CHƯƠNG 6
Sherlock suýt lỡ bữa ăn sáng. Cuộc phiêu lưu hôm trước đã làm nó mệt mỏi và đau nhức toàn thân, đầu nó nhức như búa bổ theo nhịp tim đập. Nó cảm thấy ngực bị co thắt và đau rát ở cổ, có thể là do khói mà nó đã hít phải. Nó bỏ bữa tối qua, nhưng thím đã để dành cho nó một khay thịt nguội và phô-mai. Hẳn phải là do thím – bà Eglantine dĩ nhiên là không nhọc công làm việc đó. Cả đêm không yên giấc, nó lơ mơ lúc thức lúc ngủ, lúc mơ lúc tỉnh, cho đến khi không còn phân biệt được đâu là mơ đâu là tỉnh. Nó chỉ vừa mới rơi vào giấc ngủ sâu, không mộng mị thì mặt trời đã mọc, theo đó là tiếng cồng báo hiệu giờ ăn sáng đánh thức nó – chỉ có mười phút để chuẩn bị cho ngày hôm đó.
Thật may là một người hầu đã lẳng lặng để sẵn một thau nước trong phòng mà không làm nó thức giấc. Nó vã nước rửa mặt, đánh răng bằng bàn chải cán xương lông heo rắc kem đánh răng dạng bột có vị quế và nhanh chóng mặc quần áo. Nó sẽ phải nhờ ai đó giặt quần áo cho nó thật nhanh – nó đã bắt đầu hết quần áo sạch để thay.
Khi chạy xuống cầu thang nó xem giờ trên cái đồng hồ đứng lớn ở sảnh. Bảy giờ đúng.
Vội vàng vào phòng ăn, lờ đi cái nhìn chòng chọc đầy u ám của bà Eglantine, nó tự lấy cho mình món kedgeree đặt trên cái bàn dài bày đầy các đĩa thức ăn ở một bên phòng. Nó chưa bao giờ ăn món cơm trộn với cá tuyết xông khói và trứng đầy hương vị này trước khi đến Trang viên Holmes, nhưng bắt đầu thấy thích. Nó cố hết sức tránh nhìn vào mắt ai, tọng thức ăn vào miệng nhanh đến mức chỉ vừa đủ để biết vị của nó. Nó đói ghê gớm: những việc xảy ra hôm qua lấy đi của nó rất nhiều năng lượng và giờ nó phải bù vào. Chú Sherrinford đang đọc một tập thơ Kinh thánh trong khi ăn còn thím Anna thì đang độc thoại như thường lệ. Theo những gì Sherlock biết, mọi ý nghĩ lướt qua đầu thím đều ngay lập tức được phát ra thành tiếng, dù có phù hợp với hoàn cảnh hay không.
“Sherlock”, chú nó ngước mắt khỏi cuốn sách mỏng đang đọc, “chú cho là con có dính dáng đến sự kiện không may hôm qua”. Có chút cháo yến mạch dính trên bộ râu dài.
Sherlock sững sờ một lúc, nó tự hỏi bằng cách nào chú lại biết chuyện nhà kho và đám cháy, nhưng sau đó nó nhận ra là Sherrinford đang nói về xác chết mà nó và Amyus Crowe phát hiện trong rừng. “Dạ đúng, thưa chú”.
Nó trả lời.
“Con người, được một người phụ nữ sinh ra, chỉ có một thời gian ngắn ngủi để sống”, Sherrinford ngâm nga, “một cuộc sống đầy bất hạnh. Họ lớn lên, và bị ngắt như một bông hoa; họ lướt qua cuộc đời như một cái bóng, và sẽ không bao giờ ở một nơi mãi mãi”. Ông nói tiếp trong khi vẫn chăm chú nhìn Sherlock “Ở giữa cuộc đời chúng con đã chết: chúng con biết tìm sự cứu rỗi của ai, trừ Ngài, Đức Chúa, Ngài đau lòng vì những tội lỗi của chúng con?”
Không biết phải phản ứng thế nào, Sherlock chỉ còn biết gật gật đầu như thể nó hiểu chính xác những điều chú nói.
