← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4

Amyus Crowe rút từ túi áo ra một chiếc khăn tay và đưa cho Sherlock. Từ một túi khác, ông lấy ra một cái chai kim loại dẹp và thân chai ôm cong theo người. Có một sợi dây da vòng quanh cái chai. Ông tháo nắp và đổ một ít chất lỏng màu nâu vào chiếc khăn tay Sherlock đang cầm làm nó ướt đẫm. Mùi xông lên từ chiếc khăn ướt gây ngứa mũi và chảy nước mắt.

“Rượu mạnh”, Crowe nói để đáp lại vẻ ngờ vực của Sherlock. “Đề phòng trường hợp người đàn ông này chết vì bệnh truyền nhiễm. Chúng ta không muốn bị nhiễm cái thứ đã mang anh ta ra khỏi cõi đời này”. Ông ta lấy thêm một cái khăn tay nữa từ một túi khác và làm giống y như vậy.

“Thứ đã giết anh ta?” Sherlock nói vẻ băn khoăn. “Chắc chắn là một loại bệnh. Hãy nhìn mặt anh ta xem!”

Cặp mắt màu xanh dương sáng của Crowe dán lên khuôn mặt Sherlock. Ông nhìn nó chằm chằm một lúc đầy thích thú trong khi vẫn cầm chặt chiếc khăn tay. “Cậu nghĩ rằng bệnh tật là nguyên nhân – và cái bệnh này đã phát triển tự nhiên trong cơ thể này?”

“Cháu giả sử thôi”, Sherlock chấp nhận. “Cháu chưa bao giờ thật sự nghĩ về chuyện này”.

“Nhưng cậu biết là dịch bệnh có thể lây từ người này sang người khác nếu cậu đến gần người bệnh hay đụng vào họ”.

“Đúng…”, Sherlock trả lời một cách thận trọng, nó không biết câu chuyện đang dẫn đến đâu.

“Vậy thì không có lý sao khi một thứ gì đó lây từ người bệnh sang người lành và làm cho họ cũng mang bệnh?”

Sherlock giữ im lặng. Nó hiểu câu hỏi này sẽ dẫn đến một bài học khác, cho dù là nó có trả lời như thế nào.

“Tôi đã sống ở Vienna vài năm trước đây”, Crowe nói. “Tôi đã gặp một người Hungary tên Ignaz Semmelweis. Ông ta làm việc với các sản phụ sắp sinh. Ông ta để ý thấy những sản phụ được các bác sĩ hoặc sinh viên y khoa đỡ đẻ sẽ dễ chết vì sốt hậu sản hơn những người được các bà mụ đỡ. Semmelweis là một người thông minh. Những bác sĩ khác sẽ cho qua việc đó, nhưng ông ta nhận ra là các nhân viên y tế thường đến thẳng phòng sinh từ nơi khám nghiệm tử thi. Ông ta đã yêu cầu các bác sĩ rửa tay bằng nước và chất khử trùng Chlorine trước khi khám cho sản phụ, và tỉ lệ sản phụ chết vì sốt hậu sản ở bệnh viện của ông ta giảm hẳn. Rõ ràng là Chlorine đã giết chết hoặc phá hủy cái gì đó trên tay các bác sĩ, thứ đã truyền từ xác chết đến các sản phụ”.

Ông giơ khăn tay lên. “Vì thế ta dùng rượu mạnh, có công dụng tương tự”.

“Thứ gì đó là loại nào?” Sherlock hỏi.

Crowe mỉm cười. “Nhà văn La Mã Marcus Terentius Varro đã viết, “… có những sinh vật nhỏ sinh sôi nảy nở mà chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt thường, nó trôi nổi trong không khí và vào cơ thể người qua miệng và mũi và gây ra những bệnh nguy hiểm”. Tôi đoán đây không phải những loại bệnh căn bản cậu đã được học ở trường. Mọi người đã nói về những vi sinh vật hàng thế kỷ nay, nhưng các nhà y học lại không xem đó là điều quan trọng”.

“Nhưng chúng ta có thể đơn giản là để cái xác lại đây và đi báo cho ai đó không?” Sherlock hỏi. “Như vậy có an toàn cho chúng ta hơn không?”

Crowe nhìn quanh cây cối và các lùm bụi. “Có nhiều khả năng một con cáo hoặc lửng đến và chén một bữa no nê. Tôi chưa bao giờ gặp người này, nhưng tôi cũng không mong việc đó xảy đến cho bất kỳ ai, dù còn sống hay đã chết. Không, anh ta phải được đưa ra khỏi rừng vào một lúc nào đó để chôn cất, và bây giờ cũng là một thời điểm tốt. Chúng ta sẽ an toàn chừng nào không sờ vào anh ta và đeo những cái khẩu trang này”.

