CHƯƠNG 3
Những đám mây hơi nước từ ống khói xe lửa thổi cuộn lên qua những tấm ván lát cầu, làm nóng bỏng chân bọn con trai. Sherlock chạy một hướng, Matty chạy hướng khác, cả hai cười đùa và ướt đẫm mồ hôi. Chiếc xe lửa chạy một cách đường bệ bên dưới chúng để vào ga Farnham, chậm rãi khi đến ga, bọn chúng chạy về giữa chiếc cầu gỗ nối liền hai sân ga, xem chiếc xe lửa từ từ dừng lại trong tiếng loảng xoảng của các nối toa và tiếng rít chói tai khi người lái tàu cho làn hơi nước cuối cùng thoát ra.
Đó là buổi sáng ngày hôm sau. Sân ga vắng lặng trước khi xe lửa đến, nhưng chỉ trong tích tắc, sân ga thay đổi kỳ lạ với cả đống người vội vã chen chúc nhau ở cửa ra. Các quí ông trong những chiếc áo choàng dài màu đen và mũ chóp cao, trông giống như những con côn trùng nằm trong kén, xuất hiện từ toa hạng nhất chen vai với các ông bụng phệ mặc áo khoác vải tuýt, đội mũ dẹt và các bà trong những chiếc áo choàng trang nhã từ toa hạng hai, và những người làm công lực lưỡng, dày dạn sương gió trong những chiếc áo xơ xác và những chiếc quần đầy mảnh vá từ toa hạng ba. Những người đàn ông mặc đồng phục đang mở cái cửa trượt ở một toa và dỡ những thùng gỗ và bao mà Sherlock nghĩ là đựng thư từ. Các phu khuân vác xuất hiện từ một văn phòng nào đó mà những lúc khác chẳng ai thấy mặt họ và bắt đầu đưa các thùng và túi từ tàu lên xe đẩy. Chỉ sau vài phút sân ga gần như trống trơn, ngoại trừ một nhóm người còn sót lại đang nói chuyện với nhau về mọi sự kiện diễn ra trong tuần. Một người bảo vệ, tỏ vẻ quan trọng trong áo đồng phục và mũ màu xanh, đi tới, nghiêng ngó suốt đoàn tàu, đưa còi lên miệng và thổi một tiếng ngắn và sắc. Chiếc tàu dường như rùng mình và bắt đầu chạy ra khỏi ga, lúc đầu chầm chậm, sau đó nhanh dần. Các toa kêu loảng xoảng khi khớp nối toa bị kéo căng và các toa di chuyển sau đầu máy.
“Chuyến xe lửa này đi London hay từ London đến?” Sherlock hỏi.
Matty nhìn tới nhìn lui đường ray. “Đi London”, Cuối cùng nó trả lời. “Từ đây nó dẫn đến Tongham, Ash, Ash Wharf rồi đi tiếp đến Brookwood và Guildford. Từ đó cậu có thể đón tàu đi thẳng đến London”.
London. Sherlock nhìn theo đường ray đến nơi con tàu vừa quẹo ở khúc cua và ra khỏi tầm mắt. Ở cuối hành trình của chiếc tàu, cách một hay hai dặm là chỗ anh Mycroft. Anh chắc đang ngồi ở văn phòng đọc tài liệu, hay đang mải mê nghiên cứu tấm bản đồ thế giới, những chỗ màu đỏ là nơi đế chế Anh đang hiện diện. Trong một thoáng, niềm ước ao được chạy theo đoàn tàu và leo lên hầu như hoàn toàn xâm chiếm tâm trí nó. Nó nhớ anh, nhớ cha mẹ và em gái. Thậm chí nó nhớ cả Trường Nam sinh Deepdene, mặc dầu không nhiều bằng.
“Có gì ở Brookwood?” nó hỏi, cố tình đánh lạc hướng tâm trí sang chuyện khác.
Matty dường như rùng mình. “Đừng có hỏi”, nó nói.
“Không, thật mà”. Sherlock bây giờ mới bắt đầu quan tâm. “Nơi đó có gì đáng để tụi mình đi xem không?”
Matty lắc đầu. “Ở đó không có gì cậu muốn xem vào ban ngày đâu”, sau cùng nó trả lời, “và tin mình đi, cậu sẽ không muốn ở đó vào ban đêm đâu”.