“Con có một cuộc sống yên bình với anh của ta và vợ anh ấy”, Sherrinford nói. “Con chưa biết nhiều về cái chết, nhưng nó là một phần trong những điều tự nhiên Chúa đã định sẵn. Đừng để cái chết làm con lo lắng. Nếu cháu cần nói chuyện với ai đó thì cửa phòng làm việc của chú luôn rộng mở”.
Sherlock xúc động vì chú Sherrinford đã cố giúp nó theo cách riêng của chú. “Cám ơn chú”, nó nói. “Có phải người đàn ông được tìm thấy đó làm việc ở đây không ạ?”
“Chú nghĩ anh ta là người làm vườn”, Sherrinford nói. “Chú không thể nói là biết anh ta nhưng chúng ta sẽ cầu nguyện cho anh ta và gia đình. Người nhà của anh ta sẽ được giúp đỡ”.
“Anh ta là người mới”, thím Anna nói. “Thím tin là anh ta chỉ vừa mới tới. Trước đây anh ta làm việc cho một xưởng vải ở Farnham do một bá tước hay tử tước hay ai đó thuộc giới quí tộc làm chủ. Thư giới thiệu về anh ta được viết rất hay…”
“Tại sao anh ta chết ạ?” Sherlock hỏi, nhưng thím nó vẫn cứ tiếp tục màn độc thoại của bà.
“Chủ đề này không thích hợp để bàn luận trong bữa ăn sáng”, bà Eglantine nói từ chỗ đứng gần bàn để thức ăn, Sherlock liếc nhìn bà ta, nó ngạc nhiên cả vì sự trơ tráo trong câu nói của bà lẫn vì chú và thím nó không la rầy bà. So với cương vị một người hầu, bà ta rất đường đột. Nó chợt nhớ đến lời nhắc nhở của Mycroft – bà ta không phải là một người bạn của gia đình Holmes – và nó tự hỏi liệu có nhiều chuyện về bà Eglantine, và sự hiện diện của bà ta trong căn nhà này, hơn là nó biết không.
“Cậu bé này có óc tò mò”, Sherrinford nói khi đưa đôi mắt từ dưới đôi chân mày rậm rạp nhìn nó. “Chú khuyến khích tính tò mò. Óc tò mò, cùng với linh hồn bất tử của chúng ta, là điều để phân biệt chúng ta với thú vật”. Quay lại với câu hỏi của Sherlock, ông ta tiếp tục: “Cái xác được chuyển đến một bác sĩ địa phương, và ông ta đã gửi điện tín cho Phòng Điều tra những cái chết bất ngờ của North Hampshire. Họ sẽ công bố nguyên nhân cái chết theo nhận định của họ, nhưng theo chú hiểu, mặt và bàn tay của anh ta nổi đầy những mụn giộp là dấu hiệu của bệnh đậu mùa hoặc là bệnh dịch hạch”. Ông lắc đầu, mày chau lại. “Dĩ nhiên chúng ta không muốn một bệnh sốt nào đó bùng phát. Ông bác sĩ sẽ không đủ sức đối phó nếu có thêm người nào khác bị bệnh. Chú nghe nói có vài thương gia đã dẹp quầy hàng và chuyển đi nơi khác. Sự hoảng loạn lan ra còn nhanh hơn bệnh dịch. Farnharm tồn tại được là nhờ giao thương – cừu, ngũ cốc, len và nhiều thứ khác. Nếu các hoạt động này dời qua thị trấn khác thì sự thịnh vượng của Farnharm sẽ lụi tàn đi và chấm dứt”.
Sherlock liếc xuống cái đĩa của nó. Nó đã ăn kedgeree đủ no và giờ nó muốn quay lại Farnharm xem Matty có quanh quẩn đâu đó không. “Con xin phép”, nó nói. Chú nó gật đầu và nói, “Amyus Crowe nhờ chú nhắn với con là ông ta sẽ quay lại vào giờ ăn trưa để tiếp tục hướng dẫn con. Hãy chắc chắn có mặt ở nhà vào lúc đó”. Có thể là thím nó đã nói điều gì đó trong cuộc độc thoại không ngừng. Sherlock đứng lên và đi về phía cửa, nhưng một ý nghĩ bất chợt làm nó quay ngược lại.
“Thím Anna?” nó gọi. Thím nó ngước lên. “Hồi nãy thím nói người chết trước đây làm việc cho một bá tước hoặc tử tước phải không ạ?”