Crowe cột chặt khăn tay quanh mặt. Mùi của rượu mạnh làm ông ta chảy nước mắt. Ông ta cười, những nếp nhăn sâu quanh mắt ông ta hằn lên như sớ vải lanh. “Tôi chưa bao giờ nói đó là loại rượu ngon”, ông ta nói. “Cậu vui lòng đừng quan tâm đến mùi vị của nó. Bây giờ hãy chạy đi và mang cái xe cút kít để ở vườn ra đây. Đem nó lại đây, nhanh”.

Bỏ lại Crowe đang cúi người trên xác chết, nhét chiếc khăn vào túi để lát nữa dùng, Sherlock bước nhanh theo hướng cũ qua khu rừng về phía trang viên. Nó định hướng bằng những thân cây, bụi rậm và nấm mà Amyus Crowe đã chỉ cho nó xem dọc đường đi khi nãy, nhảy qua những bụi cây thấp và cảm thấy cỏ quất vào mắt cá chân khi nó chạy. Mùi của dương xỉ khô và oải hương trộn lẫn trong mũi nó. Nó có thể nhận thấy mồ hôi đang túa ra trên trán và giữa hai xương bả vai, nhỏ xuống má và chảy dọc xương sống.

Khi ra khỏi rừng và về đến cái trảng trống ngăn giữa khu rừng với trang viên, nó dừng lại để thở và bình tĩnh lại. Ánh nắng trưa làm nó bị chóa mắt nhất thời, giống như khi bị một cú đánh vào đầu. Nó cúi người, hai tay chống lên đầu gối, hớp lấy luồng không khí ấm áp. Những âm thanh đã bị rừng chặn lại – tiếng chẻ củi, tiếng heo kêu ủn ỉn xa xa, tiếng ai đó hát – bỗng vang lên làm nó chú ý.

Đứng thẳng người lên, nó thấy có một bóng người phía xa, trên lưng ngựa. Người ngựa đứng bên kia cổng dẫn ra con đường, phía ngoài bức tường cao. Con ngựa đứng yên một chỗ, bóng người trông như đang quan sát nó. Nó nheo mắt, đưa tay lên che bớt ánh nắng mặt trời, nhưng ngay khi tay nó vừa che khuất tầm nhìn thì con ngựa di chuyển và bóng người biến mất.

Quên đi chuyện bóng người, Sherlock tìm thấy một chiếc xe cút kít gần chuồng gà và nhanh chóng đẩy vào rừng, nơi có cái xác. Nó thấy Crowe đang lục túi người chết.

“Không có gì để cho biết người này là ai”, ông ta nói mà không ngoái lại. Giọng ông ta bị cái khăn làm nghẹt đi. “Cậu có nhận ra người này không?”

Sherlock liếc nhìn cái mặt sưng phồng, bụng nó cuộn lên một cách khó chịu. Nó cố nhìn xuyên qua những cái mụn và các vết đỏ để tìm nét mặt. Cuối cùng nó nói, “Cháu không nhận ra, nhưng cũng khó thấy mặt”.

“Hãy nhìn tai”, Crowe nói. “Tai mọi người hoàn toàn khác nhau. Vài người không có dái tai, một số thì tai nhăn nheo, một số thì có tai giống hệt cái vỏ sò. Đó là cách đơn giản để phân biệt mọi người, đặc biệt nếu họ cố tình muốn che giấu thân phận”.

Sherlock kìm lại không đáp trả rằng người đang nằm chết trên đất này khó có lý do để che giấu thân phận, và thay vào đó nó tập trung vào vành tai bên trái lộ ra của người chết. Nó để ý thấy có một vết đứt dễ nhận thấy trên da nằm ở nửa trên của tai, như thể bị chém bằng dao trong một lần đánh nhau ở đâu đó, hay là bị trúng lưỡi rìu khi đang chẻ củi. Suy nghĩ đó làm nảy ra một hồi ức: nó đã gặp người đàn ông này trước đây . Nhưng ở đâu?

“Cháu nghĩ anh ta là người làm của chú cháu”, cuối cùng nó thốt lên. “Cháu đã từng thấy anh ta đánh xe ngựa”.

“Lúc nào?” Crowe hỏi.

“Chỉ mới sáng nay”. Sherlock cau mày. “Nhưng bây giờ trông anh ta như đã bị bệnh lâu ngày. Khi cháu thấy anh ta, anh ta còn khỏe mạnh”.

“Thông tin hữu ích đây”, Crowe lẩm bẩm. “Tốt lắm; chúng ta hãy đặt anh ta vào xe cút kít và đẩy về trang viên. Bà quản gia mặt buồn nhà cậu sẽ mời thầy cưa xương [3] của vùng này đến”.

“Thầy cưa xương?”