“Mình nghĩ là chúng ta có thể tìm hai chiếc xe đạp”, Sherlock thúc ép. “Hãy đi và khám phá. Ngắm những khu làng và những thị trấn quanh đây”.
Matty nhìn nó, mặt nhăn lại. “Tại sao chúng ta phải làm vậy?”
“Do tò mò thì sao?” Sherlock trả lời. “Chẳng lẽ cậu chưa bao giờ tự hỏi mọi thứ trông thế nào trước khi cậu thấy chúng sao?”
“Thị trấn nào cũng giống nhau, làng nào cũng như làng nấy”, Matty khẳng định, “và mọi người đều y nhau. Cuộc đời là vậy. Nào, chúng ta đi thôi”.
Nó dẫn Sherlock đi dọc theo chiếc cầu, bước xuống những bậc thang bằng sắt đúc đến sân ga nơi các hành khách vừa xuống tàu trước đó. Từ đó chúng đi ra đường.
Một chiếc xe ngựa dừng lại bên đường, và có ba người đàn ông đang chất những kiện đá với lớp cách nhiệt bằng rơm lên xe. Đó là những kiện hàng vừa được dỡ từ xe lửa xuống.
Một trong số đó là một gã mặt chồn với hàm răng ố vàng.
Gã nhìn bọn nhỏ một cách cáu kỉnh khi chúng đi ngang qua.
“Thưa cậu Sherlock”, một giọng nói sắc lạnh cất lên phía sau chúng. “Tôi rất thất vọng khi thấy cậu giao du với một đứa bụi đời bẩn thỉu. Cậu làm mất thể diện anh cậu”.
Sherlock quay lại, mặt nó đỏ lên mặc dù chưa biết ai đang nói với mình, và trông thấy người quản gia, bà Eglantine đứng cách đó vài bước. Hai người đàn ông Sherlock nhận ra là người của Trang viên Holmes đang chất một loạt thùng tạp hóa lên chiếc xe được thắng vào một con ngựa lớn và có vẻ điềm tĩnh. Những cái thùng này hầu như chắc chắn được chuyển đến bằng xe lửa.
“Đứa bụi đời?” Sherlock nhìn quanh. Chỉ có mình Matty đang đứng đó nhìn bà Eglantine một cách thận trọng, có vẻ nó sẵn sàng bỏ chạy nếu mọi việc xấu đi. “Nếu bà nghĩ cậu ấy là đứa bụi đời thì bà cần phải đi ra ngoài nhiều hơn, bà Eglantine”, nó nói một cách bướng bỉnh, bực bội trước thái độ của bà ta.
Miệng bà ta mím chặt lại. “Ông chủ muốn gặp cậu khi cậu quay về”, bà ta nói khi hai người đàn ông đang chất thùng hàng cuối cùng lên xe. “Đừng để ông phải chờ”. Bà ta quay đi và leo lên một trong những chiếc ghế phía trước. “Bữa trưa sẽ được dọn ra dù cậu có mặt hay không”. Bà ta nói thêm khi một người đàn ông leo lên ghế trước với bà và người còn lại leo lên phía sau. “Bạn cậu không được mời”.
Con ngựa chạy nước kiệu, kéo theo chiếc xe phía sau. Bà Eglantine không xoay lại nhìn Sherlock mà nhìn chằm chằm về phía trước. Người đàn ông ngồi sau xe đưa tay chạm lưỡi trai của chiếc mũ dẹt, liếc nhìn cậu bé và gật đầu một cách cảm thông. Anh ta bị mất vài cái răng và có một vết đứt trên tai giống như bị cắt bằng dao hay rìu hay một thứ gì đó.
“Đó là ai vậy?” Matty đi lên bên cạnh Sherlock.
“Bà Eglantine. Quản gia nơi mình đang ở”. Nó ngừng lại một chút. “Bà ta không thích mình”.
“Mình đoán là bà ta cũng không thích bất kỳ ai đâu”. Matty trả lời.
“Tốt hơn là mình nên về”, Sherlock nói. “Sẽ mất khoảng nửa tiếng nếu mình đi nhanh, và bà ta nói nghiêm túc về chuyện bữa ăn. Mình sẽ chịu đói đến bữa ăn tối nếu mình bỏ lỡ bữa này”. Nó quay lại nhìn Matty. “Ngày mai mình sẽ gặp nhau chứ?”