“Đúng rồi con”, bà trả lời, “Thật ra, thím nhớ là_”
“Có thể nào là nam tước không ạ?”
Bà dừng lại một lúc để suy nghĩ. “Thím nghĩ con nói đúng. Người đó là một nam tước. Dì để lá thư ở đâu đó. Trong thư viết_”
“Thím có nhớ tên của ông ta không ạ?”
“Maupertuis”, thím Anna trả lời. “Tên ông ta là Nam tước Maupertuis. Cái tên này thật buồn cười. Chắc là người Pháp, hay cũng có thể là người Bỉ. Tất nhiên là ông ta không tự viết thư giới thiệu, thư đó là do_”.
“Cảm ơn thím”, Sherlock đáp và đi trong khi thím vẫn tiếp tục nói.
Nó rùng mình khi bước ra sảnh. Chắc không phải là trùng hợp? Hình như cả hai người bị giết bằng cùng một cách, một người trong họ có liên hệ với nhóm côn đồ làm việc trong một nhà kho ở Farnharm thuộc sở hữu của một gã “Nam tước” bí ẩn và người kia thì vừa mới nghỉ làm ở chỗ một “Nam tước Maupertuis”. Không thể có hai ông Nam tước cùng liên quan đến vụ này được, đúng không? Người chủ của cái nhà kho, gã đàn ông lạ mặt mà Sherlock và Matty đã thấy rời khỏi đó trong chiếc xe ngựa hẳn phải là Nam tước Maupertuis. Và nếu người đàn ông mà nó và Amyus Crowe phát hiện xác trong rừng từng làm việc cho một xưởng quần áo của Nam tước Maupertuis thì có phải cái xưởng đó đặt tại căn nhà kho ở Farnharm? Và có phải điều này nghĩa là thứ mà gã Wint quá cố bị cho là trộm từ nhà kho – thứ mà nó đã nghe Clem và Denny nói với nhau – chính là quần áo?
Có cảm giác là vô số mảnh hình ráp đang trôi nổi trong đầu nó bất thình lình kết nối được với nhau. Bức tranh chưa rõ ràng lắm – vẫn còn vài mảnh ráp chưa tìm thấy – nhưng tất cả bắt đầu trở nên hợp lý lạ lùng.
Dựa trên những thông tin nó có về xưởng may, về những bộ quần áo, Nam tước, và hai người đã chết, Sherlock có thể suy ra vài điều. Không hoàn toàn chỉ là suy đoán mà nó còn đưa ra một vài giả thuyết khả dĩ. Chẳng hạn như hai gã đàn ông có cùng mối liên hệ với xưởng may đều bị chết, có vẻ do bệnh đậu mùa hoặc dịch hạch. Điều này phải chăng có nghĩa là những bộ quần áo vì một lý do nào đó đã bị nhiễm bệnh? Dựa trên những điều nó thu hoạch được khi đọc báo của ba nó, Sherlock biết là hầu hết quần áo được sản xuất ở những thị trấn công nghiệp ở miền Bắc nước Anh, Scotland và Ireland, nhưng cũng có một số được nhập khẩu từ nước ngoài – lụa từ Trung Quốc và muslin và vải bông thường là từ Ấn Độ. Có thể một chuyến hàng cập cảng nước Anh từ những nước trên đã bị nhiễm bệnh, hoặc chứa đầy những côn trùng mang mầm bệnh, và công nhân ở xưởng đã bị lây nhiễm. Đây là một cách giải thích có lý và Sherlock cảm thấy một áp lực, một thôi thúc phải nói chuyện này với ai đó. Ngay lập tức nó nhớ đến chú nó, nhưng nó gạt ngay ý nghĩ đó đi. Sherrinford Holmes là người lớn nhưng ông không có vẻ từng trải lắm và ông có thể sẽ gạt đi những giả thuyết của nó. Tim Sherlock chùng xuống một hồi. Còn ai khác nữa không?
Và nó nhớ tới Mycroft. Nó có thể viết thư kể mọi thứ cho anh nó. Mycroft làm việc cho chính phủ Anh. Anh ấy sẽ biết nên làm gì.