“Là bác sĩ đó”, Crowe cười. “Trước đây cậu chưa bao giờ nghe từ “thầy cưa xương” à?” Sherlock lắc đầu.

“Gọi như vậy là vì không lâu lắm trước đây đó là tất cả những gì họ có thể làm – cắt ngón tay hay ngón chân, bàn tay hay bàn chân, cánh tay hay cẳng chân nếu có tai nạn xảy ra”. Crowe khụt khịt mũi. “Rất may là văn minh nhân loại đã có chút phát triển kể từ đó”. Ông cúi xuống cái xác rồi đứng thẳng lại nhìn Sherlock. “Nhớ – không được đụng vào da anh ta”, ông cảnh báo. “Chỉ nắm quần áo của anh ta. Tốt nhất là không mạo hiểm”.

Chuyến về qua rừng mất khoảng nửa tiếng. Amyus Crowe đẩy chiếc xe chở người chết nằm lắc lư bên trong. Sherlock chạy trước xe, nó lom khom gạt hết đá hoặc cành cây có thể cản bánh xe hay làm Crowe vấp ngã. Hai bàn tay của người đàn ông hất lên hất xuống khi xe bị xóc, làm anh ta trông như đang ráng ngồi dậy. Sherlock cố không nhìn cảnh đó.

Khi nhìn thấy trang viên, Sherlock đã bắt đầu thở hổn hển, nó cảm giác các cơ bắp bỏng rát vì mỏi. Hẳn có ai đó đã trông thấy họ vì bà Eglantine đang bước nhanh về phía họ.

Bà ta đến nơi lúc họ vừa đến hàng cây.

“Các anh không được mang thứ đó vào bất cứ nơi nào gần nhà”, bà ta nói một cách kiên quyết.

“ Thứ này”, Crowe khiển trách bà ta nhẹ nhàng, “là một trong những người làm của chủ nhân bà. Tôi biết là anh ta đã chết, nhưng tôi nghĩ anh ta dù sao cũng xứng đáng được tôn trọng một chút”.

Bà Eglantine khoanh tay lại. “Người làm hay không”, bà ta nói, “thì tôi cũng không cho đem vào bất kỳ nơi nào gần nhà. Nhìn anh ta đi. Tôi không biết là bệnh đậu mùa hay dịch hạch, nhưng cái xác này cần phải bị thiêu hủy”.

“Tôi đồng ý”, Crowe nói, “nhưng tôi muốn trước hết phải có một bác sĩ xem xét cái xác. Và tất nhiên, gia đình của anh ta cũng cần được thông báo. Xin vui lòng gọi một bác sĩ từ thị trấn đến. Trong khi chờ, có chỗ nào có thể để cái xác vào không?”

Bà Eglantine khịt mũi. “Có một cái kho để chứa phân”, bà ta nói. “Nó đang bỏ không. Bỏ anh ta vào đó”. Bà ta ngừng lại một chút rồi nói tiếp, “Sau đó chúng ta có thể đốt cái kho”, rồi quay đầu trở về trang viên.

“Thật là một quí bà đáng yêu”, Crowe lầm bầm.

Sherlock đi quanh trang viên đến nơi phân được chất thành đống trước khi mang đi rải ở các luống rau và vườn cây ăn quả. Mùi phân hôi thối và tươi, mặc chiếc khăn tẩm ướt rượu mạnh, chui vào mũi và miệng nó và bao phủ cổ họng nó với cái dư vị mắc ói.

Căn nhà kho đã xiêu vẹo, Sherlock và Crowe phải di chuyển hàng đống những thanh gỗ mục và những dụng cụ làm vườn gỉ sét trước khi họ có thể mang cái xác vào trong. Ánh nắng mặt trời xuyên qua những lỗ hổng trên mái nhà và vách tạo nên những đốm sáng bằng bàn tay trên cái xác, phần còn lại của cái xác hoàn toàn chìm trong bóng tối. Đối với Sherlock, cái xác trông giống như một con búp bê kỳ cục có kích thước như người thật bị quăng đi một cách cẩu thả, tay và chân đung đưa trên thành xe cút kít.

“Chúng ta không có lý do gì để ở lại trong này”. Crowe nói, bước ra ngoài và tháo cái khăn tay. “Cậu quay về nhà ngay. Bảo một người hầu chuẩn bị nước tắm cho cậu – phải là nước nóng. Cậu hãy chà kỹ người bằng xà bông khử trùng carbolic. Thay đồ, bộ này đem đốt đi nếu cậu có đủ quần áo để thay. Nếu không thì đưa cho người hầu mang đi giặt”.