Matty gật đầu. “Ở đây, khoảng mười giờ nhé”.
Sherlock mất gần bốn mươi phút để về trang viên, vừa kịp lúc tiếng cồng gọi ăn trưa. Nó phủi qua những vết bụi dơ nhất trên quần áo rồi vào phòng ăn. Khác với bình thường, Sherrinford Holmes đang ngồi ở đầu bàn ăn, đọc một quyển sách nhỏ. Thím Anna đang lăng xăng kiểm tra việc bếp núc và tự nói với chính mình. Bà Eglantine đứng sau chú Sherrinford. Bà ta không phản ứng khi Sherlock bước vào, nhưng cái cách bà ta cố tình không nhìn vào nó cho nó biết bà ta biết sự hiện diện của nó.
“Thưa chú Sherrinford, thưa thím Anna”. Sherlock nói một cách lịch sự khi nó ngồi xuống.
Chú Sherrinford gật gật đầu về phía nó nhưng mắt vẫn không rời quyển sách. Thím Anna kết hợp âm thanh giống như lời chào vào màn độc thoại không ngừng của bà.
Một người hầu bước vào với liễn súp và bắt đầu múc nó ra chén, dưới sự giám sát của bà Eglantine. Sherlock quan sát không mấy quan tâm cho đến khi Sherrinford đặt quyển sách xuống rồi nghiêng người về phía nó nói: “Cậu bé, sau buổi ăn trưa chú có khách, và chú rất biết ơn nếu con có thể có mặt. Anh của con nhắc chú hãy đảm bảo là con vẫn tiếp tục việc học trong thời gian nghỉ hè và cậu ấy cũng mong chú giúp con tránh xa những rắc rối. Để làm được những điều đó chú đã thuê một gia sư. Ông ta sẽ dạy con mỗi ngày ba tiếng trừ ngày Chủ nhật, vì ngày đó chú muốn con đi nhà thờ với các thành viên trong gia đình. Tên của ông ta là Amyus Crowe”. Chú khụt khịt mũi. “Ông Crowe là khách từ Thuộc địa tới đây, chú nghĩ thế, tuy vậy đã thể hiện mình là một người có học thức và nhận thức. Tiếng Latin và Hy Lạp của ông ta rất tốt. Chú mong con tôn trọng những hướng dẫn của ông ta”.
Sherlock có cảm giác mặt của nó như cháy lên vì cơn giận bất chợt. Khi mới đến Trang viên Holmes nó thấy ngày cứ dài ra, trống rỗng và khô khan, nó không biết làm gì để giết thời gian, nhưng việc gặp gỡ Matty Arnatt đã mở ra cho nó hàng loạt chuyện để làm. Bây giờ có vẻ như họ làm cho mọi việc đóng lại trước mắt nó lần nữa.
“Cám ơn chú Sherrinford”, nó lẩm bẩm. Cố làm ra vẻ vui thích, nhưng mặt nó không tuân theo ý nó. Bà Eglantine không nhìn mặt nó, nhếch mép cười.
Món bánh pa-tê với bánh nướng dày và nước sốt theo sau món súp và sau đó là món bánh pudding mùa hè. Sherlock ăn nhưng hầu như chẳng cảm thấy mùi vị gì. Suy nghĩ của nó vẫn quanh quẩn với việc những ngày nghỉ của nó sắp biến thành địa ngục, và nó không thể chờ đến ngày quay lại với sự ổn định và có thể dự đoán ở trường.
Sau bữa trưa, Sherlock xin phép rời bàn ăn.
“Đừng đi xa”, Sherrinford nhắc nhở. “Hãy nhớ đến vị khách của chú”.
Sherlock loanh quanh trong sảnh trong khi những thành viên trong gia đình đi theo những hướng khác nhau – chú Sherrinford đến thư viện còn thím Anna đi về phía nhà kính. Nó dành thời gian ngắm những bức tranh và cố đánh giá xem bức nào có tính nghiệp dư nhất. Một lúc sau, một người hầu đến. Cô cầm cái khay bằng bạc, trên có một lá thư.
“Thưa cậu Holmes”, cô ta lặng lẽ nói, “lá thư này gửi cho cậu sáng nay”.
Sherlock chụp lấy lá thư. “Cho tôi? Cám ơn!”