Nó cảm thấy mối lo trong lòng giảm đi khi nghĩ về người anh chín chắn và đáng tin cậy Mycroft, nhưng rồi nó bỗng thắc mắc không biết Mycroft sẽ làm gì nếu biết chuyện. Liệu anh có bỏ việc đang làm chạy về Farnham để điều tra? Anh sẽ chuyển thông tin cho bên quân đội? Hay là anh chỉ gửi điện tín cho chú Sherrinford nhắc chú quản thúc nó.
Sherlock ra khỏi nhà và tắm mình trong nắng sớm, nó ngừng lại một chút để tận hưởng bầu không khí. Nó ngửi thấy mùi khói củi, mùi cỏ mới cắt và mùi ngai ngái thoảng qua của men bia ở Farnham. Mặt trời vừa mới lên trên ngọn cây, ánh nắng chiếu sáng lá cây và viền sáng quanh rìa lá, đổ bóng dài qua bãi cỏ đến nơi nó đứng như những ngón tay vươn dài.
Còn có một cái bóng khác ở đằng kia – một cái bóng chuyển động. Sherlock lần theo cái bóng qua bãi cỏ đến bức tường ngăn cách căn nhà và khu đất với con đường bên ngoài. Ở đó, phía bên kia bức tường có một người ngồi trên lưng ngựa và dường như đang quan sát nó. Khi nó giơ tay lên che bớt ánh nắng cho khỏi chói mắt thì người cưỡi ngựa thúc ngựa chạy đi. Con ngựa chạy nước kiệu dọc theo con đường rồi biến mất phía sau cái hàng rào cao.
Sherlock đi ra phía cổng. Người và ngựa đã đi rồi nhưng nếu may mắn thì hình dáng vó ngựa in trên đất hay một thứ gì đó do người cưỡi ngựa làm rớt có thể giúp nó nhận ra họ.
Không có dấu vó ngựa, không có thứ gì người cưỡi ngựa làm rớt nhưng Sherlock nhìn thấy Matty Arnatt đang ngồi ở cạnh cổng cùng với hai chiếc xe đạp.
“Cậu lấy mấy chiếc xe ở đâu ra vậy?” Sherlock hỏi.
“Mình kiếm được. Mình nghĩ cậu muốn chạy một vòng.
Dễ hơn đi bộ và chúng ta có thể đến nhiều nơi hơn”.
Sherlock nhìn nó chằm chằm một lát. “Tại sao?”
Matty nhún vai. “Chẳng có chuyện gì khác để làm”. Nó ngưng lại và nhìn ra xa. “Mình đã nghĩ tới việc rời khỏi đây, chèo chiếc thuyền xuôi theo con kênh một quãng xa, nhưng điều đó có nghĩa là lại bắt đầu ở một thị trấn mới – tìm chỗ kiếm ăn và kiếm đồ dùng. Ít nhất ở đây mình quen mọi người, mình quen cậu”.
“Thôi được. Mình có thể hoạt động một chút. Từ hôm qua đến giờ, các cơ bắp của mình vẫn còn bị căng cứng”.
“Hôm qua đã xảy ra chuyện gì?”
“Mình sẽ kể trong khi chúng ta đạp xe”. Sherlock nhìn xuống con đường chạy ngang qua cổng. “Cậu có thấy ai cưỡi ngựa đi qua đây và có dừng lại một lát không?”
“Ừ có. Họ chạy vượt qua mình rồi dừng lại chỗ đó”. Nó hất đầu chỉ về nơi lúc nãy Sherlock đã thấy người cưỡi ngựa.
“Giống như là họ nhìn cái gì đó rồi cưỡi ngựa đi”.
“Cậu có nhận ra là ai không?”
“Mình không chú ý lắm. Có quan trọng không?”
Sherlock lắc đầu. “Có thể không”.