Sau khi tắm xong, khi da nó đỏ ửng lên và tươi hồng vì chà xát với xà bông carbolic màu đỏ sậm, Sherlock thay đồ khác và rời nhà. Nó vẫn còn nghe mùi nhựa than mà xà bông để lại trên da, và mắt nó cay xè. Đi vòng qua góc nhà, chùi hết những giọt nước mắt còn vương lại, nó trông thấy Amyus Crowe đang đứng nói chuyện với một người đàn ông lực lưỡng khoác áo choàng đen trước cửa căn nhà kho xiêu vẹo. Đó hẳn là bác sĩ của vùng này. Khi đến gần hơn, Sherlock nghe tiếng ông bác sĩ nói lớn tiếng, giọng kênh kiệu, “Chúng ta cần báo động những người có trách nhiệm trong khu vực. Đây là cái xác thứ hai được tìm thấy có cùng những triệu chứng. Nếu đây là dịch hạch thì chúng ta cần phải đề phòng ngay lập tức. Hội chợ ngày mai sẽ phải bị hủy bỏ và tất cả những nơi công cộng cần đóng cửa để ngăn bệnh lây lan. Trời ơi, thậm chí chúng ta có thể phải chặn những con đường ra vào thị trấn cho đến khi nguy hiểm qua đi!”

“Hãy bình tĩnh”, Amyus Crowe nói chậm rãi với giọng trầm. “Chúng ta chỉ có hai cái xác. Hai giọt mưa không thể làm nên một cơn mưa dông”.

“Nhưng nếu anh chờ đến khi mưa đổ ụp xuống đầu trước khi che dù thì anh sẽ bị ướt”, người bác sĩ cãi lại.

Bất thình lình Sherlock nhận ra nó biết nhiều hơn bọn họ. Cái xác, mụn nhọt, đám khói – tất cả chính xác là những gì Matty Arnatt đã nhìn thấy khi người đàn ông trong thị trấn chết. Đám khói là cái gì?

“Ít nhất chúng ta hãy đợi cho đến khi một chuyên gia đến xem xét cái xác”.

Ông bác sĩ bực mình lắc đầu. “Chuyên gia nào? Tôi có thể khám nghiệm tử thi nhưng chỉ cần nhìn các hạch sưng phù này là quá đủ rồi. Chúng ta phải nhìn nhận là chúng ta đang đối mặt với bệnh dịch hạch và hành động cho phù hợp”.

Crowe giơ tay trấn an. “Tôi quen một giảng viên đại học chuyên ngành bệnh nhiệt đới hiện sống ở Guildford. Giáo sư Winchcombe. Chúng ta có thể mời ông ta đến. Tôi sẽ viết một lá thư”.

“Cứ viết nếu ông thấy cần”, bác sĩ nói, “nhưng trong khi ông làm việc đó, tôi sẽ nói chuyện với thị trưởng và hội đồng thị trấn và cả ngài giám mục của xứ Winchester”.

“Ông ấy liên quan gì đến chuyện này?” Crowe hỏi.

“Lâu đài Farnham là nơi ở chính thức của Ngài”.

Sherlock tiến đến gần hơn, nhưng Amyus thoáng thấy và ra hiệu cho nó đi chỗ khác. Sherlock cảm thấy hơi bực. Nó là người phát hiện ra cái xác, nhưng bây giờ dường như Crowe muốn nó đứng ngoài mọi việc. Crowe muốn nó làm gì bây giờ – loanh quanh cho đến khi cuộc nói chuyện chấm dứt và đến nghe tiếp bài giảng đang giảng dở? Nó có nhiều việc để làm. Nếu Crowe muốn phàn nàn thì cứ viết thư cho Mycroft.

Trong lòng bực bội, nó xoay người bỏ vào rừng.

Ở giữa cây cối, chỉ trong vài phút nó đã không nhìn thấy trang viên nữa. Mặt đất tơi xốp dưới bước chân khi nó bước đi. Xung quanh chỉ toàn tiếng lắc rắc khe khẽ của cây lá khô rang dưới ánh nắng trưa và thỉnh thoảng là tiếng sột soạt của một chú chim hoặc cáo đang di chuyển trong bụi rậm. Mùi của lá mục dậy lên từ mặt đất, che đi dư vị khét mũi của rượu mạnh mà nó vẫn còn ngửi thấy và dư vị hăng hơn của carbolic. Không có đường mòn và lối đi xuyên qua những bụi rậm nên Sherlock phải bước thật chậm qua những thân cây đổ và đi vòng quanh những bụi cây táo gai để tiến tới.

Nó vào rừng theo một hướng khác với hướng nó và Crowe đã vào lúc trước và nó không biết chắc mình đang ở đâu. Sau vài phút nó không thể thấy trang viên, và nó phát hiện ra là mình không biết chắc hướng đi. Nó có thể đang ở giữa rừng hoặc là ở bìa rừng, và nếu không cẩn thận nó sẽ tiếp tục đi sâu vào giữa rừng. Không có cách nào để kiểm tra hướng đi, mặc dù nó cố ghi nhớ hình dáng của những cái cây nó đã đi qua nhưng rồi cuối cùng nó nhận ra là cây nào trông cũng như nhau.