Cô ta mỉm cười và quay đi. Sherlock nhìn quanh, lường trước là bà Eglantine sẽ xuất hiện và giật lấy lá thư, nhưng chỉ có một mình nó trong sảnh. Lá thư quả thực ghi tên người nhận là “Cậu Sherlock Holmes, Trang viên Holmes, Farnham”. Dấu bưu điện từ phố Whitehall. Là Mycroft! Là Mycroft gửi! Nó háo hức luồn ngón tay xuống dưới dấu niêm phong và mở thư.
Có một tờ giấy bên trong. Địa chỉ phòng Mycroft ở London được in đầu trang, và bên dưới là những chữ viết tay trang nhã một cách kỳ lạ của Mycroft. Nó đọc:
Anh mong là em vẫn khỏe. Anh chắc là lúc này em đang cảm thấy bị bỏ rơi và cô đơn, cảm giác đó làm em tức giận. Anh hiểu cảm giác của em và ước gì anh có thể làm gì đó để giúp em.> Đúng vậy ! Sherlock nghĩ. Anh hãy đến đây và đón em tới sống với anh trong những ngày nghỉ ! Nó xua đi cái ý nghĩ đó nhanh như lúc nó đến. Mycroft cũng có những vấn đề của anh: công việc đầy áp lực, và thực tế đang đóng vai trò người đứng đầu gia đình trong khi cha vắng mặt, chăm sóc mẹ đang đau yếu, và người em gái với những vấn đề của cô. Không, Mycroft đã làm điều tốt nhất cho cả hai. Sherlock nghĩ đôi khi người ta chỉ có toàn những lựa chọn xấu, trong trường hợp đó người ta phải chọn điều ít xấu nhất. Có cảm giác đó là những vấn đề của riêng người lớn, và nó không thích cái hàm ý rằng cuộc sống của người lớn là như vậy. Bất cứ thư nào em gửi cho anh theo địa chỉ này sẽ tới tay anh sau một ngày, anh hứa là sẽ đáp ứng ngay lập tức bất cứ yêu cầu nào của em – ngoại trừ cái yêu cầu trước đây của em là muốn đến London sống với anh. À, lúc nào cũng chặn đầu em trước , Sherlock trầm ngâm. Anh nó luôn thể hiện một khả năng phi thường là đoán được trước những gì nó muốn nói. Nó đọc tiếp: Anh có đề nghị chú Sherrinford thuê một gia sư để dạy thêm cho em. Anh nghe tiếng một người tên là Amyus Crowe, và anh đã báo cho chú Sherrinford. Anh tin là em sẽ tin tưởng ông Crowe. Theo anh biết, ông ta cũng có con gái. Hy vọng qua cô bé em sẽ có những người bạn cùng trang lứa ở đó. Điều này cho thấy anh chẳng biết gì , Sherlock nghĩ. Em đã bắt đầu có bạn rồi . Cuối cùng, anh muốn em nhớ rằng tình trạng hiện nay hoàn toàn chỉ là tạm thời. Mọi thứ sẽ thay đổi, cuộc đời là thế. Hãy tìm những cơ hội cho mình trong tình trạng này. Như nhà thơ Ba Tư, Omar Khayyam đã viết: Tôi ngồi đây dưới tán lá cùng một ổ bánh mì, một bầu rượu, một cuốn thơ – và bạn, bên cạnh tôi hát ca trong hoang dã – và giờ đây hoang dã là thiên đường…” Đọc những từ này, Sherlock cố suy ra ý nghĩa của bài thơ. Nó khá quen thuộc với cuốn Rubaiyat của Omar Khayyam mà dịch giả Richard Burton đã tặng cho thư viện Trường Deepdene. Nội dung chung của các câu thơ dường như nói rằng bánh xe của số phận quay liên tục và không ai có thể ngừng nó lại được, mặc dù vậy con người vẫn có thể kiếm được những niềm vui dọc theo con đường đó. Khổ thơ mà Mycroft trích dẫn ngụ ý rằng Sherlock nên tìm kiếm “ổ bánh mì” của chính mình – một thứ đơn giản có thể giúp nó vượt qua những ngày này. Không biết Mycroft có ý gì đặc biệt hay đó chỉ đơn giản là lời khuyên chung chung? Sherlock muốn viết thư trả