Chương 9
Cựu quán (4)
“Tên thật của Komyoji là Terai Mitsue, em gái của Terai Akie, người từng giúp việc cho nhà Koga ngày trước.” Đợi cho các hồi chuông điểm 4 giờ sáng đã lặng hẳn, Kobayakawa kể lại đầu đuôi câu chuyện. “Terai Akie là hộ lý trong biệt thự này, chuyên chăm sóc cho cô Towa ốm yếu bệnh tật. Bấy giờ cha mẹ đã mất, chỉ còn hai chị em sống nương tựa vào nhau. Mitsue tốt nghiệp cấp ba xong, có một thời gian cũng được thuê đến giúp việc ở đây.”
“Anh Kobayakawa…” Kawaminami sửng sốt hỏi. “Tức là chị Sayoko đã biết mặt chị Komyoji từ trước rồi, đúng không?”
“Ừ.” Kobayakawa mím môi chán nản.
“Là sao?” Kawarazaki bật kêu, vẻ ghê tởm như phun con nhặng cắn nhầm. “Mụ già tòng phạm! Chả trách thái độ khác hẳn hồi tụi em ghé thăm năm ngoái.”
“Lần đầu tôi nghe Mitsue kể chuyện về ngôi nhà này, là vào cuối năm ngoái.” Kobayakawa u ám tiếp tục bằng giọng đều đều. “Rằng, ‘Ở Kamakura, có một kiến trúc kì lạ tên là Thời Kế Quán. Kì lạ hơn là nó đã từng gặp phải rất nhiều chuyện bất hạnh trong quá khứ, và gần đây bị đồn đại là ma ám, có oan hồn lảng vảng. Em từng làm việc ở nhà ấy, và cũng quen với chị quản gia…’”
Không bao lâu sau, Mitsue đề nghị Kobayakawa lập dự án đặc biệt, với sân khấu thực hiện là Thời Kế Quán. Cô ta sẽ giữ vai trò người gọi hồn, tiến hành buổi lễ để tìm hiểu chân tướng của vong linh và quá khứ của nhà Koga.
Nếu hai người cùng hợp tác thì việc tạo ra những hiện tượng kì quái cũng rất đơn giản. Mitsue vốn dĩ biết khá rõ về nhà Koga, bởi vậy dễ dàng nói lại những chuyện đã xảy ra. Nếu đưa tin về buổi gọi hồn trên một chuyên đề đặc biệt của CHAOS, danh tiếng của nhà ngoại cảm Komyoji càng nổi như cồn.
Đã muốn làm, thì phải làm đâu ra đấy. Mitsue đề nghị, mọi người cùng nhốt mình ba ngày trong Thời Kế Quán. Ngoài ra, cô còn đề xuất cài cắm một số sinh viên thuộc câu lạc bộ tâm linh nào đó đến làm nhân chứng. Và cô chọn luôn một hội mà Kobayakawa từng phỏng vấn, là hội nghiên cứu các hiện tượng kì bí của Đại học W.
Sau khi phương án được thông qua trong buổi hội ý ở ban biên tập, Kobayakawa lập tức đến nhà Koga, tiến hành tiếp xúc đề nghị. Vì Mitsue đã có lời trước với Sayoko, nên chị quản gia mau chóng chấp nhận yêu cầu thực địa Cựu quán của họ. Ba người bàn với nhau, dự án đặc biệt này sẽ tiến hành từ chiều tối 30 tháng Bảy đến chiều tối mùng 2 tháng Tám.
“Ô hô!” Kawarazaki rung đùi như điên, tiếp tục nói với vẻ ghê tởm. “Coi như tụi này bị mấy người lừa bịp lại còn hăm hở phối hợp với mấy người. Đúng như Uryu nói, suy đến cùng chị ta chẳng có linh lực gì hết, phải không?”
“À thì…” Kobayakawa đưa tay lên lau mồ hôi đang rịn ra trên trán. “Tôi nghĩ cũng không thể vơ đũa cả nắm như thế được. Nói sao ta, trước đây khi làm phóng sự hay phỏng vấn, chúng tôi cũng gặp khá nhiều nhà ngoại cảm, nhưng đa số đều tào lao. Nhưng Mitsue thì khác, cô ấy đích thực có năng khiếu về phương diện này. ít nhất thì hồi đầu, tôi cho rằng linh lực của cô ấy là thật. Nhưng…”
Kawaminami cũng từng nghe nói, các linh lực như giao tiếp với linh hồn hay siêu năng lực đều sẽ bị mai một. Khác với các năng lực thông thường, linh lực càng dùng càng hao, mà một khi đã hao, thì các nhà ngoại cảm lại trở về thành người bình thường. Họ không muốn chấp nhận tình trạng này, nên nghĩ ra đủ mọi chiêu trò để lừa bịp người khác. Nếu linh lực của Komyoji, tức Mitsue, mà là thật, thì có lẽ cô ấy cũng đang phải trải qua cảnh ngộ cạn kiệt.
“Anh Kobayakawa này, mấy luận thuyết như linh hồn ghét tạp vật, rồi phải mặc linh y để giữ cho thân thể thuần khiết… cũng đều là chiêu trò để tạo không khí à?”
Nghe Kawaminami hỏi, Kobayakawa À một tiếng rồi nói, “Cô ấy nghĩ như thế thật, khó mà nói là cô ấy hoàn toàn lừa mọi người. Mitsue từng tâm sự là, tin chắc linh hồn Towa vẫn còn trong Thời Kế Quán. Nếu quy trình tiến hành thuận lợi, biết đâu lại giao tiếp được với Towa.”
“Việc cửa ra vào bị khóa thì sao?”
“Do Mitsue chỉ đạo. Cô ấy bảo cứ để chùm chìa dự phòng ở chỗ cô ấy.”
Trong lúc Kobayakawa tường trình, không biết từ lúc nào Uryu đã mang bình và tách vào bếp, lặng lẽ pha cà phê.
“Cảm ơn em.” Cảm kích nhận lấy tách cà phê từ tay Uryu, Kawaminami tiện thể hỏi luôn. “Chị Komyoji sử dụng các mánh khóe gì trong buổi gọi hồn, em đã làm rõ được cả rồi, đúng không?”
“Ừm, cơ bản là rõ.” Uryu gật gù, lạnh lùng liếc xéo Kobayakawa đang mỏi mệt gục đầu. “Em sẽ giải thích nhé? Nếu có điểm nào sai sót, nhờ anh Kobayakawa đính chính giùm.”
“Có phải giống như những điều em nói với Watanabe sau buổi gọi hồn không?”
“Tiểu xảo của Eusapia Palladino ấy ạ? Đúng đấy. Những tiếng rapping ở nửa sau buổi gọi hồn có lẽ chỉ toàn mánh lừa thôi.” Uryu đáp không do dự. “Trước hết, thủ pháp làm tắt nến chỉ là trò bịp trẻ con, ai cũng làm được. Hiện tượng đó xảy ra khi buổi gọi hồn đã kéo dài được tầm hai mươi phút. Để nó tắt đúng thời điểm ấy, chắc chắn đã có người động chân động tay ngay từ đầu.”
“Động tay động chân? Động thế nào?”
“Rút bấc nến ra. Cắt đi, để lại một đoạn sao cho đủ cháy tầm hai mươi phút. Cháy đến chỗ hết bấc thì lửa cũng tắt thôi. Sau buổi gọi hồn, Komyoji nhanh tay cầm cây nến theo, tiểu xảo hoàn thành. Kiểm tra là biết ấy mà.”