Có một điều gì đó đã lôi cuốn nó đi sâu hơn vào rừng, điều gì đó mang tính bản năng mà nó không hiểu. Có người đã nói về các thị trấn và thành phố như thể chúng có hồn riêng, Sherlock đã trải nghiệm điều này ở London, trong những dịp đi chơi hiếm hoi với ba nó, cũng như ở mức độ thấp hơn là lần đến Farnham với Matty Arnatt, nhưng cái hồn mà nó cảm nhận ở đây thì khác. Một thứ gì đó vô tận và tối tăm. Dù là gì đi nữa, thì thứ đó cũng đã nhìn thấy cái chết của người nông dân và dửng dưng, cũng như đã dửng dưng với cái chết của hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu thú vật và con người trong hàng thiên niên kỷ mà nó đã chứng kiến.

Giũ bỏ những cảm xúc, Sherlock thấy mình vấp phải vết lún sâu do xe cút kít tạo nên và nó theo dấu đó để quay lại nơi nó đã phát hiện ra cái xác. Cây cỏ bị đè bẹp bên dưới cái xác đã vươn lên lại, nên không còn dấu của chỗ cái xác đã từng nằm. Nó biết chính xác vị trí là nhờ vào vết bánh xe cút kít ngừng tại đó.

Sherlock quan sát mặt đất dù không biết chính xác nó đang tìm gì. Nó cố hình dung những giây phút cuối cùng của người chết. Có phải là anh ta loạng choạng đi vào khu đất, bị hôn mê, khuỵu gối trước khi cả thân người đổ sập xuống, hay là anh ta đang đi mà không biết mình bị bệnh trước khi ngất xỉu và nằm mê man trong khi những mụn nhọt trên mặt và tay anh ta bắt đầu mọc ra? Phải có cách để hình dung câu chuyện từ bước chân của anh ta. Nếu anh ta bị mê sảng, bước chân anh ta sẽ chệch choạng, trong khi nếu anh ta đi bình thường, các bước chân phải ngay hàng thẳng lối. Sẽ có ích cho bác sĩ nếu ông ta biết bệnh diễn tiến nhanh như thế nào, và nếu không có gì khác thì nó có thể làm Amyus Crowe ấn tượng trước khả năng suy diễn của nó.

Sherlock cúi xuống thật thấp để quan sát mặt đất. Đôi ủng của người này tạo những vết hằn khác biệt trên mặt đất – gót của một chiếc bị mòn hơn chiếc kia, Sherlock có thể dễ dàng phân biệt vết chân của anh ta với của mình và của Amyus Crowe. Nó lần theo dấu chân trở vào đám cây. Dấu chân có vẻ kỳ cục; có khi bước chân đi theo một hướng có khi lại theo hướng khác, giống như anh ta đang xoay vòng.

Khiêu vũ chăng? Không, ý tưởng này thật ngớ ngẩn. Anh ta bị chóng mặt? Điều này thì có khả năng hơn. Có lẽ cơn bệnh – dù là bệnh gì – đã tác động đến khả năng giữ thăng bằng của anh ta.

Sherlock đi theo con đường xiêu vẹo của những dấu chân xa khỏi khu đất cho đến một nơi các dấu chân thình lình ngay hàng thẳng lối. Từ chỗ đó các dấu chân theo đường thẳng, thỉnh thoảng lại vòng qua một gốc cây hoặc một thân cây đổ hướng về phía mà nó nghĩ là Trang viên Holmes. Trông như thể cái gì đó tác động lên anh ta đã xuất hiện đột ngột: một phút trước anh ta đang đi đứng bình thường, một phút sau đó lại đi loạng choạng thành vòng tròn như thể bị say rượu, rồi không lâu sau đó ngã lăn ra. Và chết.

Quay lại nơi dấu chân bắt đầu thay đổi, Sherlock đứng lặng, nhìn quanh một cách hoang mang. Có một điều gì đó ở khu đất gần đó làm nó băn khoăn. Nó nhìn lên cây, bụi rậm và đám cỏ một lúc, cố tìm ra lời giải, và rồi nó nhận ra. Cỏ ở đây có màu hơi khác – hơi vàng hơn cỏ ở những nơi khác trong rừng. Sherlock quỳ xuống và chạm nhẹ ngón tay lên đất. Đất đổi màu và vụn như bụi. Có gì đó rải rác ở đó – một thứ không thuộc về nơi này.

