kawarazaki sang đánh thức Utsuumi ở phòng bên cạnh dậy. Nghe hai chữ án mạng, anh lúc lắc đầu với khuôn mặt như chưa thoát khỏi cơn mơ. Sau vài lần nghe giải thích, anh mới rú lên yếu ớt như vừa tỉnh mộng, chồm dậy, mồm còn nồng hơi men, hớt hải chạy ra hành lang.

Ba người vội lao đến đại sảnh. Thi thể Watanabe nằm sấp, đầu quay về chiếc bàn đặt ở giữa phòng. Bộ linh y bị xốc lên để lộ hai cẳng chân trắng hếu, hai tay cậu duỗi thẳng ra trước, những móng tay như đã cào cấu trên mặt thảm. Đầu cậu oặt qua một bên, hai mắt lộn trắng dã, vài sợi máu rỉ ra từ cái lưỡi đỏ bầm thè lè ở mép.

“Trời ơi…” Nhìn cảnh tượng rùng rợn này qua vai Kawaminami đang đứng chết lặng, Utsuumi lắp bắp. “Chuyện này, chuyện này…”

Anh đưa hai tay bụm miệng, gập người nôn khan, lảo đảo chạy vào bếp.

“Có vẻ cậu ấy không chỉ bị đánh một hai phát đâu.” Uryu đứng bên bàn, cẩn trọng quan sát thi thể. “Mà một chập luôn.”

Từ gáy sang cạnh đầu có vài vết thương rất sâu, rõ ràng là nguyên nhân khiến Watanabe tử vong. Máu chảy ra từ miệng vết thương dính bết trên tóc cậu, vẫn chưa khô hẳn, sáng anh ánh dưới đèn. Hung khí dính máu và dính cả vụn da thịt nằm lăn lóc bên chân thi thể, đó là một trong những chiếc đồng hồ vốn bày trên kệ. Mặt đồng hồ hình vuông khảm trên vành đá cẩm thạch trắng sữa, kính ốp đã vỡ vụn, hai cây kim bên trong văng đâu mất.

Kawaminami ấn vào ngực, cố nén cảm giác buồn nôn đang trào lên, cậu rời mắt khỏi cảnh tượng thảm khốc đó, nhìn quanh căn phòng.

Kobayakawa đứng mọc rễ phía bên kia bàn, khuôn mặt hồng hào mọi khi giờ trắng bệch, đôi môi dày he hé, ánh mắt đờ đẫn.

Kozue ngồi xổm trong góc phòng, hai tay bưng mặt thổn thức, đôi vai gầy run lên từng chặp.

“Sakiko đâu?”

Kawaminami hỏi Uryu. Cậu ta đưa mắt ra cửa Bắc, nặng nhọc bật một câu. “Ở trong phòng, trên giường. Cũng bị đồng hồ giã vào đầu giống thế này.”

Kawaminami đi vòng qua thi thể Watanabe, chạy sang phòng ngủ của Sakiko. Uryu và Kawarazaki theo sau.

Cửa phòng đang mở.

Đúng như Uryu nói, Sakiko nằm ngửa trên giường, đã tắt thở. Vầng trán mịn trắng nõn bị nện mạnh đến nỗi nứt ra, cái mũi nhỏ xinh xắn bị đập vỡ. Máu từ vết thương và ống mũi tràn ra nhuộm đỏ cả mặt cô. Lăn lóc cạnh giường là một chiếc đồng hồ để bàn bằng đồng đã hỏng. Hiện trường cho thấy Sakiko không phản kháng, cũng không có dấu vết của cưỡng bức.

“Ôi…” Kawaminami lấy tay bưng đầu, rên lên khe khẽ. Sau lưng cậu, Kawarazaki cũng bật ra tiếng kêu tương tự. Kawaminami bắt đầu run lẩy bẩy như bị nhiễm lạnh, run từ sống lưng xuống đến mũi chân. Cậu lắc đầu quầy quậy, loạng choạng rời khỏi phòng.

“Ai phát hiện ra?” Cậu hỏi Uryu.