Đơn giản vậy sao… Kawaminami bất giác chắt lưỡi. Nhưng đúng là làm thế sẽ khiến nến tự động tắt thật. Kobayakawa vẫn gục đầu ủ rũ, không hề phản biện.
“Tiểu xảo của Palladino thì thế nào?”
“Eusapia Palladino là một bà đồng hoạt động từ khoảng cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 20. Mặc dù ông Conan Doyle có vẻ tin tưởng hoàn toàn vào linh lực của bà ta, nhưng Palladino lại nổi danh chính là nhờ tiểu xảo này. Tiếng rapping ở đây hoàn toàn có thể giải thích thông qua nó. Anh có nhớ tình hình lúc đó không, anh Kawaminami?”
“A, lúc đó…”
“Ngồi hai bên Komyoji là anh và Sakiko. Anh bên trái, Sakiko bên phải. Khi ấy chúng ta được hướng dẫn nắm cổ tay người ngồi bên phải, anh Kawaminami đã dùng tay phải của mình nắm lấy cổ tay trái của Komyoji, và chị ta dùng tay phải của mình nắm lấy cổ tay trái Sakiko. Như thế, chị ta có thể chứng minh rằng hai tay mình không còn dư khả năng làm gì khác cả. Về sau, chị ta rơi vào trạng thái mê mụ, đang trả lời các câu hỏi thì nến tắt. Em còn nhớ xung quanh tối om được một lúc thì người chị ta bắt đầu lắc lư dữ dội hai bên trái phải.”
“À ừ, đúng vậy.”
“Đó chính là lúc chị ta bắt đầu giở trò. Trong lúc lắc lư trái phải chị ta kéo tay trái đang bị anh Kawaminami giữ chặt lại gần tay trái của Sakiko rồi tráo đổi thật nhanh, dùng nó nắm lấy tay trái của Sakiko. Mọi người hiểu chưa?”?️
“Tay trái đang bị anh nắm và tay phải nắm tay Sakiko…”
Kawaminami đưa hai tay lên bàn tròn, thử xác nhận lại phương pháp tráo đổi giống như Uryu vừa miêu tả.
“Ha, đã hiểu. Như thế, tay phải của Komyoji được tự do. Cũng mất công đấy!”
“Sau khi giải phóng tay phải rồi, trong bóng tối chị ta có thể dùng nó gõ vào bàn để tạo ra tiếng động. Kobayakawa đã phối hợp diễn màn kịch đó cùng chị ta. Xong xuôi, Komyoji lại lắc lư trái phải như điên để đổi hai tay về như cũ. Và anh Kobayakawa nhắc bật đèn lên. Em giải thích nãy giờ đúng cả chứ?”
Kobayakawa yên lặng gật đầu. Uryu nhấp một ngụm cà phê, liếm đôi môi mỏng rồi tiếp tục.
“Cuối cùng là tiết mục phát hiện chìa khóa, chắc chắn cũng do Komyoji hoặc Kobayakawa mượn Sayoko từ trước và đặt nó ra sau kệ.”
“Không, cái này thì không đúng.”
“Sao cơ?”
“Chị Soyoko chỉ chấp thuận cho chúng tôi sử dụng Cựu quán thôi, còn lại tôi và Mitsue định diễn kịch thế nào, chị ấy không hề hay biết. Vì thế mới lưu ý không ai được vào phòng quả lắc…”
“Thế chìa ở đâu ra?”
“Hình như do Mitsue tìm thấy trong đống di vật của chị gái, ngẫu nhiên biết nó là chìa phòng quả lắc nên muốn tận dụng một chút.”
“Khoan đã.” Kawaminami vội vàng ngắt lời Kobayakawa. “Anh vừa nói ‘di vật’, vậy cái người tên là Akie kia…”
“Chết cách đây mười năm rồi.” Vẫn ủ rũ gục đầu, Kobayakawa đáp. “Cô Towa chết vào đầu tháng Tám, không lâu sau Akie cũng treo cổ tự tử trong rừng.”
“Kể cả vậy, Uryu à,” Kawarazaki gõ gõ bàn một cách sốt ruột. “Mặc kệ Komyoji hay Mitsue, là ai cũng có quan trọng gì? Quan trọng là tại sao chị ta giết Watanabe và Sakiko kìa!”
Vì hương thơm mà Kozue nhắc đến ban nãy, xem ra Kawarazaki đã quả quyết rằng Komyoji chính là kẻ sát nhân đeo mặt nạ. Tất nhiên vẫn tồn tại khả năng Kozue làm chứng sai hoặc đã bị ảo giác về mùi hương, nên không thể khẳng định 100%, nhưng Kawaminami cũng chung quan điểm với Kawarazaki.
“Anh nghĩ sao, anh Kobayakawa?”
Bị Kawarazaki bức bách, người tình của kẻ sát nhân bất lực lắc đầu. “Tôi không biết, tôi cũng đang muốn có ai cho tôi biết mọi chuyện là sao đây.”
“Nhưng mà…”
“Mitsue đi một mình đến phòng quả lắc, về sau còn chơi trò mất tích. Toàn là những diễn biến nằm ngoài phạm vi nắm bắt của tôi. Tôi chưa bao giờ nghe cô ấy nói về các dự định đó. Lúc biết cô ấy biến mất, tôi còn là người sửng sốt nhất đấy.”
Quả có vậy, khi nghe tin Komyoji biến mất, Kobayakawa tỏ ra hoảng loạn hơn bất cứ ai. Khi Uryu và các bạn đặt giả thuyết về màn kịch, anh không buồn che giấu vẻ u sầu chán nản, cũng không buồn hưởng ứng các quan điểm của họ.
“Anh không biết chút gì hay sao?” Kawarazaki hỏi lại. Kobayakawa cắn môi dưới, không trả lời.
“Chà, em muốn hỏi về chị Terai Akie một chút. Mười năm trước, vì sao chị ấy tự sát?”
Uryu tiếp cận vấn đề từ góc độ khác, Kobayakawa liền đáp.
“Tôi biết rất ít về chuyện này, chỉ nhớ Mitsue có kể hành vi tự sát của chị cô ấy có liên quan đến cái chết của Towa.”
“Cái chết của Towa…” Uryu trầm ngâm nhíu mày. “Anh có biết Towa chết thế nào không? Theo thông tin từ buổi gọi hồn thì, không phải ốm chết, không phải tai nạn chết. Điều này có đúng không? Với cả trước đó nữa, chị Komyoji nói cái gì mà 16 tuổi, hố đen… Nghĩa là sao?”
“Các chi tiết này, tôi đều không rõ.”
“Không phải hai người đã thỏa thuận nội dung hỏi đáp khi gọi hồn rồi sao?”
“Chỉ thỏa thuận nội dung câu hỏi, còn đáp án thì, tôi không được biết. Nhưng mà có thể khẳng định Towa không chết vì bệnh cũng không chết vì tai nạn.”
“Đã không phải do bệnh hay tai nạn, thì chỉ có thể là tự sát hoặc bị giết.” Giọng Uryu toát ra sự căng thẳng
“Tự sát thì phải.” Kobayakawa nói.
Uryu khẽ thở dài. “Vì lý do gì mà tự sát?”
“Tôi không biết. Có hỏi qua nhưng Mitsue trả lời rất mập mờ.”
“Hẳn chị Komyoji phải biết nguyên nhân. Cái chết của chị Akie liên quan đến cái chết của Towa cơ mà.”