Sherlock vê các đầu ngón tay lại với nhau. Chúng trơn láng. Dù thứ bột vàng này là gì thì cũng không giống bất kỳ thứ gì nó có thể nghĩ ra. Trong một lúc nó hoảng sợ, tim đập thật nhanh, nó sẽ thế nào nếu loại bột màu vàng này gây bệnh cho người đàn ông, rồi sau một giây suy nghĩ nó tự thuyết phục mình rằng chút bột này không thể mang đến bệnh tật. Nó truyền trực tiếp từ người sang người. Thuốc độc là một khả năng khác, nhưng là loại chất độc gì làm cho mặt và tay bệnh nhân phủ toàn mụn nhọt?

Nghĩ thật nhanh, Sherlock lấy trong túi ra phong bì chứa lá thư của Mycroft. Nó rút thư ra rồi nhét trở vào túi, rồi cầm phong bì bằng các cạnh để nó mở ra như một cái miệng nhỏ rồi hớt dọc theo đám cỏ. Một chút bụi vàng rớt vào trong bao. Nó nhanh chóng gấp bao thư lại rồi cất vào một túi khác. Nó không biết thứ này có quan trọng không, nhưng Amyus Crowe có thể nhận ra thứ bụi này.

Tha thẩn qua rừng, cuối cùng nó thấy mình đứng trên một con đường – nó không biết con đường đó dẫn về Trang viên Holmes hoặc một nơi nào khác. Con đường uốn cong ở cả hai đầu làm nó không thể xác định mình đang ở đâu. Nó ngồi xuống lề đường và chờ đợi. Nó nghĩ cuối cùng thì cũng sẽ có một chiếc xe ngựa đi ngang qua và nó có thể xin đi nhờ.

Giờ đã xế chiều. Nó muốn đi đâu – về trang viên hay ra thị trấn? Sau vài giây nó quyết định rằng về trang viên bây giờ thật buồn chán. Ra thị trấn có vẻ hấp dẫn hơn.

Mười hay mười hai chiếc xe ngựa đầu tiên đi qua đều đi cùng hướng, chúng chất đầy thùng, sọt và các bao tải bằng vải bạt. Khuôn mặt của những người đánh xe và hành khách lộ vẻ lo sợ. Sherlock không chắc lắm, nhưng nó có cảm giác họ đã nghe nói về hai cái chết và đang đi khỏi Farnham, càng xa nơi có thể có dịch càng tốt. Thậm chí nó không buồn xin đi nhờ: vẻ mặt họ cho nó biết họ sẽ không giúp. Cuối cùng, có lẽ khoảng nửa tiếng sau nó nghe tiếng lóc cóc của bánh xe ngựa trên mặt đường cứng theo hướng ngược với những chiếc xe khác. Nó đứng lên chờ cho đến lúc chiếc xe vòng qua khúc quanh.

“Xin lỗi”, nó gọi với người đánh xe tóc bạc có khuôn mặt gầy. “Ông đang đi theo hướng nào?”

Người lái xe gật nhẹ đầu, chỉ con đường phía trước. Ông ta không buồn nhìn mặt nó mặc dù ít ra ông ta cũng kéo cương cho con ngựa đi chậm lại.

“Về Trang viên Holmes đi hướng nào?” Sherlock hỏi.

Người đàn ông nghiêng đầu hất nhẹ ra để chỉ về con đường phía sau.

“Ông có thể cho cháu đi nhờ về thị trấn không?” Nó hỏi.

Người đàn ông suy nghĩ một chút rồi hất đầu về thùng xe phía sau. Xem đó là câu trả lời “đồng ý”, Sherlock leo lên xe. Chiếc xe tăng tốc ngay khi nó leo lên làm nó suýt rớt lại xuống đất. Thay vào đó, nó té lộn nhào về phía trước vào đống rơm trên xe.

Suốt chuyến đi người đánh xe chẳng nói gì và Sherlock cũng không biết nói gì với anh ta. Nó lần lượt suy nghĩ về người chết, về người đánh xe bí ẩn, và về nhân vật Amyus Crowe bí hiểm với tính cách lôi cuốn. Từ một nơi ban đầu là địa ngục của sự buồn chán, Trang viên Holmes và khu vực lân cận đã trở thành một cái gì đó nhưng chắc không phải là buồn chán.

Suy nghĩ của nó chuyển sang câu chuyện Matty từng kể về người chết được mang ra khỏi một căn nhà ở Farnham và cái đám mây lạ trôi bên ngoài cửa sổ. Sherlock đã không để ý đến câu chuyện này lúc đó – ít nhất là chuyện đám mây – nhưng bây giờ nó đang nghĩ lại. Nếu Amyus Crowe đúng về việc bệnh dịch là do những “sinh vật nhỏ” có thể truyền từ người sang người thì đó có phải là thứ mà nó và Matty nhìn thấy – đám mây những sinh vật nhỏ gây bệnh?