lời ngay để yêu cầu anh nó giải thích chi tiết hơn, nhưng nó cũng hiểu đủ về Mycroft để biết là một khi anh nói điều gì, hiếm khi anh giải thích tường tận ý của mình. Sherlock quay lại những dòng thư cuối. Anh biết em sẽ không để lá thư này đâu đó một cách bất cẩn, mà cất nó ở nơi an toàn. Anh thân yêu của em Mycroft> Một cảm giác ớn lạnh chạy dọc sống lưng Sherlock khi nó đọc những dòng cuối thư. Việc Mycroft trực tiếp nhắc nhở nó phải dè chừng bà Eglantine hoàn toàn khác với tính cách của anh ấy, và điều đó gợi nên một câu hỏi, tại sao anh ấy lại nói thẳng tuột như vậy? Có phải vì anh muốn Sherlock hiểu đúng ý kiến của anh về bà Eglantine? Đề nghị cuối của anh ấy – không, phải gọi là hướng dẫn cuối – không để lá thư hớ hênh là cách Mycroft ngầm bảo nó phải hủy lá thư đi. Điều này thì lại đúng tính cách của anh ấy. Nó nhét nhanh lá thư vào phong bì, nhưng có gì đó ở trong – vài tờ giấy. Sherlock kéo ra, và nhìn thấy một tờ giấy báo nhận tiền của bưu điện. Năm shilling! Nó đang ngại phải nói về tiền tiêu vặt với chú và dì, nhưng có vẻ như Mycroft sẽ cấp cho nó. Đọc thư xong Sherlock cảm thấy phân vân. Một mặt nó cảm thấy an tâm và hạnh phúc hơn vì Mycroft đã liên lạc và bây giờ nó biết Mycroft là người đã chọn Amyus Crowe, nhưng mặt khác bây giờ nó phải chủ động lo nghĩ về điều trước đây chỉ là nỗi lo ngại dai dẳng – bà Eglantine, và rõ ràng là bà ấy không ưa nó. “Một lá thư thú vị?” Giọng nói trầm ấm với cách phát âm mà Sherlock không xác định được của người vùng nào. Nó quay lại, gấp thư và bỏ vào túi. Đứng ở trước cửa là một người đàn ông cao ráo, ngực nở. Mái tóc bù xù ngỗ ngược trắng toát và làn da cổ nhăn nheo, nhưng tư thế của ông ta làm người ta phải đoán sai tuổi thật. Da ông ta nâu và săn chắc, trông như ông ta hay ở ngoài trời ở một nơi nào đó nhiều ánh nắng hơn London. Ông ta mặc một bộ đồ màu ghi với cách cắt và chất liệu trông rất lạ, trong tay ông ta là một cái mũ rộng vành. “Vâng, từ anh Mycroft của cháu”, Sherlock trả lời và không biết nên làm gì tiếp theo. Nó không biết nên gọi người hầu hay mời ông ta vào? “À, Mycroft Holmes”, người đàn ông nói. “Tôi hiểu, chúng tôi có quen nhau. Và vì tôi tin cậu không phải là ông Sherrinford Holmes, nên tôi đoán cậu chính là cậu Sherlock trẻ”. “Sherlock Scott Holmes, sẵn sàng phục vụ” Sherlock nói, người đứng thẳng. Nó nhìn quanh. “À mời ông vào, thưa ông…?” “Ông Amyus Crowe”, người đàn ông đáp lời. “Trước đây tôi ở Albuquerque, bang New Mexico, thuộc nước Mỹ. Và cậu thật tốt bụng”. Ông ta bước vào trong. “Nhưng lúc đầu hẳn cậu cũng có thể đã đoán ra tôi là ai. Tôi đến đây theo lời giới thiệu của anh trai cậu, và anh cậu không thể không nhắc đến điều đó trong thư, có phải không?” “Cháu sẽ tìm một người hầu, hay-” Trước khi nó dứt câu, bà Eglantine bước ra từ khoảng tối bên cạnh cầu thang chính. Không biết bà ta ở đó bao lâu rồi? Bà ta có thấy Sherlock đọc thư? “Ông Crowe phải không?”, bà hỏi. “Ông chủ đang chờ ông. Xin vui lòng đi theo hướng này”. Bà ta ra hiệu về phía cửa thư viện. Người Sherlock run lên dù cố nén. Bà ta không cách nào biết nội dung thư