“Nghe bảo Akie cảm thấy mình có trách nhiệm về hành vi tự sát của cô chủ. Towa gặp bất trắc khi Akie rời vị trí. Ông Michinori cũng nặng lời với cô ấy nữa. Vậy là vừa tổn thương, vừa ăn năn, cho nên…” Kobayakawa đột nhiên bỏ lửng, rồi lẩm bẩm, “Kể ra thì…”
“Sao cơ?”
“Mitsue có nói thế này về Towa. Đứa trẻ ấy quá đỗi đáng thương, cho dù thể chất đau ốm yếu ớt thế nào, cũng không nhất thiết phải cầm chân trong ngôi nhà u ám suốt từ sáng đến tối… Tù túng mới chết thảm như vậy. Chị Akie bị liên lụy càng đáng thương hơn. Và…” Kobayakawa nhắm nghiên mắt, như thể đang cố gắng rút tỉa kí ức. “À… tôi từng nghe nhắc đến 16 tuổi. Sao nhỉ, nhớ rồi. Mitsue kể Towa luôn mong ước được kết hôn vào sinh nhật lần thứ 16. Song lại ra đi trước ngày ước mơ thành hiện thực. Thật đáng tiếc!”
“Kể cả thế, chị ta cũng không có động cơ hợp lý nào để sát hại Watanabe và Sakiko cả.” Kawarazaki đan tay vào nhau, giọng như phỉ nhổ tại sao những người đã chết lâu lắc rồi còn gây phiền hà vầy nè. “Nói một cách đơn giản, đầu óc chị ta hơi, à không, rất rất có vấn đề. Nếu không đã chẳng gây ra hành vi tàn ác như thế.”
Cậu liếc về phía thi thể đang đắp chăn len của Watanabe, chân mày cau rúm lại, “Không cảnh giác với chị ta thì nguy hiểm vô cùng.”
“Ý cậu là sẽ còn có thêm nạn nhân nữa à?” Uryu hỏi. Hiển nhiên là câu mà không một ai ở đây muốn nghe.
Kawarazaki nhăn nhó. “Ừ đấy. Tôi đề nghị, mọi người cùng sục sạo khắp nhà thêm lần nữa đi. Cứ hai người một nhóm để đề phòng chị ta. Trong lúc tìm chị ta, có khả năng tìm được chìa khoá tiền sảnh luôn.”
“Chưa chắc à, hung thủ có khi đã cao chạy xa bay khỏi Cựu quán rồi. Trong tay hung thủ có chìa khóa, đời nào lại nấn ná ở đây để có nguy cơ bị bắt. Gây án xong chuồn luôn ra ngoài mới là sáng suốt.”
“Cũng đúng.”
“Nếu vậy, chi bằng chúng ta chặn cửa tiền sảnh từ bên trong, để chị ta không vào được. Chiều tối mai mà chưa thấy chúng ta ra, chị Sayoko sẽ thắc mắc và sang kiểm tra thôi.”
“Chuyện gì sẽ xảy ra nếu mụ già ấy là tòng phạm? Chẳng phải chúng ta sẽ chết đói ở đây sao?”
“Đừng lo, như thế thì chính Sayoko cũng gặp nguy hiểm, vì ngoài kia đầy người biết chúng ta đang ở Thời Kế Quán mà. Không đời nào chúng ta bị bỏ mặc đâu.”
“Nhưng…”
“Dĩ nhiên, cứ tìm kiếm trong nhà xem nào. May ra cũng có ích.”
“Tôi không tìm…” Utsuumi đột nhiên ré lên, trừng mất nhìn Uryu và Kawarazaki, rồi lại sợ sệt quay về phía Kobayakawa. “Nói đi nói lại, suy đến cùng anh là đồng mưu phải không? Bộ dạng đau khổ này, cũng là đóng kịch thôi phải không?”
“Cậu nói cái gì thế hả?” Cái cằm núc ních của Kobayakawa run bần bật. “Tôi không phải loại người đó…”
“Tôi không tin ai nữa. Không chỉ Kobayakawa, mà tất cả những người khác nữa, tôi đều không tin.” Utsuumi tuyên bố cực kì đanh thép rồi run rẩy nhìn khắp xung quanh. Bất thần anh ta hùng hổ đập thình thình hai tay xuống bàn. “Tuy các người nói chị Komyoji là hung thủ, nhưng cũng có thể không phải. Biết đâu chị ấy đã bị giết ngay từ đầu rồi, đúng chứ? Ai dám khẳng định chị ấy còn sống nào?”
Utsuumi thao thao bất tuyệt, rồi được chính khí thế của mình cổ vũ, giọng càng vút cao, “Chị ấy đã bị giết. Đúng. Ai trong các người là hung thủ? Anh Kobayakawa, anh phải không? Hay Uryu? Hay tất cả các người thông đồng với nhau?”
“Anh Utsuumi!”
Kawaminami đứng dậy, định an ủi anh phóng viên ảnh đang phẫn uất hoảng loạn, Utsuumi liền biến sắc hét lên.
“Đừng qua đây!” Anh vừa gầm rú vừa xô ghế, lùi xa khỏi bàn. “Tôi cũng không tin cậu, cậu là cấp dưới của Kobayakawa!”
“Anh hãy bình tĩnh đi, nếu anh cứ làm loạn như thế…”
“Tôi bảo cậu đừng có qua đây!” Khiếp nhược quá hóa đa nghi và thù địch, Utsuumi duỗi hai tay ra trong tư thế phòng vệ, lùi dần về phía nhà bếp. “Từ giờ đến hoàng hôn ngày mai tôi sẽ ở một mình trong phòng. Như vậy là an toàn. An toàn nhất. Cấm ai đến. Không ai hết. Nếu không tôi sẽ cho biết tay. Các người rõ chưa? Rõ chưa? Rõ chưa!?”
Lu loa một hồi, Utsuumi xoay người chạy thật nhanh vào bếp. Một lát sau lao ra, tay ôm thùng đựng nước ăn, whiskey và thực phẩm nhiều hết mức có thể. Anh ta trừng mắt nhìn các đồng đội đang ngây ngốc theo dõi, rồi lỉnh nhanh khỏi đại sảnh như chạy trốn.
“Điều anh Utsuumi nói cũng không hoàn toàn vô lý. Đúng là hiện giờ vẫn chưa thể khẳng định chị Komyoji là hung thủ mà.”
Sau một khoảng thinh lặng khiến người ta ngạt thở, Uryu lên tiếng đầu tiên. Cậu vừa nói vừa pha tách cà phê thứ hai, ánh mắt ủ rũ rơi xuống hai kim đồng hồ vẫn đang đều đều chạy dưới lớp kính bàn.
“Đã 5 rưỡi rồi cơ à?” Cậu chưa dứt lời thì đồng hồ trên kệ đã thi nhau ngân chuông. “Cũng phải. Có khả năng Komyoji không phải hung thủ. Lý do khá rõ ràng mà.”
“Uryu…” Kawarazaki liếm đôi môi khô nẻ, với lấy bình nước nóng trước mặt Uryu, rót một ít vào tách rỗng rồi uống một hơi cạn sạch như uống thuốc.
Kobayakawa thì suốt từ nãy đến giờ vẫn cắn môi ủ ê, thở ngắn than dài. Kozue chống khuỷu tay lên bàn, hai tay ôm lấy đầu hoàn toàn bất động. Đã quá giờ ăn từ lâu, nhưng không một ai tỏ vẻ đói bụng cả.