Bọn nó cùng nhau đạp xe xuôi hướng Farnham, ngược với hướng của người cưỡi ngựa. Đã lâu rồi Sherlock không chạy xe đạp, nó chạy khá loạng choạng theo Matty nhưng chỉ sau vài phút nó đã làm chủ tay lái và đuổi kịp. Trong khi cả hai đạp xe kề bên nhau dọc theo con đường mát rượi mà cây cối đan lại thành một cái vòm phía trên đầu chúng và đi qua những cánh đồng đầy hoa màu vàng tươi, nó kể cho Matty nghe chuyện xảy ra hôm trước – về người đàn ông nó theo dõi từ căn nhà mà Matty đã trông thấy đám mây lạ, chuyện căn nhà kho, chuyện chiếc xe ngựa chất đầy các thùng vuông và chuyện đám cháy. Matty liên tục đặt câu hỏi và Sherlock thấy mình liên tục trở lại và kể lại từng chi tiết câu chuyện, bất chợt chuyển đề tài để giải thích những điều khác và nói chung là không đi vào trọng tâm. Nó không phải là người có tài kể chuyện bẩm sinh, và có lúc nó mong có ai đó có thể lấy những sự kiện trong đầu nó và sắp xếp lại cho mạch lạc.
“Cậu còn sống ra khỏi đó là may”, Matty nói khi nghe Sherlock kể xong. “Cách đây vài tháng mình làm việc ở một tiệm bánh. Tiệm đó bị cháy. Mình may mắn mới thoát ra được”.
“Chuyện gì đã xảy ra?” Sherlock hỏi.
Matty lắc đầu. “Tay thợ làm bánh là một gã ngốc. Gã quẹt diêm để châm tẩu thuốc ngay khi bọn mình vừa mở các bao bột”.
“Tại sao làm vậy lại gây cháy?”
Matty nhìn nó một cách lạ lẫm. “Mình nghĩ tất cả mọi người đều biết, bột mì lơ lửng trong không khí sẽ giống như thuốc nổ. Nếu một hạt bột bắt lửa thì trong vòng một giây nó sẽ lan sang những hạt còn lại, giống như có tia lửa xẹt từ hạt này sang hạt kia vậy”. Nó lắc lắc đầu. “Cả tiệm bánh bị biến thành đống gạch vụn. May cho mình là lúc đó mình đang đứng sau cái bàn. Dù vậy thì cũng phải mất một tháng tóc mình mới mọc lại như cũ”. Liếc sang Sherlock nó hỏi: “Dù sao đi nữa, cậu muốn làm gì bây giờ?”
“Bọn mình nên kể cho cảnh sát khu vực”, Sherlock nói. Ngay khi nói ra thì nó đã biết là không nên làm thế. Hai cái xác, đám mây chết kỳ lạ, thứ bột bí ẩn màu vàng và một nhóm vô lại đốt nhà kho – tất cả giống như một trò chơi trong trí tưởng tượng của bọn con nít. Ngay cả nếu một nửa câu chuyện được chứng thực bằng những sự kiện có thật – hai người đã chết, tro tàn ám khói của nhà kho có thể nhìn thấy khi đến đó – thì những chuyện còn lại giống như một sự pha trộn giữa sự suy đoán không căn cứ và những giả thiết hoang đường được xâu lại với nhau để lấp đầy những lỗ hổng.
Nhìn mặt Matty nó biết Matty đang nghĩ giống hệt nó về việc này. Nó cảm thấy miệng mình đang mím lại đầy thất vọng. Không người nào ở đây có thể giúp nó, còn người có thể giúp nó thì lại không ở đây.Thật là ngược đời!
Và rồi nó nhớ đến người gây ấn tượng mạnh với nó, Amyus Crowe. Một cảm giác tin tưởng quét qua nó, xua tan đi đám mây hoang mang đang tụ lại quanh nó, giống như làn nước mát rửa trôi đi rác rưởi và rong rêu bám trên tảng đá. Dường như Crowe có thể nói chuyện với bọn trẻ như thể chúng là người lớn, ông tư duy theo kiểu suy luận, sử dụng bằng chứng như những bậc thang để dẫn đến kết luận chứ không kết luận hồ đồ. Ông ta là người duy nhất có thể thật sự tin tưởng bọn chúng.
“Chúng ta sẽ kể cho Amyus Crowe”, nó nói.
Matty có vẻ không tin tưởng. “Cái lão cao to với giọng nói buồn cười và cái đầu tóc trắng hả?” Nó hỏi. “Cậu có chắc không?”
Sherlock gật đầu một cách quả quyết. “Chắc”. Nhưng mặt nó chợt xịu xuống, cả người thần ra. “Nhưng mình không biết ông ta sống ở đâu. Chúng ta phải chờ cho đến khi ông ấy xuất hiện ở nhà chú mình. Hay là mình hỏi chú mình địa chỉ của ông ấy”.