trừ phi mở ra đọc rồi niêm lại, nó cố không nghĩ là bà ta làm vậy, tuy vậy nó vẫn có cảm giác như bị bắt quả tang đang làm điều gì sai. Amyus Crowe tiến vào trong sảnh và treo mũ và chiếc gậy lên mắc áo. Ông ta bước đến gần Sherlock, đặt tay lên vai nó rồi nói: “Chúng ta sẽ nói chuyện sau”. Sherlock khá cao so với lứa tuổi, nhưng Amyus Crowe cao ngất ngưởng, làm nó có cảm giác như là mới mười tuổi. “Đi loanh quanh một chút đi, con trai”. Ông ta nhìn xung quanh sảnh. “Trong khi chờ đợi cháu hãy thử phát hiện xem có bao nhiêu bức tranh ở đây là tranh giả?” Bà Eglantine cứng người. “Không có bức tranh nào trong những bức này là giả cả!” Bà ta rít lên giận dữ. “Ông chủ sẽ không bao giờ cho phép điều đó!” ““Không có bức tranh nào trong những bức này” là một câu trả lời chấp nhận được”. Crowe nói và nháy mắt đầy ngụ ý với Sherlock khi đi ngang nó. Ông ta đưa danh thiếp cho bà Eglantine. “Tôi rất biết ơn nếu bà thông báo sự có mặt của tôi”. Bà Eglantine dẫn Amyus Crowe vào thư viện. Vài phút sau bà ta bước ra và bỏ đi chỗ khác mà không nhìn tới Sherlock. Nó dõi theo bà ta khi bà mất hút sau gầm cầu thang rồi tự hỏi không biết bà ta có đang dừng ở đó rồi quay người lại và theo dõi nó. Từ thư viện vẳng ra các giọng nói nhưng Sherlock không nghe lọt từ nào. Nó đi thơ thẩn dọc các bức tường ốp bằng gỗ sồi, lần lượt nhìn kỹ từng chi tiết của các bức tranh. Không bức nào dán tên tranh. Thưởng thức nghệ thuật không nằm trong chương trình học của Trường Deepdene, và nó nhận thấy những bức tranh phong cảnh thiên nhiên, biển cả và săn bắn không làm nó thích. Với nó tất cả đều giả, những cây cối hoàn hảo, biển cả hoang vu và những con ngựa có cẳng chân khẳng khiu. Albuquerque. Nước Mỹ. Những cái tên này nghe có vẻ lãng mạn. Sherlock biết rất ít về đất nước đó, ngoại trừ thông tin là người Anh đến đó định cư trên hai trăm năm trước, rồi khoảng một trăm năm sau họ đã nổi dậy chống lại sự cai trị của người Anh và họ độc lập và ngạo mạn. À, và ở đó đã xảy ra một cuộc nội chiến cách đây vài năm liên quan đến chế độ nô lệ. Nhưng nó thích Amyus Crowe ngay, và nếu như ông ta tiêu biểu cho những con người ở đó thì Sherlock muốn đến Mỹ một ngày nào đó. Có lẽ khoảng nửa tiếng sau, cửa thư viện mở và Amyus Crowe bước ra. Ông mỉm cười và bắt tay Sherrinford Holmes. Phía sau họ, những hàng sách bọc da màu xanh lá cây lờ mờ như phong cảnh một đồng cỏ. “À, Sherlock”, Sherrinford nói. “Ông Crowe, cho phép tôi giới thiệu cháu tôi, Sherlock”. “Chúng tôi vừa gặp nhau lúc nãy”, ông Crowe nói, gật đầu với Sherlock. “Tốt quá. Cảm ơn ông đã đến đây. Tôi sẽ cho một người hầu tiễn ông”. “Không cần đâu, thưa ông Holmes – Tôi sẽ tản bộ qua khuôn viên cùng cậu Holmes, nếu ông cho phép”. “Tất nhiên, tất nhiên là được”. Sherrinford rút về phòng đọc như một con rùa thụt đầu vào mai của nó, và Crowe rảo bước về phía Sherlock đang đứng. “Sao? Bức tranh nào? Nếu có”. Ông ta hỏi nó. Sherlock dán mắt vào những bức tranh. Mặc dù đã quan sát kỹ nó vẫn không chắc lắm. Nó ngập ngừng chỉ vào bức tranh đặc biệt vụng về vẽ một người đang cưỡi một con ngựa với những