“Ví dụ chúng ta có thể nghĩ theo hướng này nhé.” Uryu vừa nói vừa hất tóc mái lên. “Tại sao hung thủ lại phải đeo mặt nạ? Xét theo lẽ thường thì là để che đi khuôn mặt mình, không cho người ta nhận diện đúng không. Nếu Komyoji là thủ phạm thì chính sự biến mất cũng đã khiến mọi nghi ngờ đổ dồn về phía chị ấy rồi, cố gắng ngụy trang như vậy là không cần thiết. Cậu nghĩ sao, Kawarazaki?”
“À ừm, cũng có lý.”
“Còn một điểm nữa,” Uryu giơ ngón trỏ phải lên. “Tớ vẫn chưa lý giải rõ ràng được. Đó là, tại sao sau khi sát hại Watanabe và Sakiko, hung thủ lại đi gõ cửa phòng Kozue? Hắn cũng không tấn công cô bé mà chỉ để lộ cái mặt nạ rồi lỉnh luôn? Cậu nghĩ thế nào?”
“Chà…”
“Đây là một vài đáp án mà tớ nghĩ đến nhé. Hung thủ muốn mọi người nhanh chóng phát hiện thi thể của hai cậu ấy, hoặc là, hắn muốn để người thứ ba nhìn rõ hình dáng và mặt nạ đang mang, có lẽ muốn người đó chú ý đến cả mùi nước hoa nữa.”
“Hả…”
“Nghĩ theo hướng này thì có thể kết luận kẻ sát nhân mang mặt nạ không phải là Komyoji Mikoto. Có lẽ chị ấy đã bị sát hại vào chính thời điểm chị ấy biến mất rồi. Một kẻ khác đã mặc bộ linh y của Komyoji và đeo mặt nạ vào. Vì thế, trên người hắn mới có mùi nước hoa của Komyoji. Sau khi giết Watanabe và Sakiko, hắn thay vô trang phục ban đầu của mình, như vậy thì không phải lo lắng tới vết máu bắn trên ngực áo nữa.”
“Cậu giỏi quá hè!”
Không biết tâm trạng Kawarazaki thế nào, nhưng lời nói nghe sặc mùi châm biếm, nụ cười cũng cứng nhắc. Uryu vẫn giữ vẻ nghiêm túc, tiếp tục nói.
“Dĩ nhiên, dù giải thích như thế thì cũng vẫn còn khả năng Komyoji chính là hung thủ. Tính đến giờ tất cả mọi điều chỉ ra đều cho thấy toàn là hành vi mất trí của chị ta.”
“Hừ, tất cả lại quay về điểm xuất phát à? Ý của cậu là ai ở đây cũng đều có khả năng là hung thủ?”
“Đúng.” Uryu nhún vai, nhìn về hướng hành lang phía Đông mà anh phóng viên ảnh vừa chạy ra. “Biết đâu chính con người kinh hoàng đến mất hết hồn vía kia lại là hung thủ ấy chứ.”
“Biết đâu chính con người đang lập luận khiên cưỡng này lại là hung thủ ấy chứ.”
“Cậu nói linh tinh gì đấy?” Trong một tích tắc, mặt Uryu đanh lại, nhưng chẳng mấy chốc lại dịu đi, quay sang Kawaminami. “Nhắc mới nhớ… Lúc Kozue nói là hung thủ có đeo mặt nạ, anh liền hỏi ‘Phải chăng là một trong số mặt nạ treo trên tường hành lang đi vào Tân quán?’. Rốt cuộc anh căn cứ vào đâu mà hỏi thế?”
“À…” Kawaminami mường tượng lại khung cảnh hành lang. “Anh cảm thấy số mặt nạ treo ở đó bị thiếu đi một chiếc. Lần đầu đi qua hành lang để vào Tân quán, với lần cuối cùng đi ra để sang Cựu quán, số lượng mặt nạ khác nhau.”
“Ừm. Còn ai nhận ra điểm dị thường này không?”
“Tính ra, tớ cũng có cảm giác ngờ ngợ đấy.” Kawarazaki đáp.
Uryu gật đầu. “Sau khi thay linh y trong phòng khách Tân quán, ba anh lớn đã ra ngoài để dỡ đồ xuống xe. Lúc ấy số lượng mặt nạ thế nào?”
“Anh không có ấn tượng gì…” Kawaminami quay đầu về phía Kobayakawa. Anh vẫn im lặng, chỉ khẽ lắc đầu.
“Dù gì thì lúc chúng ta di chuyển sang Cựu quán, mặt nạ trên tường cũng đã thiếu đi một cái.” Uryu kết luận rồi đưa tách lên môi. “Vấn đề là ai đã lấy nó đi và lấy vào lúc nào? Ai là người có cơ hội làm như thế?”
“Ai mà chẳng có cơ hội.” Kawarazaki nói. “Từ khi đến biệt thự cho đến khi vào Cựu quán, ai cũng có cơ hội đi ra khỏi phòng khách một mình. Nhất là lúc đang và sau khi thay xong quần áo ấy, láo nha láo nháo, muốn lấy dễ như không. Ngay cả khi đi vệ sinh cũng thừa sức tiện tay thó một cái.”
“Đúng rồi. Tháo một chiếc mặt nạ trên tường xuống chắc chỉ mất vài giây. Thay đồ xong thì càng đơn giản, giấu trong linh y là được.”
Dù sao đi nữa, Kawaminami nghĩ, khi lén lút mang mặt nạ theo là trong lòng đã nổi ác tâm, tức là đã quyết định dùng mặt nạ vào việc xấu rồi.
Chuông đồng hồ điểm 6 giờ sáng vang vọng trong ngôi nhà bị khóa kín. Nhìn lên trần, có thể thấy ánh sáng đã le lói trên mười hai ô cửa sổ nhỏ xếp thành hình mặt số đồng hồ.
“Giờ chúng ta làm gì đây, Uryu?” Kawarazaki giơ tay vươn vai.
“Giờ chúng ta làm gì nhỉ?” Uryu uể oải ngả mình ra lưng tựa ghế, thở dài lặp lại câu hỏi.
Kawarazaki gãi cằm. “Nên đảo một vòng nữa quanh nhà xem sao. Nếu Komyoji không phải là hung thủ thì chắc sẽ có ai đó khác đang giấu mặt nạ và quần áo dính máu. Tìm ra tang vật trong phòng ai thì hung thủ tức là người ấy.”
“Ai lại để mấy món đồ dễ bị phát hiện ở ngay bên cạnh mình chứ? Nếu là hung thủ, tớ sẽ đem giấu chỗ khác. Huống hồ có sẵn chìa khóa trong tay, thì mở cửa ném ra ngoài cho an toàn.”
“Ờ…”
“Vì thế, chúng ta nên dán băng dính hay giấy lên cửa ra vào thì hơn.”
“Hả? Để làm gì cơ?”
“Để nắm được ít nhiều động tĩnh của hung thủ. Bởi vì lấy chìa mở cửa sẽ làm băng dính bị bong hoặc bị rách.”
Đột nhiên, Kozue lên tiếng, “Em đi ngủ đây.” Cô bé buông hai tay đang ôm đầu ra, nhìn từ Uryu sang Kawarazaki, giọng nghèn nghẹn. “Em buồn ngủ lắm. Mà người ngợm không hiểu sao cũng rã rời hết cả.”
“Thế thì đi ngủ đi.” Uryu rộng rãi nói.
“Nhưng…” Kozue lắc đầu bướng bỉnh như trẻ con làm nũng.
“Em sợ à?”
Kozue gật đầu, ánh mắt nhớn nhác. Giọng Uryu dịu hẳn đi.
“Cửa phòng Kozue có chốt cài trong, đúng không? Em cài lại, như thế không ai vào được nữa, nếu có người đến ép em mở cửa, em hãy hét lên kêu cứu.”