Matty lắc đầu. “Ông ta mướn một căn nhà ngoài rìa thị trấn”, nó nói. “Trước đây đó là nhà của người gác rừng. Chúng ta đạp đến đó mất khoảng nửa tiếng”. Nhìn vẻ mặt ngạc nhiên của Sherlock nó nói thêm, “Cái gì? Mình biết gần hết những người sống ở đây. Nhờ đó mà mình biết có thể kiếm thức ăn ở đâu bất kể lúc nào trong ngày. Mình cần phải biết nơi này hoạt động như thế nào – mọi người sống ở đâu, họ làm việc ở đâu, chợ ở đâu, nơi nào chứa lúa mì, cảnh sát khu vực ở đâu vào buổi sáng, trưa và tối, và vườn cây ăn trái nào có bảo vệ và nơi nào không có. Đó là chuyện sống còn của mình”.
Đó là óc quan sát, Sherlock nghĩ, và nhớ lại những câu Amyus Crowe nói với nó. Cuối cùng thì mọi việc đều là vấn đề óc quan sát. Nếu bạn có đủ dữ kiện, bạn sẽ giải quyết rốt ráo mọi chuyện.
Và đó là cũng là vấn đề với hai cái xác và đám mây chết – bọn nó hiện không có đủ dữ kiện.
Cả hai đạp xe băng qua thị trấn, tránh những đường phố chính có nhiều người đi lòng vòng. Chuyến đi gần như chấm dứt trước khi bắt đầu bởi vì tâm trí Sherlock vẫn còn đang sôi sục với những sự kiện nóng hổi, những phỏng đoán và giả thuyết khi bọn nó đến bức tường đá của căn nhà nơi Amyus Crowe đang sống.
Ở một bên có một chuyển động làm nó chú ý. Nó nhìn qua và thấy một con ngựa đang ăn cỏ trên cánh đồng. Con ngựa màu đen với một vệt màu nâu ngang qua cổ.
Đến giờ nó đã thấy con ngựa này hai lần, mỗi lần đều do một người bí ẩn cưỡi và quan sát nó.
Một cơn ớn lạnh chạy dọc hai cánh tay và ngực nó làm nó nổi da gà. Chuyện gì đang xảy ra đây?
Matty dừng lại chờ ở cổng khi Sherlock bước qua vườn trước nhà. Sherlock quay lại nhìn nó dò hỏi. Mặt thằng bé nhăn lại vẻ cáu kỉnh. “Mình sẽ ở ngoài này”, nó nói.
“Có chuyện gì sao?”
“Mình không quen lão đó. Có thể lão không ưa mình”.
“Mình sẽ bảo ông ấy cậu là người tốt, rằng có thể tin cậu.
Mình sẽ nói cậu là bạn mình”.
Khi từ “bạn” tuôn ra khỏi môi nó, Sherlock đột nhiên cảm thấy ngạc nhiên. Nó xem Matty là một người bạn nhưng ý nghĩ đó làm nó bối rối. Trước đây nó chưa bao giờ thật sự có bạn – tất nhiên là không có ở trường, và ngay cả khi về căn nhà của gia đình, nơi nó nghĩ là nhà – cũng không có luôn. Bọn trẻ có khuynh hướng né tránh nhà nó và mọi người trong đó vì chúng nghĩ họ thuộc tầng lớp cao hơn, “những chủ đất”, nên Sherlock luôn ở một mình. Ngay cả Mycroft cũng không hơn một hình bóng vững chãi ngồi trong thư viện của cha họ làm việc với lượng sách đồ sộ được gia đình sưu tầm qua nhiều thế hệ. Thỉnh thoảng Sherlock chia tay Mycroft tại thư viện sau bữa ăn sáng và đến giờ ăn tối nó thấy anh ấy vẫn ngồi yên đó, không thay đổi vị trí, điểm khác biệt duy nhất là chồng sách chưa đọc vơi đi và chồng sách đọc rồi cao lên.
“Cũng thế thôi”, Matty nói, “Mình sẽ chờ bên ngoài”.
Một ý nghĩ xuất hiện trong Sherlock. “Ở bên ngoài”, nó lặp lại. “Cậu thích không gian ở ngoài hơn phải không? Từ lúc quen cậu đến giờ mình chưa thấy cậu ở trong nhà bao giờ”.