“Là bé Kozue.” Uryu trả lời rồi hít một hơi thật sâu, lấy ngón trỏ và ngón cái tay phải ấn lên hai mí mắt, có lẽ để ngăn nước mắt trào ra. “Bấy giờ em đang ở trong phòng. Tự nhiên em ấy chạy bổ vào, nói ‘Có chuyện’.”

“Sao Kozue phát hiện được?”

“Này thì em không rõ.” Uryu đưa mắt nhìn Kozue đang ngồi xổm ở góc đại sảnh. “Bộ dạng em ấy thế kia, e rằng khó mà trả lời cho mạch lạc được.”

Kozue vẫn bưng mặt thổn thức. Kawarazaki tiến lại, dìu cô dậy.

“Đừng!” Kozue rít lên, vùng ra khỏi tay cậu, xì mũi rột rột rồi lại ôm mặt khóc.

Kawaminami liên tục tự trấn an Bình tĩnh. Bình tĩnh nào và bước về giữa đại sảnh. Cậu biết nếu không ráng trụ vững, mình sẽ đổ sập xuống mà nôn thốc nôn tháo ra đây.

“Anh Kobayakawa.” Kawaminami lại gần anh phó chủ biên vẫn đứng như mọc rễ bên bàn.

“A… a, Kawaminami à?” Kobayakawa nhìn cậu bằng cặp mắt trống rỗng.

Từ đằng bếp vọng lại tiếng nôn khan của Utsuumi.

“Mong anh trấn tĩnh.”

Kawaminami tự nhủ, anh có thể học theo Uryu nhà người ta không? Trước một cấp trên thiếu bản lĩnh thế này, cậu thực sự thấy nóng ruột, nhưng ngoài miệng vẫn phải nói.

“Nghĩ cách phá cửa tiền sảnh thôi.”

Tạm để lại Utsuumi và Kozue vẫn chưa hết sốc trước biến cố bàng hoàng, đám Kawaminami tiến ra tiền sảnh.

Nắm lấy tay nắm lắc thật lực, cũng không lay chuyển nổi cánh cửa sắt đôi màu đen đã khóa. Không có một khe hở nào, dù là giữa hai cánh hay giữa chân cửa với nền nhà. Chưa hết, vì cửa mở ra ngoài nên bản lề cũng nằm bên ngoài. Không thể dùng một dụng cụ nào mà dỡ cả tấm cánh từ phía trong được.

Đành phải dùng sức xô bật cửa ra thôi.

Ban đầu là một mình Kawaminami, sau đó thêm Kawarazaki, cả hai cùng chạy trợ lực rồi tông vai vào cửa, nhưng không thấy nhúc nhích. Cuối cùng cả Uryu và Kobayakawa nhập cuộc. Bốn người hợp sức làm đi làm lại, vẫn xôi hỏng bỏng không. Đáng ghét nhất là, cửa kiên cố vô cùng, xô cả ngày mà thậm chí không thèm kẽo kẹt.

Xem chừng tay không khó lòng phá cửa. Họ nghĩ hay là tìm một công cụ gì tông thử, bèn sục sạo trong Thời Kế Quán, nhưng không tìm được món gì khả dĩ đối phó được với cửa sắt. Cho rằng nhà bếp sẽ có dao rựa thớt chày, họ chạy vào xem mới biết đến con dao thái rau cũng không có. Lật tung nhà kho cũng không kiếm được dụng cụ nào thích hợp để tông cửa.

Bần cùng bất đắc dĩ, Kawarazaki vớ lấy một chiếc ghế trong đại sảnh.

“Công toi thôi, rõ là trứng chọi đá.” Uryu lạnh nhạt nói.

Kawarazaki lườm cậu ta rồi vung ghế lên bằng hai tay, nện vào cửa, nhưng mới được vài cái ghế đã long mộng, mà cửa chỉ kêu rầm rầm chói tai thôi.

“Không có đèn khò hay khoan điện thì không xử được cái cửa này rồi.” Kawarazaki quăng cái ghế long sang một bên, ủ rũ hộc ra. “Chưa kể ngoài kia còn một cái cửa sắt y hệt cửa này nữa.”