“Nhưng…”
“Không sao đâu. Với lại, mấu chốt là, nếu hung thủ muốn giết em thì hắn đã ra tay từ sớm rồi. Hạ sát Sakiko và Watanabe xong thì tiện tay làm thịt em luôn ấy. Đằng này hắn lại còn đánh thức em, để em nhìn thấy tạo hình, nhưng không hề tấn công… Đủ thấy hung thủ không định làm hại em đâu.”
Nghe đến đây, khuôn mặt tái nhợt của Kozue trông bớt phần lo lắng, cô thu hết quyết tâm, thì thầm “Vậy, em…” và chậm chạp đứng dậy, lắc lư lê bước ra khỏi đại sảnh.
Một lát sau, có tiếng chốt cửa lách cách vọng lại.
Theo đề xuất của Uryu, mọi người tìm được một ít băng dính trong kho, dán ba điểm trên hai cánh cửa tiền sảnh. Dán xong, bốn người quay về đại sảnh, ngồi xuống quanh bàn tròn.
Thời gian dần trôi giữa bầu không khí u uất tù đọng. Không ai nói được lời nào giúp cải thiện tình hình, chỉ có tiếng thở khe khẽ dâng đầy trong tịch mịch.
Tất cả đều hiểu rõ, miễn là họ còn tụ tập với nhau ở cùng một nơi thì sự việc sẽ không phát triển theo hướng tồi tệ hơn nữa. Nhưng cứ ngồi suông, tám mắt nhìn nhau thì thời gian trôi rất chậm. Giết thời gian kiểu vô vị như thế chỉ tổ tích tụ thêm bất an và khổ sở trong lòng mỗi người. Vì thế chẳng được mấy chốc, cục diện tù túng ấy bị phá vỡ.
8 giờ sáng. Uryu liếc đồng hồ dưới mặt kính, rồi từ tốn rời khỏi bàn.
“Cậu đi vệ sinh à?” Kawarazaki hỏi.
Uryu khẽ lắc đầu.
“Tớ muốn thử đi xem chỗ này một chút.”
“Đi đâu cơ?”
“Phòng quả lắc. Có điểm khiến tớ chú ý.”
“Cậu đi một mình có ổn không đó?”
“Thế đi cùng tớ đi?”
“Lỡ cậu chính là hung thủ thì tớ sa bẫy hả?”
“Như nhau cả thôi, lỡ cậu là hung thủ thì sao?”
“Anh cũng đi.” Kawaminami nói rồi đứng dậy. Một là vì tò mò về điều khiến Uryu chú ý, hai là họ đi rồi thì chỉ còn mình cậu với Kobayakawa. Dù đây là cấp trên trực tiếp, nhưng hiện giờ các bằng chứng cho thấy kẻ khả nghi nhất chính là anh ta. Cậu không muốn ở riêng với người này.
“Anh có đi cùng tụi em không, anh Kobayakawa?” Uryu rủ.
Kobayakawa uể oải ngước lên, rồi lại cúi mặt xuống, đáp qua loa, “Tôi ở đây thôi. Các cậu đi đâu tùy ý.”
“Thế hả?” Một tay chống hông, Uryu chăm chú quan sát bộ dạng Kobayakawa rồi nhắc, “Nếu có chuyện gì anh cứ hét to vào. Rõ chứ?”
Tình trạng phòng quả lắc vẫn y như hôm qua, lúc Kawaminami và Kobayakawa vào xem xét. Sàn buồng tiếp khách vương vãi đồng hồ hỏng, thảm buồng ngủ còn các vệt bẩn đỏ đen như vết máu.
Uryu cẩn thận xem xét các vệt bẩn này xong, lại chuyển hướng đến chiếc giường. Cậu vô thức đưa đẩy chiếc xe lăn của cô gái quá cố một lúc, như thể đang chìm trong suy nghĩ. Một lát sau, cậu hỏi Kawaminami đang đứng chờ ở cửa, “Bên kia là buồng thay trang phục, đúng không ạ?”
Cậu trỏ về phía hai cánh cửa đang mở ở phía xa buồng ngủ, đợi Kawaminami xác nhận rồi tiến đến gần với vẻ căng thẳng chưa từng thấy. Kawaminami và Kawarazaki liền đi theo. Chiếc váy cưới nhuộm máu hiện ra trước mắt ba người bọn họ.
“Cô ấy đã mơ ước rằng sẽ được mặc bộ váy này trong sinh nhật lần thứ 16 của mình nhỉ?” Uryu lùi về sau một bước, ngắm nghía và thở một hơi dài.
Thấy vẻ mặt cậu sắt lại, Kawarazaki hỏi, “Điểm khiến cậu chú ý đây hả?”
“Coi như thế…”
“Nói mới nhớ, bắt đầu từ hôm qua trông cậu đã có vẻ trầm uất tư lự rồi, rốt cuộc cậu đang nghĩ gì?”
“Tớ đang cố gắng nhớ lại vài chuyện ngày xưa.”
“Ngày xưa… Mười năm trước ấy hả?”
“Ờ.”
“Hồi đó có xảy ra chuyện gì to tát đâu. Chúng ta gặp một cô gái trong rừng, đưa cô ấy về nhà. Thế thôi mà.”
“Thế thôi á?” Uryu đăm chiêu nheo mắt. “Thực sự chỉ có thế thôi phải không?”
“Cậu hỏi tớ cũng vô ích. Tớ không còn nhớ gì nữa rồi.”
“Trong buổi gọi hồn Komyoji đã nhắc đến ‘hố đen’, rồi luôn miệng kêu ‘đau’. Vấn đề có lẽ nằm ở đấy.”
“Hố đen à… Tớ không hiểu là chỉ cái gì cả.”
Uryu im lặng, mặt tối sầm, khoanh tay đứng bất động. Kawarazaki buồn chán dựa vào tường.
“Anh Kobayakawa nói là Towa chết do tự sát mà.”
Một lát sau Uryu mới lên tiếng, cần cổ trắng nõn rịn mồ hôi. “Cô ấy đã mặc chiếc váy cưới này, rồi tự đâm vào ngực mình, phải không?” Đang nói, cậu bỗng cau mày, Ồ một tiếng.
“Sao?” Kawarazaki hỏi.
Uryu tiến lên một bước, vươn tay phải về phía chiếc váy, khi đầu ngón tay chạm vào vết ố đen tím trên ngực thì soạt, có tiếng vật gì đó rơi xuống sàn.
“Gì vậy?”
Thứ vừa rơi xuống là một mảnh giấy trắng lớn gấp đôi danh thiếp, hình như được kẹp vào vết rách trên váy cưới. Uryu nhặt mảnh giấy lên xem, bất giác buột miệng kêu lên thảng thốt. Kawarazaki và Kawaminami vội ghé lại, nhìn vào mảnh giấy và cùng biến sắc.
Trên giấy, có dòng chữ viết bằng mực đỏ: CHÍNH CHÚNG MÀY GIẾT.
“Hình như nó mới được viết ra gần đây thôi.” Bước ra khỏi buồng trang phục, Uryu vừa đưa tay áo linh y lau mồ hôi trên trán, vừa thảo luận với Kawaminami. “Giấy chưa ngả vàng, màu mực còn mới. Ít nhất chưa đến con số vài năm tuổi đâu.”
“Quả có thế…”
“Hôm qua lúc anh và anh Kobayakawa đến đây thì tình hình thế nào? Nó được kẹp ở lỗ rách trước ngực.”
“Không, lúc đó không có thứ này.”