Mặt Matty càng cau có, nó tránh không nhìn Sherlock mà nhìn sang hướng khác. “Không thích các bức tường”, nó lầm bầm. “Không thích chỗ chỉ có một cửa ra vào trong khi không biết ai đang ở bên ngoài cánh cửa đó”.
Sherlock gật đầu. “Mình hiểu rồi”, nó nói nhẹ nhàng. “Mình không biết sẽ ở trong đó bao lâu. Có lẽ mình sẽ gặp cậu khi mình ra”. Nó liếc nhìn lại cánh cửa. “Là nếu như có ai đó ở nhà”. Nhìn nhanh về phía chú ngựa đen đang nhổ từng búi cỏ lên mà nhai, nó gõ mạnh vào cửa.
Khi quay đầu lại thì Matty đã biến mất cùng với chiếc xe đạp.
Một lát sau cánh cửa mở ra. Sherlock hơi nhìn lên, mong gặp Amyus Crowe đứng bên trong, và trong giây lát nó thấy bối rối vì không thấy gì. Cái nhìn của nó hạ xuống, và nó thấy tim mình đập trật nhịp khi dừng ở khuôn mặt của một đứa con gái cao bằng cỡ nó. Con nhỏ mặc đồ màu sẫm và vì đứng trong bóng tối của cái sảnh đợi, mặt con bé như đang trôi giữa khoảng không.
“Tôi – tôi tìm ông Crowe”, nó nói và cảm thấy đỏ mặt vì giọng nói lắp bắp của mình. Nó cực kỳ mong ước có thể nói một cách tự tin và “phớt Ăng-lê” như Mycroft.
“Cha tôi ra ngoài rồi”, đứa con gái trả lời. Nó có giọng mũi giống như Amyus Crowe – chắc là giọng Mỹ? – làm câu nói có vẻ như là bôi ra ngoài. Dù là giọng gì đi nữa thì cũng làm cho nó một nét cuốn hút kỳ lạ. “Tôi sẽ nói với cha là ai đã ghé thăm?”
Sherlock biết là nó không thể rời mắt khỏi khuôn mặt của con nhỏ. Con nhỏ khoảng trạc tuổi nó. Mái tóc dài màu vàng hung, tuôn chảy và xoăn tít quanh vai giống như là một thác nước bằng đồng đang đổ xuống bỗng đụng phải những tảng đá và bắn tung tóe lên. Đôi mắt của con nhỏ có sắc tím nhạt mà Sherlock chỉ từng nhìn thấy trên những bông hoa dại, da nó màu nâu và có tàn nhang như thể ở ngoài trời suốt ngày.
“Tôi là Sherlock” nó nói. “Sherlock Holmes”.
“À là đứa bé cha đang dạy kèm”.
“Tôi không phải là đứa bé; tôi lớn bằng cậu”. Nó nói với tất cả sự can đảm có thể có.
Con nhỏ bước ra ngoài nắng, và Sherlock có thể nhìn thấy nó đang mặc quần cưỡi ngựa ôm sát màu nâu, thích hợp cho con trai hơn là con gái, và một cái áo sơ-mi vải lanh làm tôn lên hình dáng khuôn ngực nó.
“Tôi sẽ nói với cha là cậu đến”, nó nói như thể không nghe Sherlock nói gì. “Tôi nghĩ ông đến nhà chú của cậu để tìm cậu. Hôm nay ông muốn gặp cậu”.
“Tôi đãng trí quá”, nó thấy mình đang giải thích. Một ý nghĩ chợt đến ngay khi nó nhìn thấy chiếc quần cưỡi ngựa và con ngựa ở bãi giữ ngựa gần đó. “Cậu đã theo dõi tôi!” nó thốt lên không kịp suy nghĩ, một cơn phấn khích bất ngờ trào lên vì ngượng và cả vì hơi bị xúc phạm.
“Đừng có mơ”, con nhỏ nói. “Tôi chỉ nhìn thấy cậu đôi lần khi đi cưỡi ngựa, chỉ có vậy thôi”.
“Cậu cưỡi ngựa đi đâu? Quanh trang viên chỉ có chốn đồng không mông quạnh”.
“Thì đó là nơi tôi đến để cưỡi ngựa mà”. Con nhỏ nhướng một bên mày. “Cậu có biết cưỡi ngựa không?” Sherlock lắc đầu.