“Kể cả thế, chúng ta cũng không bỏ cuộc được…” Kawaminami vừa nói vừa đưa tay lau mồ hôi trán.

Đúng lúc đó, đám đồng hồ treo tường tiền sảnh điểm chuông 2 giờ sáng.

“Trần đại sảnh thì sao? Phá cửa sổ rồi trèo ra ngoài?”

Uryu lập tức phủ quyết đề xuất của Kawaminami, “Ý anh là chui qua ô cửa sổ bé tẹo kia á? Đường kính giỏi lắm 20 phân, nhiều nhất là chui được cánh tay.”

“Phá tường vậy?” Kawarazaki tiếp lời. “Cửa sắt không phá được nhưng có khi đục được tường. Tường trông phía ngoài toàn gạch thôi. Trong bếp có muỗng với nĩa, thử dùng xem sao.”

“Ừm. Mất chút thời gian, biết đâu lại được.”

“Cứ thử xem sao.”

Chỉ vài phút sau, phương án phá sản. Mọi người đã nhặt nhạnh tất cả những dụng cụ trông có vẻ sử dụng được, lột giấy dán tường xong mới thấy đắng sau giấy dán tường không phải gạch, mà là tường bê tông. Tóm lại, gạch mà họ trông thấy ở tường ngoài chỉ là chi tiết trang trí.

“Đổ sông đổ bể… Hết rồi nhỉ?” Uryu vòng tay quanh người, lẩm bẩm nói. Tuy cố giữ dáng vẻ điềm tĩnh, nhưng sắc mặt cậu không tốt chút nào, giọng run run. “Xem ra điều em nói lúc chiều là đúng. Nhà này xây lên để nhốt người bên trong. Chính xác là thế.”

Sau đó, để thoát thân khỏi Cựu quán, bốn người cố gắng thử nhiều cách khác. Nào là gỡ kim đồng hồ để tra vào ổ khóa, dùng mấy cái đồng hồ trông cứng nặng để choảng cửa, còn thử xô người vào cửa thêm vài lần nữa, kết quả vẫn là tốn công vô ích. Dĩ nhiên, ra sức như vậy cũng còn mong Sayoko bên Tân quán nghe được động tĩnh mà sang giải cứu.

Nhưng…

“Có người gõ cửa… Lúc về phòng tự dưng em cực kì buồn ngủ. Đương khi gà gật thì nghe tiếng gõ cửa.”

Mãi một lúc sau, Kozue đã ít nhiều lấy lại bình tĩnh, bèn tường thuật quá trình phát hiện thi thể. Cầm lấy ly whiskey Uryu đưa cho, Kozue uống một ngụm nhỏ, rồi đưa tay ôm hai má ửng đỏ, lắp bắp kể lại sự việc.

“Em mở cửa thì thấy kẻ đó đã đứng lù lù. Thoạt tiên em giật mình, tưởng là ai đang đùa nên hỏi, ‘Ai đấy?’”

“Hả?” Uryu nhạy bén nhận ra từ khóa. “Kẻ đó là sao?”

“Là kẻ mang mặt nạ. Nên em không biết là ai.”

Uryu nghiêng đầu thắc mắc. Nghe từ mặt nạ, người sửng sốt nhất là Kawaminami. Cậu ló ra từ bên cạnh Uryu, hỏi với sang Kozue.

“Phải chăng là một trong số mặt nạ treo trên tường hành lang đi vào?”

“Hành lang đi vào…”

“Hành lang Tân quán ấy. Trên tường hành lang mà ta đi lúc đầu có treo rất nhiều mặt nạ. Phải chăng là một trong số chúng?”

“Em không nhớ rõ lắm nhưng mà…” Bỏ tay khỏi má, Kozue khẽ lắc đầu. “Mặt trắng bệch. Cặp mắt hệt như mắt quả bí ngô dịp Halloween, miệng cười quái ác.”

“Không nhận dạng được là ai à?” Uryu hỏi.

Kozue khẽ lắc đầu. “Ăn mặc y như chúng ta, kéo mũ trùm lên đầu.”

“Vóc dáng thế nào? Chiều cao, độ dài tóc?”