Chắc là không… Kawaminami nghĩ. Nếu có, cậu hoặc Kobayakawa đã phát hiện ra rồi.
Dòng chữ xiên xẹo như thể cố ý viết tháu để che giấu nét bút thật. Cho dù giấy được kẹp vào váy lúc nào thì nó cũng có ý nghĩa nhất định. Ví như, lời khiêu khích của hung thủ.
“Chúng mày…?” Kawarazaki giật lấy mảnh giấy từ tay Uryu, soi ra ánh sáng cam của ngọn đèn tường. “Vấn đề là, ‘chúng mày’ ở đây bao gồm những ai?”
“Và ‘chúng mày’ đã ‘giết’ ai? Đây cũng là vấn đề.” Uryu nói, “Giấy được kẹp vào váy cưới, hiển nhiên có ý nghĩa của nó.”
“Hừ, người bị ‘giết’ này phải chăng chính là chủ nhân chiếc váy, cô Towa? ‘Chính chúng mày giết’ có nghĩa là cô ấy bị giết chứ không phải tự sát à?”
“Phải… Phải.” Uryu vừa lẩm bẩm vừa buồn bã đưa mắt nhìn quanh buồng ngủ, nơi có một người con gái tự tay cắt đứt sinh mệnh của mình mười năm về trước.
“Nói vậy là, vẫn phải truy ngược về tình hình mùa hè năm xưa… A!”
Uryu chợt kêu lên, như thể cuối cùng đã nhớ ra được chuyện gì. Kawaminami nhìn cậu.
“Sao thế?”
“Ơ… A, có chút chuyện…” Uryu lắp bắp, nhìn lảng đi.
Kawaminami nào giờ chưa thấy cậu hoang mang đến vậy.
Ba người rời buồng ngủ, sang ngồi một lát bên buồng tiếp khách. Họ nán lại đây chẳng vì lý do gì đặc biệt, mà chủ yếu vì Uryu kiệt sức cứ ngồi lì mãi bên bàn viết.
“Uryu, cậu sao vậy?”
Kawarazaki hỏi, nhưng Uryu không trả lời, chỉ chống hai khuỷu tay trên bàn, ra sức bóp trán. Kawarazaki bĩu môi ngó vẻ ủ dột của cậu bạn, cụt hứng nhún vai, ngồi xuống chiếc đôn bên cạnh, chân nọ gác lên chân kia.
Kawaminami đứng trước dàn âm thanh kê sát tường. Bộ dàn lập thể kiểu cũ, dĩ nhiên không có khay CD, thậm chí không có cả bộ chỉnh âm hay hộc băng từ. Cậu liếc giá đĩa, đột nhiên muốn biết cô gái từng ở phòng này nghe loại nhạc nào. Trông qua phần lớn là nhạc cổ điển, giao hưởng dành cho dương cầm là nhiều nhất, chủ yếu là tác phẩm của Chopin, Mozart, Beethoven, Ravel, Rachmaninoff… sắp xếp vô cùng ngăn nắp.
Trong ngôi nhà u ám không có cả ti-vi lẫn radio, khắp nơi chỉ thấy đồng hồ, người con gái ngồi xe lăn vừa thưởng thức những giai điệu tuyệt đẹp của các thiên tài âm nhạc, vừa mơ mộng về cảnh mặc áo cưới vào năm 16 tuổi… Kawaminami thầm mường tượng hình ảnh ấy, lòng không khỏi đau buồn và ớn lạnh.
Cậu rút một đĩa hát trên giá.
Tinh tuyển tác phẩm của Ravel, nhưng bìa đĩa có vẻ là tự chế. Trên nền giấy dày màu hồng nhạt là những dòng chữ viết tay nắn nót ghi lại tên album và danh sách các bài hát. Dò theo danh sách, bài thứ năm là Vũ khúc pavane cho nàng công chúa đã qua đời*, tác phẩm tiêu biểu cho giai đoạn đầu sự nghiệp của Ravel. Kawaminami không định nghe ở đây, nhưng như bị một cơn thôi thúc vô hình, cậu rút đĩa khỏi vỏ.
Pavanepour une infante defimte. Tác phẩm soạn cho piano của nhà soạn nhạc người Pháp Maurice Ravel. Nội dung gợi nhớ một tập tục của triều đình Tây Ban Nha, đó là dùng vũ khúc nghi lễ trang trọng trong thời gian tang chế của hoàng gia.
“Ố!” Cậu bất thần kêu lên.
Kawarazaki bật dậy khỏi đôn, tiến lại gần, “Sao vậy anh?”
“Xem này… Hơi lạ.”
“Đâu đâu… À…”
Nhãn dán chính giữa hai mặt A, B hiển nhiên đã bị thay bằng nhãn tự làm, sau khi bóc nhãn cũ đi. Trên nhãn tự làm có hoa văn trang trí công phu, và tên nhạc phẩm viết rất ngay ngắn.
“Bìa đĩa này là đồ tự chế nhỉ. Không hiểu sao cô ấy phải tốn công như vậy nữa.”
Có lẽ đây là sở thích cá nhân của cô Towa? Hay của ông Michinori cha cô ấy chăng?
Kawaminami đưa đĩa hát cho Kawarazaki, rồi xem xét bên trong bìa đĩa. Cậu đoán là có tracklist đính kèm, nhưng không tìm thấy thứ gì như thế cả. Hơi băn khoăn, cậu lại lấy thêm vài đĩa hát khác xuống kiểm tra. Thì ra đĩa nào cũng tra vào bìa đĩa tự làm, đã thay nhãn dán, và ném bỏ tracklist. Tuy không thể kiểm tra toàn bộ, nhưng có vẻ các đĩa hát ở đây đêu được xử lý như vậy.
“Thật kì lạ.”
Kawaminami lẩm bẩm, đặt trả các đĩa hát về chỗ cũ. Nhưng Kawarazaki lại chẳng có vẻ gì là để tâm.
“Đầy người mua sách về gỡ bìa đi rồi bọc bìa đặc chế vào kìa. Như nhau cả thôi.”
Dứt lời, Kawarazaki tiến về phía Uryu vẫn đang ngồi chống má bên bàn viết.
“Cậu có sao không? Vẫn ổn đấy chứ?”
Uryu không quay đầu lại, chỉ hờ hững Ừ một tiếng, mắt cứ nhìn trân trối vào khoảng không. Nhưng một lát sau, cậu đột nhiên đưa mắt về cái hộp nhỏ trông như hộp đựng trang sức đặt ở góc bàn, vươn tay cầm nó lên. Hộp rất đẹp, một món đồ thủ công mỹ nghệ khảm bạc tinh xảo trên nền nhung đỏ thẫm. Khi mở nắp hộp, bên trong lập tức vọng ra tiếng nhạc vui tươi. Giai điệu du dương này chính là…
“Hành khúc hôn lễ của Wagner.” Kawarazaki nhún vai một cách cường điệu. “Đúng là kiểu mơ mộng của các cô gái. Sở thích thật nhàm chán. Trong hộp có gì à?”
“À, ừ.” Uryu gật đầu, lấy trong hộp ra một chiếc kẹp tóc bằng bạc tuyệt đẹp phỏng hình chim tung cánh bay, một chiếc ghim cài áo bằng bạc đồng bộ với kẹp, và một tấm ảnh.
“Nhìn này.” Uryu trỏ vào người trong tấm ảnh, “Chính là cô gái đó…”
Trong ảnh là một cô gái xinh đẹp mặc bộ váy liền trắng muốt ngồi trên xe lăn, môi mỉm cười hiu hắt. Hậu cảnh là đồng hồ xếp đầy trên kệ. Xem ra là ảnh chụp ở đại sảnh Cựu quán.