cái chân khòng khoèo như sắp gãy dưới sức nặng. Nó đánh bạo nhận xét, “Đó không phải là bức tranh đẹp lắm. Phối cảnh thì méo mó và hình họa thì sai về giải phẫu. Có phải là tranh giả không?” Crowe ngắm bức tranh rồi nói, “Vấn đề của tranh giả là ở chỗ những kẻ ít tài năng hơn bị phát hiện khá nhanh. Những bức tranh giả thường thuyết phục hơn tranh thật. Cậu đúng ở chỗ bức tranh này được vẽ một cách vụng về, nhưng nó là tranh thật”. Ông ta di chuyển đến một bức tranh vẽ phong cảnh bờ biển khá ấn tượng, những con sóng đang đập vào bờ trong khi một chiếc tàu đang tròng trành ở hậu cảnh. “Đây là bức tranh giả”. Sherlock nhìn bức tranh hỏi, “Làm sao ông biết?” “Phần nhiều những bức tranh của chú cậu đều được vẽ bởi Claude Joseph Vernet. Chú cậu có vài bức của Vernet con, Horace. Vernet cha vốn nổi tiếng với những bức tranh vẽ phong cảnh bờ biển. Bức tranh này vẽ cảnh cảng Dover, nhưng Vernet chưa bao giờ đến Anh. Những chi tiết trong tranh quá thật: nó phải được vẽ tại chỗ; vì vậy, chắc chắn nó không phải của Vernet. Bức này nhái theo phong cách của ông ấy”. Sherlock chống chế, “Cháu không thể biết được. Cháu chưa bao giờ học về Vernet hay bất kỳ họa sĩ nào khác”. “Và điều đó nói lên gì?” Crowe nhìn chằm chằm xuống Sherlock, cặp mắt màu xanh lam của ông gần như bị khuất sau những nếp nhăn của da. Sherlock nghĩ một chút rồi nói, “Cháu không biết”. “Cậu có thể suy luận theo ý cậu, nhưng tất cả sẽ vô nghĩa nếu cậu không có kiến thức. Tâm trí của chúng ta giống như một cái xa quay sợi, nó cứ quay mãi không ngưng và không mục đích cho đến khi được mắc chỉ vào, khi đó nó mới tạo ra sợi. Thông tin là nền tảng của mọi suy nghĩ có lý trí. Hãy tìm kiếm nó. Cất giữ nó một cách cần mẫn. Hãy nạp vào đầu càng nhiều thông tin càng tốt. Đừng có cố phân biệt thông tin quan trọng hay tầm thường: Tất cả đều có tầm quan trọng tiềm tàng”. Sherlock suy nghĩ một lúc lâu. Nó đã chuẩn bị cho tâm trạng khó chịu và bị tổn thương, nhưng trong giọng của Crowe không có chút phê phán nào, và những điều ông ta nói là đúng. Nó nói và gật đầu, “Cháu hiểu rồi”. “Tôi tin là cậu hiểu”, Crowe đáp. “Chúng ta hãy tản bộ và xem có thể phát hiện ra điều gì”. Crowe lấy mũ và gậy bên cạnh cửa rồi họ cùng nhau bước ra ngoài ánh nắng hè rực rỡ. Crowe băng qua bãi cỏ trước nhà, đi về phía rừng cây, miệng nói về việc các đám mây hình thành như thế nào trên trời và mối liên hệ của chúng với thời tiết. Một lúc sau ông ta hỏi, “Có khi nào cậu nghĩ về cáo và thỏ không?” “Không nhiều”, Sherlock đáp, trong lòng không biết sự thay đổi đề tài này sẽ dẫn đến đâu. “Cậu thử tưởng tượng có một trăm con cáo và một trăm con thỏ trong cánh rừng này, xung quanh rừng là một hàng rào không con nào thoát ra được. Vậy chuyện gì sẽ xảy ra?” Sherlock suy nghĩ một chút. “Những con thỏ sẽ có thỏ con, những con cáo sẽ có cáo con và cáo sẽ ăn thịt thỏ”. “Ăn hết thỏ hả?” “Gần hết. Sau đó những con thỏ còn lại sẽ hiếm, vì chúng bắt đầu trốn”. “Rồi việc gì sẽ tiếp diễn?” Sherlock nhún vai, nó không chắc điều này sẽ dẫn đến việc gì. “Cháu nghĩ những con cáo sẽ bắt đầu chết vì đói”. “Còn