“Em không biết.” Kozue tiếp tục lắc đầu. “Nhưng mà, nhắc mới nhớ, đồ hắn mặc hình như dính bẩn.”

“Linh y ấy à? Bẩn thế nào?”

“Phần ngực ướt sũng. Có khi nào là vết máu không.”

“Máu người chết bắn lên á?”

Uryu lẩm bẩm, liếc nhìn về phía bàn. Thi thể Watanabe vẫn nằm nguyên tại chỗ. Họ không thể di dời cậu đi chỗ khác nên đành đắp cho cậu một cái chăn.

“Sau đó thì…?”

Nghe giục, Kozue tiếp tục, “Em hỏi là ai, kẻ đó không trả lời, chỉ quay phắt người đi về hướng này, hướng đại sảnh ấy. Y như muốn nói ‘Lại đây’. Em không hiểu đầu cua tai nheo ra sao, cứ thế bước theo, rồi trông thấy Watanabe…”

Có vẻ sợ nhìn thấy thi thể, Kozue chỉ trân trân ngó góc bàn, không dám dịch ánh mắt ra xa.

“Kẻ đeo mặt nạ đi đâu?”

“Bỏ chạy. Không nói một câu. A, hình như có cười khùng khục.”

“Chạy theo hướng nào?”

“Đằng kia.” Kozue nói, tay trỏ theo hướng hành lang chạy về phía Đông. Cuối hành lang này ngoặt phải thì chính là khu sưu tập, bên cánh Nam đại sảnh. “Em định báo cho chị Sakiko biết nên chạy luôn sang phòng chị. Kết quả phát hiện chị Sakiko cũng…”?️

“Lúc đó cửa phòng Sakiko đang mở à?”

“Em nhớ là khép.”

“Đèn thì sao?”

“Chỉ bật đèn đầu giường.”

“Em có nhớ thời gian không? Phát hiện thi thể là khoảng mấy giờ?”

Suy nghĩ một lúc, Kozue trả lời, “12 rưỡi. Vì lúc em định sang phòng chị Sakiko thì chuông đồng hồ kêu.”

“Sau đó thì em sang gọi anh đúng không? Vậy chắc là 12 giờ 40 phút nhỉ?” Uryu hít một hơi, đưa tay hất tóc mái xòa xuống vầng trán trắng mịn, tiếp tục nói. “Từ lời kể của Kozue, có thể kết luận, kẻ đeo mặt nạ không phải Uryu hay Kawarazaki.”

Cậu lần lượt nhìn ba nhân viên Kitansha. “Kẻ đeo mặt nạ chạy ra hành lang rồi ngoặt sang cánh Nam, cuối cánh Nam là ngõ cụt. Phòng tụi em nằm ở cánh Bắc. Khi Kozue chạy đến tìm thì em đang ở trong phòng. Sau đó tụi em đi gọi Kawarazaki ngay, cậu ấy cũng đang ở trong phòng.”

“Ý cậu là…” Mặt Kobayakawa tái xanh, cơ má giần giật. “Ý cậu muốn nói hung thủ là một trong ba người chúng tôi hả?”

Đứng trước mặt một người lớn tuổi hơn đang nổi nóng bừng bừng mà Uryu không hề ngại ngần, cậu uyển chuyển đáp, “Không hề. Chưa đi đến kết luận dứt khoát như thế được, nên em mới dùng từ ‘có thể’.”

“Là sao?”

“Là còn khả năng khác. Ví như chuyện Kozue kể là giả. Thực tế không tồn tại kẻ mang mặt nạ nào hết. Suy ra em ấy là hung thủ hoặc đồng phạm.”

“Sao anh lại…” Kozue biến sắc.

“Đừng giận đừng giận. Anh tiện miệng thì nói thôi, chứ ai lại nghĩ em là người xuống tay tàn ác được.” Uryu mỉm cười ôn hòa. “Vẫn còn khả năng khác nữa mà. Ví như hung thủ đợi lúc Kozue vào phòng Sakiko thì quay lại đại sảnh, tháo chạy ra hướng tiền sảnh. Như thế thì tôi hoặc Kawarazaki đều dư sức về phòng mình trước khi Kozue đến.”