Đứng cạnh cô là một cậu bé mặc áo sơ-mi cộc tay màu hồ thủy và quần soóc, hai tay chống hông, môi mím chặt, khuôn mặt bướng bỉnh. Giống một chàng hiệp sĩ nhỏ tuổi đi theo hộ giá công chúa vậy.
“Đây có phải cô gái chúng ta gặp trong rừng mười năm trước không?” Uryu quan sát phản ứng của Kawarazaki.
“Hừm, chắc thế. Nếu nói vậy thì cậu bé bên cạnh chính là thiếu niên tên Yukiya á hả?”
“Chắc rồi. Mặt sau ảnh viết gì thế?”
“Mùng 5 tháng Tám năm 1978. Sinh nhật 14 tuổi. Với Yukiya.”
“Chiếc kẹp tóc và ghim cài này chắc là quà sinh nhật.”
“Có lẽ.”
Tháng Tám năm 1978, mười một năm trước. Towa chết vào mùa hè năm 1979, tức là chưa đến một năm sau khi chụp tấm ảnh này. Cô tự sát trước sinh nhật lần thứ 15.
“Mùng 5 tháng Tám à…” Đặt tấm ảnh trở vào hộp nhạc, Uryu lẩm bẩm. “Rốt cuộc, chuyện đó xảy ra vào ngày nào nhỉ?”
“Có lẽ, căn nguyên mọi chuyện đều là do tớ.”
Uryu nói, sau khi ba người quay lại đại sảnh được một lúc. Kim đồng hồ chỉ gần 9 rưỡi. Bầu trời bên ngoài mười hai ô cửa sổ trần đã sáng hẳn. Không hiểu mưa rơi từ lúc nào, nghe cứ rào rào tầm tã không ngớt.
Kobayakawa không còn trong đại sảnh. Lúc ba người quay lại thì gặp anh đi trở ra, nói muốn về phòng. Xem chừng trước đó anh đã uống rượu pha nước một mình, trên bàn chỉ còn lại bình nước nóng, ly rượu đựng chút đá, vỏ chai whiskey đã rỗng không.
“Cái gì? Lại gì nữa đây?” Kawarazaki bảo đói, đang định đi pha mì thì nghe thế, liền kêu lên. “Tớ không biết cậu làm sao, nhưng từ nãy đến giờ cậu bắt đầu úp mở đấy. Có chuyện nói thẳng, nói mau. Thật chẳng giống cậu chút nào.”
“Tớ nói, có lẽ tất cả đều là do sai lầm của tớ.” Uryu bải hoải gục đầu nhìn xuống mặt bàn, thở dài não nề.
Kawarazaki chun mũi, “Là sao? Giải thích rõ ràng xem nào.”
“Chuyện đó…”
“Chẳng lẽ cậu đang cố gắng thú nhận cậu chính là hung thủ?”
“Không phải. Không liên quan đến các án mạng ở đây.” Uryu vẫn cúi gằm mặt, chậm chạp lắc đầu. “Hố đen ấy. Mùa hè mười năm trước, chính tớ… chính chúng ta đã đào cái hố trong rừng. Chúng ta đào bẫy, để nghịch.”
“Hố bẫy? Sao mà… tớ chẳng nhớ gì cả…”
“Cậu không nhớ cũng phải thôi. Bởi vì, đó là…”
Đúng lúc này, đột nhiên có tiếng rầm rầm như sụp đất vọng xuống, làm rung chuyển cả các ô kính cửa sổ.
Ùng!
Ba người bất giác ngước mắt nhìn trần.
“Bên ngoài có bão à?”
Kawarazaki khịt mũi, mở nắp ly mì đã rót nước sôi. Cậu liếc Uryu đang ngậm câm, cũng không định truy hỏi, cứ cau mày xì xụp ăn mì. Có lẽ đã hiểu bây giờ sốt ruột cũng vô ích, nên cậu không vội vàng nữa.
“Tớ buồn ngủ rồi.” Ăn xong mì, Kawarazaki lau mồ hôi rịn ra trên mặt, đứng dậy khỏi ghế. “Giờ cậu định làm gì hả Uryu? Định thức suốt như vậy à?”
“Chắc là không.”
“Nếu nghi ngờ tất cả mọi người thì cứ tự nhốt mình trong phòng giống như ông anh chụp ảnh kia đi, đấy mới là lựa chọn chính xác.” Kawarazaki ngáp sái quai hàm. “Dù thế nào thì, cứ ngủ trước đã.”
“Ngủ trước đã? Trong phòng số á hả?”
“Ừ.”
“Tại sao? Ở đây không an toàn hơn à?”
“Ngủ chung phòng với một xác chết? Xin tha cho tớ!”
“Nhưng…”
Phớt lờ Uryu, Kawarazaki ngáp một cái nữa, chuệnh choạng rời khỏi bàn. “Ngồi dựa vào cửa mà ngủ là được. Không sao đâu, nếu không tớ sẽ tìm cái gì đấy chặn cửa lại.”
Utsuumi Atsushi say bí tỉ rồi.
Do bệnh đa nghi phát tác, anh đã tự nhốt mình trong phòng (căn phòng đánh số IX) được bao lâu rồi nhỉ?
Khi phát hiện ra cửa không có chốt trong, anh đã dịch kệ bày đồng hồ ra chặn, tạo nên một thành lũy kiên cố. Như thế, không ai có thế lẻn vào được, nếu có người cả gan đập lớp kính gắn cửa để xông vào, thì lúc đó gào lên kêu cứu cũng vẫn kịp. Miễn là những người khác đừng thông đồng với nhau để đối phó mình, thì ít nhiều mình cũng vẫn an toàn…
Sẽ ổn thôi, phương án ấy là ổn… Utsuumi lặp đi lặp lại để tự trấn an.
Thế nhưng vẫn không xua đuổi nổi nỗi sợ hãi, nỗi sợ khi phải ở chung dưới một mái nhà với kẻ đã gây ra những hành vi tàn ác đến thế, và nỗi sợ một đối tượng liên tục khơi dậy bất an vẫn lởn vởn trong nhà này. Tuy rằng anh biết, các diễn biến của buổi gọi hồn hôm kia chỉ là lừa gạt, nhưng nỗi sợ thâm căn cố đế trước những đối tượng siêu nhiên vẫn cứ giày vò anh. Để chạy trốn tất cả những điều đó, anh đã uống sạch nửa chai whiskey còn lại.
Có lẽ là tại trạng thái tinh thần không được bình thường, thứ rượu anh vẫn quen uống tự dưng cũng có mùi vị khác mọi khi. Không phải là ngon hay không ngon, mà nói sao ta, cảm giác như đang rót vào dạ dày một thứ chất lỏng không phải rượu. Dù cảm giác không phải rượu, anh lại say mèm một cách khác thường.
Không phải cơn say khiến người ta lâng lâng, mà là cơn say khiến người ta gặp ác mộng.
Xác cậu sinh viên nằm trên sàn đại sảnh, máu thịt văng tung tóe… các hình ảnh ấy cứ nhảy nhót lung lay, thoắt ẩn thoắt hiện trước mắt anh. Khiến anh gào rống, đưa tay bưng mắt, nằm sấp xuống sàn.
Khi đầu óc đã tỉnh táo hơn đôi chút, Utsuumi cảm giác có một âm thanh vụn vỡ liên hồi làm rung chuyển cả bầu không khí trong phòng. Nghe khác hẳn âm thanh của những bánh răng đồng hồ vô tri đo đếm thời gian kia.