Không có lý. Trước đây chưa ai từng nói về việc nhìn thấy đám mây vi sinh vật. Chắc chắn nó và Matty không thể là những người duy nhất vô tình nhìn thấy. Có một điều gì khác đang xảy ra.

Chỉ đến khi chiếc xe ngựa lắc mạnh để ngừng lại nó mới nhận ra họ đang ở Farnham. Người đánh xe vẫn ngồi yên như tượng, chờ nó leo xuống, rồi khởi hành lại mà không hề đưa mắt liếc ra sau trong khi Sherlock đang loay hoay tìm tiền lẻ trong các túi để trả cho anh ta.

Sherlock nhìn quanh. Nó nhận ra con đường: đây là con đường chính duy nhất chạy qua trung tâm Farnham. Đầu đường là một tòa nhà lớn, vuông vức xây bằng gạch đỏ với những vòm cửa vây quanh mà Matty nói là kho ngũ cốc. Nó đảo mắt một vòng; thị trấn đang hoạt động bình thường, với nhiều người đi lại dọc ngang trên đường, ngừng lại ở các cửa kính trưng bày hàng hay các quầy bánh, nói chuyện với nhau hoặc đang tính toán chuyện làm ăn. Thật khó tìm cảnh nào đối lập hơn với sự hiu quạnh tối tăm của rừng bằng khung cảnh này.

Có thể là do nó tưởng tượng, nhưng dường như có những nhóm người tụ tập ở góc đường và bên ngoài các cửa hàng. Đầu họ có vẻ chụm lại, như thể họ đang thì thầm, và họ liếc nhìn mọi người qua đường với vẻ cảnh giác trong mắt. Có phải họ đang bàn về khả năng xảy ra dịch hạch ở trong làng? Phải chăng họ đang nhìn kỹ mặt những người đi ngang để tìm kiếm dấu vết của mụn hạch hay những khuôn mặt đỏ lên vì sốt?

Sherlock nhanh chóng điểm lại những chỗ may ra có thể tìm thấy Matty. Còn một hay hai tiếng nữa các quầy hàng ở chợ mới đóng cửa, vì vậy có ít khả năng Matty đang dạo quanh chợ để mong tìm kiếm trái cây hay rau cải bị vứt về hướng nó, và theo lịch chạy của xe lửa mà Sherlock ghi nhớ cẩn thận để phòng trường hợp nó không thể chịu nổi Trang viên Holmes nữa thì từ giờ đến tối không có chuyến xe lửa nào. Nó đoán có lẽ Matty đang lảng vảng bên ngoài một trong các quán rượu với hy vọng lượm được đồng xu nào đó do một gã say quăng ra.

Cuối cùng Sherlock nhận ra nó không có đủ dữ liệu để tìm ra chỗ Matty vào lúc này. Như là Mycroft đã từng nói: “Kết luận mà không có bằng chứng là một sai lầm vô cùng tai hại, Sherlock”. Thay vì tìm kiếm, nó đi xuyên qua các con đường cho đến khi đến chỗ Matty đã chỉ cho nó biết – căn nhà nơi người đàn ông đầu tiên chết, và đám mây chết chóc bò ra khỏi cửa sổ, lên tường rồi qua mái nhà.

Căn nhà dường như bị bỏ hoang. Cửa ra vào và cửa sổ bị đóng chặt, và ai đó dường như đã đóng một tấm bảng vào cửa. Sherlock nghĩ nội dung của nó là cảnh báo rằng trong nhà có người đã chết vì bệnh sốt. Nó cảm nhận sự giằng xé trong suy nghĩ của mình: một phần thì muốn vào trong ngó một vòng xem có dấu vết của chất bột màu vàng không, nhưng phần khác, cái phần ban sơ hơn trong nó, thì lại sợ. Mặc dù nó vẫn còn cái khăn tay tẩm đầy rượu mạnh được cuộn tròn trong túi, nó vẫn không muốn tự đưa mình vào tình thế có thể bị nhiễm bệnh.

Cánh cửa của ngôi nhà chợt hé ra, Sherlock lùi vào khoảng tối của ngưỡng cửa nhà đối diện. Ai ở trong đó? Ai đó đang mạo hiểm dọn dẹp căn nhà, hay ai đó đã chuyển đến ở, hay là chuyển vào lại, bất chấp nguy hiểm? Trong một lúc cánh cửa không mở thêm nữa, và Sherlock cảm giác, hơn là thấy, có bóng người ở trong bóng tối bên kia, đang quan sát. Nó lùi sâu hơn vào khoảng tối, tim đập thình thịch mặc dù nó không biết tại sao.