“Rốt cuộc cậu muốn nói gì?” Người vừa cất tiếng là Kawarazaki. Hàng lông mày đậm cau lại, cậu trừng mắt nhìn Uryu. “Đầu óc cậu có bình thường không hở? Bạn chúng ta chết sờ sờ ở đây, làm sao cậu còn bình tĩnh chơi trò thám tử được thế?”

“À, muốn tớ kinh hoàng nhớn nhác một chút chăng?” Uryu ngoảnh mặt lại trừng mắt đáp trả Kawarazaki. “Nếu có thể, tớ rất muốn khóc rống mặc kệ tất cả, nhưng thế thì có tác dụng gì? Làm Sakiko và Watanabe hồi sinh được ư?”

“Ý tớ không phải thế.”

“Tình hình bây giờ là, trốn thoát vô vọng, cảnh sát không tới được. Chúng ta còn phải chịu đựng thêm một ngày rưỡi nữa, cậu hiểu không?”

“Dù là vậy…”

“Tớ đang cố đuổi xua phiền lo theo cách riêng thôi.” Uryu nhún vai, buồn bã khép đôi mắt hai mí có hàng mi dài. “Chúng ta phải chịu đựng đến 6 giờ chiều mùng 2 tháng Tám, đợi chị Sayoko cảm thấy nghi hoặc và sang mở cửa hộ. Không chỉ chịu đựng, còn phải tìm cách ngăn chặn diễn biến xấu hơn. Muốn thế, cần nắm được sự thật một cách khách quan, đúng chứ?”

“À à, điều này tớ hiểu…”

Kawarazaki ngừng lời, ánh mắt nhìn bạn đã dịu đi nhiều.

Uryu ngả mình ra lưng tựa ghế, nhắm mắt, thở một hơi dài. Được một lúc, cậu bỗng buông một câu, “Dù gì đi nữa, rõ ràng vẫn có điểm lạ lùng.” Cậu đảo mắt nhìn quanh một vòng. “Như Kozue kể, kẻ quái đản mang mặt nạ, hay hung thủ đi (gọi thế cũng không sao hả), hung thủ dính máu lên quần áo. Xem các thi thể, đặc biệt là Watanabe, thì máu bắn ra rất mạnh, rất nhiêu, đây là sự thật. Nhưng mà, như ta thấy bây giờ, quần áo của tất cả những người ở đây đều không có vết bẩn nào hết.”

Nghe Uryu chỉ ra, Kawaminami lần lượt nhìn ngực áo năm người kia. Đúng vậy, không thấy vệt máu dây lên người ai cả. “Thế này là sao?”

Bầu không khí chìm vào im lặng. Mọi người nín thở quan sát biểu cảm của nhau, chỉ có âm thanh đều đều của những bộ máy đo thời gian khe khẽ vang lên trong đêm tĩnh lặng.

A a… anh Shishiya…

Kawaminami ngước mắt lên trần nhà, lòng thầm kêu tên người đó. Nỗi lo ngại của anh hai tuần trước giờ đã thành sự thật. Giá mà anh ở đây thì tốt biết bao nhiêu, cậu thầm nghĩ.

“Đúng rồi.” Lúc sự tĩnh lặng bị xé rách vì âm chuông 3 rưỡi sáng, Kozue bất chợt cất tiếng. “Em… em, anh Uryu này.”

“Em nhớ ra chuyện gì à?”

“Em ngửi thấy… mùi thơm. Cái lúc kẻ đó gõ cửa và em mở ra ấy.”

“Mùi à?”

“Mùi nước hoa. Tuy thoang thoảng, nhưng là mùi khá đặc biệt. Đó là…”

Mọi người ngơ ngác nhìn nhau.

“Mùi nước hoa của Komyoji phải không?”

Kawaminami đột ngột hỏi làm Kozue giật mình, cô im lặng gật đầu.

“Vậy hung thủ là…”

“Có phải là do buổi gọi hồn không?” Utsuumi đột nhiên nói. Có vẻ như anh vẫn chưa giã rượu, mắt đỏ ngầu, giọng nhừa nhựa, anh lắp bắp. “Nghiêm túc đấy. Nhất định là chị ta bị ác linh nhập rồi.”