Thoạt tiên Utsuumi cho rằng đó là tiếng sóng. Anh lớn lên ở một thành phố bên bờ biển Nhật Bản, từ nhỏ đã quen thiếp đi trong tiếng sóng vỗ bờ ở ngôi nhà gần mép sóng. Âm thanh xiết bao hoài niệm, khiến cõi lòng thanh bình…
Sóng à…?
Không, không đúng.
Chắc chắn là ảo giác. Nơi này không ở gần biển, mà là trên núi ở Kamakura.
Là mưa. Tiếng mưa. Bên ngoài đang mưa, hơn nữa còn mưa rất dữ dội. Mưa từ lúc nào nhỉ? Utsuumi không có ấn tượng gì cả. Ban nãy sao? Hay sớm hơn nữa? Nếu bắt cái đầu đã mụ mẫm vì hơi men này suy nghĩ, thì có thể cho rằng mưa đã rơi ngay từ lúc họ đặt chân vào Cựu quán.
Utsuumi nằm ngửa ra sàn. Tay chân anh tê dại, ý thức cũng mơ hồ. Vì không sao tĩnh tâm được, anh cứ lăn qua lăn lại. Thi thoảng có tiếng sấm ì ầm, kéo dòng suy tưởng của anh trở về một buổi đêm hồi còn nhỏ đi sang thị trấn bên cạnh xem pháo hoa, hoặc âm thanh nhộn nhạo rõ to khi người ta độc tấu guitar ở buổi nhạc rock anh đi xem mấy hôm trước.
Đúng lúc ấy…
Tiếng chuông đồng hồ không biết đã điểm được mấy tiếng, kéo một phần ý thức Utsuumi về với hiện thực. Anh bực bội nhìn đám đồng hồ bày trên kệ. Phòng IX là bộ sưu tập đồng hồ Nhật chế tác thời Meiji, nhưng không còn chiếc nào gõ chuông được cả. Chiếc duy nhất hoạt động đang treo cạnh cửa ra vào, hiện chỉ đúng 12 giờ trưa.
Utsuumi từ từ ngồi dậy.
Anh ngồi dựa lưng vào tường, đưa tay với lấy cái chai đang nằm lăn lóc trên sàn. Cái chai rỗng không. Anh ném nó ra xa một cách cục cằn rồi vớ lấy can nước, mở nắp và uống ừng ực. Đầu óc tỉnh táo hơn một chút.
Vẫn còn hơn một ngày nữa sao…
Anh bỗng dưng muốn khóc. Cứ nghĩ còn phải ở đây đến tận 6 giờ chiều mùng 2 tháng Tám, anh cảm thấy thà cứ để ma ám mình đi còn hơn. Utsuumi vừa tự đập gáy vào tường vừa nhặt chiếc máy ảnh ống kính rời nằm cạnh mình lên.
Sức nặng của món đồ vẫn dùng quen khiến Utsuumi an lòng hơn một chút. Anh nhìn qua ống ngắm, hướng về chướng ngại vật ở cửa và bấm chụp, flash lóe lên cùng lúc sấm nổ vang dội. Chụp xong tấm này thì cũng vừa hết cuộn phim. Utsuumi đặt chiếc máy ảnh đang tự động thu phim trở về lên đầu gối, vớ lấy cái bao da màu đen mềm mại, chuẩn bị thay cuộn phim mới.
Đột nhiên Utsuumi nhận ra một điểm rất kì quái.
Gì vậy? Sao lại…?
Chuyện này là thế nào? Utsuumi không sao hiểu nổi.
Thoạt tiên anh tưởng là do mình say. Anh chớp mắt thật mạnh và chăm chú nhìn lại lần nữa. Không phải nhìn nhầm mà. Quả nhiên là…
Rắc rắc rắc… Bỗng đâu có âm thanh yếu ớt vọng lại. Không phải tiếng đồng hồ. Cũng không phải tiếng mưa bên ngoài. Mà là một âm thanh khác lặng lẽ len vào giữa tiếng mưa và tiếng đồng hồ. Utsuumi nhẹ nhàng đặt máy ảnh xuống, nhìn quanh phòng. Hiển nhiên ngoài anh, ở đây không còn ai nữa. Chướng ngại vật chặn cửa cũng không hề suy suyển, đồng hồ trên kệ vẫn đứng yên. Bốn bức tường cũng… À không!
Utsuumi hít mạnh một hơi.
Bên phải của bức tường đối diện, tức bức tường chung với phòng VIII của Kawaminami có khảm một cái đồng hồ ghép bằng gạch mosaic. Những cây kim gắn trên mặt số vốn dĩ không hề chuyển động giờ lại chậm rãi xoay. Utsuumi hoang mang dụi mắt, chăm chú nhìn lại lần nữa. Không phải ảo giác. Kim đang đều đều quay.
“Gì vậy? Này, nà… y!”
Utsuumi sởn gai ốc, bật kêu lên yếu ớt. Cơn say làm lưỡi anh líu lại.
“Tại sao, tự nhiên…”
Được một lát, kim đồng hồ dừng lại ở số V, cách một tiếng. Và rồi…
Utsuumi há hốc miệng, toàn thân cứng đờ.
Những vết nứt thẳng bắt đầu xuất hiện gần đồng hồ. Tiếp đó, một hình chữ nhật chiều ngang hơn một mét, chiều cao chưa đầy hai mét trồi ra khỏi mặt tường gạch mosaic, bắt đầu mở về phía Utsuumi.
“A… a…”
Utsuumi cố đứng lên, nhưng hai chân tê liệt. Anh ép lưng vào tường, hai cánh tay dang rộng, cố gắng nâng hông lên. Trong lúc ấy, hình chữ nhật đã mở ra như cánh cửa, và ở đó xuất hiện một bóng người vận linh y đen, đầu trùm mũ, đeo mặt nạ trắng bệch với đôi mắt hình trăng lưỡi liềm, miệng ngoác đến tận mang tai… đúng như Kozue đã tả.
Chính hắn.
Utsuumi dán sát mình vào tường, nỗi sợ hãi làm thân thể anh đông cứng.
Chính hắn là kẻ đã giết hai người kia.
Trong bàn tay phải đeo găng trắng của kẻ giết người mang mặt nạ là một vật hình vuông lóe lên ánh kim loại. Một chiếc đồng hồ. Một chiếc đồng hồ để bàn hình chữ nhật có tay cầm. Ngắm đúng vị trí của Utsuumi rồi, hắn liền cầm đồng hồ bằng cả hai tay, vung cao lên và lừ lừ tiến đến chỗ anh.
Utsuumi muốn chạy trốn, nhưng đầu gối đã mềm nhũn.
Anh đá bay chiếc máy ảnh, ngã sấp xuống, cằm đập mạnh vào sàn. Sợ phát run trước tên giết người đang lừ lừ áp sát, anh quẫy đạp tay chân, cố sức gào lên, “Cứu…”
Hung khí bổ xuống, đúng vào đầu Utsuumi đang gào, “Cứu tôi với…”
Trúng đích!
Tiếng gào đứt phựt, biến thành tiếng rên rỉ mơ hồ. Máu tươi bắn tung tóe trên sàn, lẫn trong đó là những mảnh vỡ đồng hồ… Kẻ giết người nhìn xuống anh phóng viên ảnh đang co giật trong cơn hấp hối, đôi mắt phía sau mặt nạ như đang cố đè nén cảm xúc.
12 giờ 28 phút.
Hắn liếc lên chiếc đồng hồ treo tường để xem giờ. Rồi bắt tay vào hành động tiếp theo.