Cuối cùng cánh cửa mở rộng hơn, chỉ vừa đủ cho một người lách qua. Người này mặc toàn màu xám nhiều sắc độ khác nhau. Anh ta liếc nhanh trước sau dọc con đường trước khi lẻn ra ngoài. Có một cái bao bố trên tay anh ta.

Trên bàn tay cầm miệng bao phủ đầy bột mịn màu vàng.

Bị lôi cuốn vì chất bột và thái độ của người đàn ông, cho thấy anh ta không muốn bị trông thấy khi rời khỏi căn nhà, Sherlock quan sát khi anh ta đi theo con đường để vòng ra một con đường lớn hơn. Người đàn ông quẹo trái. Sherlock dừng lại một chút rồi theo sau anh ta. Nó không biết điều gì đang diễn ra, nhưng nó dự định tìm hiểu.

Có điều gì đó quen thuộc một cách kỳ lạ ở người này. Sherlock đã trông thấy anh ta trước đây. Anh ta có khuôn mặt hẹp giống như con chồn và hàm răng hô ố vàng vì hút thuốc. Rồi nó nhớ ra – người này có mặt ở ga Farnham lúc nó và Matty ở đó. Anh ta đang chất những thùng đá lên xe ngựa.

Quãng đường người này đi kéo dài từ đầu này đến đầu kia của Farnham. Sherlock theo anh ta suốt, nó núp vào các ngưỡng cửa hoặc sau lưng người khác khi nó nghĩ anh ta sẽ quay đầu lại. Cuối cùng thì người lạ rẽ vào một con đường nhánh mà Sherlock đã nhận ra. Đó là con đường mà nó và Matty đã đến sáng hôm đó, và suýt bị chiếc xe ngựa chở một người lạ có đôi mắt màu hồng đụng phải.

Người đàn ông đi nép sát dọc theo bức tường cao được tô vữa cho đến khi đến cánh cổng gỗ, nơi chiếc xe ngựa đã từ đó đi ra, và gõ cửa – tiếng gõ theo một nhịp điệu phức tạp mà Sherlock không tài nào nhớ nổi ngay cả khi nó cố ghi nhớ. Cánh cửa kẹt mở và anh ta len vào trong. Cánh cửa đóng lại trước khi Sherlock có cơ hội nhìn xem có gì bên trong.

Nó nhìn quanh quất rồi thất vọng. Nó muốn nhìn qua bức tường xem có gì bên trong nhưng không biết làm thế nào. Mọi thứ có vẻ liên kết với nhau theo một cách nào đó – hai cái chết, đám mây di chuyển, chất bột vàng – nhưng nó không nhìn ra những mối nguy hiểm tạo nên sự liên kết đó. Câu trả lời nó cần có thể ở sau bức tường đó, nhưng cũng có thể là đang ở Trung Quốc.

Mặt trời đã xuống thấp và đỏ rực trên bầu trời. Không còn bao lâu nữa trước khi nó phải quay về Trang viên Holmes, tắm rửa sạch sẽ để sẵn sàng cho bữa tối. Không còn nhiều thời gian nữa. Thất vọng, nó nhìn quanh. Đằng sau nó, nơi góc tường, vữa bị vỡ vụn ra vì xe ngựa và xe cút kít quẹt vào trong nhiều năm và bị nước mưa xói mòn thêm nữa. Những viên gạch lởm chởm bị lộ ra do mất đi lớp vữa vừa đủ để nó đặt chân vào, đu người lên bức tường.

Việc này đáng để thử.

Không còn thời gian nghĩ ngợi, Sherlock đi nhanh đến góc tường rồi nhìn quanh. Không có ai quan sát nó. Nó vươn người cao hết mức có thể, để cho những ngón tay bám được vào một kẽ hở giữa hai viên gạch, rồi quơ chân phải tìm chỗ đặt chân vừa tầm. Khi đã ổn, nó đu người lên. Các cơ ở chân bật căng vì cử động đột ngột, nhưng nó sẽ không bỏ cuộc lúc này. Nó vươn tay trái lên cao hết mức và đụng được vào đầu tường. Cố bám thật chặt hết mức, nó giơ chân trái lên cao rồi rà xuống tìm chỗ bám cho đến khi tìm ra. Nó chuyển toàn bộ trọng lượng cơ thể từ chân phải sang chân trái, trong lòng mong là viên gạch nó đặt chân sẽ không bị rơi ra. Viên gạch vẫn giữ được, nó kéo tay trái lên và đẩy bàn chân trái cùng lúc. Người nó chà mạnh trên tường, rồi thật kỳ diệu khi nó thấy mình nằm sóng soài trên bờ tường, người bập bênh trên đầu tường, chỉ chực rơi xuống cái sân lộ ra phía dưới.