“Ác linh?” Uryu ngạc nhiên hỏi lại. “Vì bị nhập nên chị ta mới biến mất, sau đó đi giết người?”

“Đúng. Đúng vậy. Ác linh ở nhà này bị triệu lên đã đoạt xác chị ta luôn.”

“Hoang đường.” Uryu nhún vai một cách cường điệu. “Anh vẫn tin các hiện tượng trong buổi gọi hồn là hiện tượng tâm linh thật đấy à?”

“Chuyện đó…”

“Hôm qua em nói rồi còn gì, cơ bản em có thể xác định được, đó đều là trò về lừa đảo. Nói kĩ hơn, em cho rằng Komyoji chẳng có linh lực gì ráo. Chị ta vốn dĩ là kẻ bịp bợm. Đúng không, anh Kobayakawa?”

Đột ngột bị chĩa mũi dùi, Kobayakawa hoảng hồn, mắt đảo quanh. “Sao lại hỏi tôi?”

“Vì em nghĩ chỉ mình anh biết sự thật.”

“Sao lại nói thế?”

“Bởi vì… Đã đến nước này em sẽ nói thẳng luôn. Buổi gọi hồn hôm qua, bất kể nhìn nhận thế nào, cũng đều là do anh và Komyoji tiến hành theo từng bước đã định, ta có thể gọi là ‘dàn dựng’ đó ạ. Đặc biệt là nửa sau, dùng tiếng gõ vào bàn để thể hiện câu trả lời của linh hồn ấy. Cách đặt câu hỏi của anh lúc ấy quá khéo léo, đến mức người ta không khỏi nghi ngờ. Em nói có sai không?”

“Không…” Kobayakawa đã nhận ra, cho dù có phủ định giả thuyết của Uryu, thì chẳng qua chỉ khiến bản thân lúng túng thêm thôi. Vì thế anh ậm ừ, rồi cúi mặt, quyết định thẳng thắn. “Bây giờ mà tôi còn giấu nữa thì chẳng khác nào gậy ông đập lưng ông. Đúng vậy. Đúng như cậu nói.” Giọng Kobayakawa pha lẫn hổ thẹn. “Những hiện tượng… các tình tiết trong buổi gọi hồn ấy, đúng thế, đều là lừa gạt. Tôi biết rõ, nhưng vẫn hợp tác với cô ấy.”

“Vì sao phải thế?” Kawaminami chất vấn.

Kobayakawa đặt hai cánh tay lên bàn, lắc đầu yếu ớt. “Toàn bộ kế hoạch này là do Komyoji tự đề xuất. Cô ấy nhờ tôi giúp. Còn tôi thì ở vị thế không thể từ chối được.”

“Vị thế không thể từ chối được, nghĩa là…”

Kawaminami đang định hỏi tiếp, thì chợt nhớ ra cuộc nói chuyện với Shishiya ở Green Heights hai tuần trước.

“Không lẽ, anh Kobayakawa…”

Thi thoảng tôi bắt gặp một người trông cũng có địa vị đi cùng cô ấy. Shishiya từng kể về cô hàng xóm. Gặp mấy lần rồi. Đại khái là một người đàn ông lớn tuổi, nhưng không có vẻ là cha cô ta, chưa chừng lại là bồ bịch cũng nên.

“… với chị Komyoji là quan hệ như thế?”

“Như thế là như thế nào?”

“Em tình cờ có người quen sống ở căn 409 Green Heights khu Kaminoge. Cho nên…”

“À.” Kobayakawa cười khổ như đang giễu cợt chính mình, cơ mặt co giật. “Không ngờ chuyện lại vỡ lở theo cách này. Đúng là sống trên đời không nên làm việc xấu. Là thế đấy, Kawaminami à. Chúng tôi qua lại đã gần một năm rưỡi. Có vợ có con, lại có tuổi rồi mà tôi cứ mê cuồng cô ấy. Bởi vậy lần này cô ấy ngỏ lời nhờ cậy, tôi không thể nhả ra hai từ ‘không được’…”