bọn thỏ thì sao?” “Chúng có thể trốn, ăn cỏ và sinh sôi, do đó số lượng thỏ sẽ tăng dần”. Một tia sáng bỗng lóe lên trong đầu nó. “Và rồi số lượng cáo sẽ lại bắt đầu tăng lên vì chúng bắt được nhiều thỏ hơn, ăn uống đầy đủ, và sinh sôi nảy nở. Và cuối cùng số lượng cáo quá nhiều nên chúng sẽ ăn thỏ ngày càng nhiều hơn, rồi số lượng thỏ lại giảm một lần nữa”. “Và cái qui trình đó sẽ tiếp tục lặp đi lặp lại, như hai con sóng, con lên con xuống đuổi theo nhau. Ở một nơi nào đó là tận cùng của qui trình đó có một ngành toán học được gọi là phép tính vi phân, đó là cái cậu nên lưu tâm. Nó hữu dụng một cách lạ kỳ. Cậu có thể áp dụng cùng những phương trình đó cho lượng tội phạm và cảnh sát trong một thành phố, nếu cậu thích”. Ông ta bất thình lình phá lên cười. “Các cảnh sát không thường ăn thịt tội phạm nhưng những nguyên lý cơ bản thì cũng như nhau. Isaac Newton và Gottfried Leibniz phát triển môn toán một cách độc lập, nhưng gần đây Augustin Cauchy và Bernhard Riemann đã phát triển bộ môn này lên mức cao hơn. Riemann chết cách đây vài tháng. Tôi tin đây là một thiệt thòi lớn cho thế giới mặc dù tôi không chắc là thế giới có nhận ra điều đó chưa”. Bản thân Sherlock không hề tin là toán học lại có vai trò quan trọng như thế nên thường không quan tâm đến. Nó rất hạnh phúc nếu “nạp đầy đầu” nó những gì liên quan đến nghệ thuật và âm nhạc, đó là những thứ nó thấy thú vị, nhưng phương trình thì có lẽ không. Sau một hồi họ đi đến bức tường đá là nơi đánh dấu ranh giới của Trang viên Holmes. Crowe chỉ về hướng bên phải. “Cậu đi hướng này – hái số nấm nhiều nhất mà cậu có thể mang được. Tôi sẽ đi theo hướng kia. Sau nửa tiếng chúng ta sẽ gặp nhau ở đây, và tôi sẽ chỉ cậu cách phân biệt nấm độc và nấm lành. Nhớ là đừng có ăn thử trước khi tôi bảo cậu. Chắc chắn đó là một kỹ thuật phân tích có cơ sở vững chắc, nhưng nó cũng có thể dẫn đến tai họa chết người”. Crowe chầm chậm đi về phía trái, dùng cây gậy gạt những bụi cây và lùm cỏ qua một bên, mắt nhìn chăm chú xuống đất. Sherlock đi theo hướng ngược lại, mắt dán chặt xuống đất để tìm kiếm những vết trắng, những mụn nấm mập mạp trồi lên giữa đám dương xỉ. Trong vài phút nó đã khuất khỏi tầm mắt của Amyus Crowe. Nó tiếp tục đi, nhưng ngoại trừ vài tai nấm nâu có hình dáng như cái đĩa mọc ra từ một bên thân cây mà nó không chắc là có nên hái hay không, nó không tìm được thứ gì khác. Có một vệt màu thấp thoáng trong lùm cây thu hút sự chú ý của nó: những chấm đỏ trên nền trắng. Nó đến gần hơn, nghĩ đó là một cụm nấm độc mọc trên đất, nhưng hình thù của vật đó có gì đó làm nó băn khoăn. Trông giống như… Có một đám mây khói nhỏ lượn lờ trên vật đó ngay khi Sherlock nhận ra đó là cái gì: một thân người nằm còng queo trên mặt đất. Đám khói đung đưa theo gió nhưng không có dấu hiệu của lửa. Lúc đầu, Sherlock nghĩ người đàn ông này nằm hút thuốc bằng cái tẩu, mặt ông ta vì một lý do nào đó quấn trong một cái khăn tay màu trắng chấm đỏ, nhưng khi đến gần nó nhận ra là những chấm đỏ không phải ở trên nấm độc cũng như trên khăn tay trắng. Đó là những mụn máu trên mặt một xác người.