“Cậu nên học. Rất vui”.
Nó nhớ lại hình ảnh người cưỡi ngựa mà nó đã nhìn thấy từ xa. “Cậu cưỡi ngựa như một người đàn ông”.
“Ý cậu là gì?”
“Khi phụ nữ cưỡi ngựa, họ thường ngồi một bên yên ngựa, hai chân để về một phía. Họ gọi đó là kiểu ngồi một bên. Cậu cưỡi giống đàn ông, thả chân hai bên ngựa”.
“Đó là cách tôi được dạy”. Giọng nó có vẻ tức giận. “Những người ở đây cười nhạo tôi vì cưỡi ngựa kiểu đó, nhưng nếu tôi cưỡi theo cách họ muốn, tôi sẽ ngã khi ngựa chạy quá nước kiệu. Cái đất nước này thật kỳ cục. Không giống như ở nhà”.
Con nhỏ bước qua nó, cánh cửa đóng lại phía sau, rồi con nhỏ sải bước về phía bãi giữ ngựa.
“Cậu tên gì?” Sherlock gọi với theo.
“Biết để làm gì?”
“Để tôi không phải nghĩ đến cậu như là con gái của Amyus Crowe”.
Con nhỏ ngừng lại và nói mà không quay đầu lại. “Virginia. Đó là một vùng ở Mỹ. Một bang nằm dọc theo bờ biển ở phía đông, gần thủ đô Washington”.
“Tôi có nghe về nó. Có phải nó ở gần Albuquerque?”
Con nhỏ quay người lại, khuôn mặt pha trộn giữa sự coi thường và thích thú. “Không hề gần. Cách xa hàng ngàn dặm. Virginia chủ yếu là rừng và núi còn Albuquerque thì nằm giữa một sa mạc. Mặc dù là nơi đó cũng có các dãy núi”.
“Nhưng cậu đến từ Albuquerque”.
Con nhỏ gật đầu.
“Sao cậu rời khỏi đó?”
Virginia không trả lời. Thay vào đó nó quay lưng lại và tiếp tục đi về hướng bãi giữ ngựa. Sherlock lẽo đẽo theo sau, thấy mình giống như một con rối bị giật dây không làm theo ý mình được một cách kỳ lạ. Nó liếc quanh, hy vọng là Matty không ở đó và chứng kiến chuyện đang xảy ra, nhưng thằng bé và chiếc xe đều bặt tăm hơi.
“Cậu không báo với ai cậu sẽ đi đâu sao?” nó hỏi khi Virginia đặt một chân lên bàn đạp, tay trái bám lấy đầu yên rồi búng mình ngồi lên lưng ngựa. Bàn tay phải của con nhỏ vuốt ve bờm ngựa.
“Ở nhà không có ai”, con nhỏ trả lời. “Cha tôi ra ngoài rồi, nhớ không”.
“Vậy còn mẹ cậu?” nó hỏi. Khuôn mặt con nhỏ chuyển sang một vẻ gì đó cứng cỏi nhưng lại mong manh một cách kỳ lạ đến mức nó muốn thu lại ngay lập tức những lời vừa nói.
“Mẹ tôi chết rồi”. Con nhỏ nói thẳng. “Mẹ tôi chết trên tàu trên đường vượt Đại Tây Dương sang Liverpool. Đó là lý do tôi ghét đất nước này, ghét ở đây. Nếu gia đình tôi không đến đây mẹ tôi có lẽ vẫn còn sống”.
Giật nhẹ dây cương, con nhỏ làm con ngựa xoay một vòng rồi bắt đầu chạy nước kiệu đi. Sherlock nhìn theo con nhỏ, áy náy vì nét đau khổ trên khuôn mặt con nhỏ và giận mình vì đã gây ra chuyện đó.
Cuối cùng, khi xoay người lại để đi, nó thấy Amyus Crowe đang đứng dựa vào cây gậy một cách kiên nhẫn ở cuối con đường. Ông đang nhìn Sherlock chằm chằm.
“Tôi thấy cậu đã gặp con gái tôi”, cuối cùng ông ta nói với giọng giống của Virginia.
“Có vẻ cháu không gây được ấn tượng tốt với cô ấy”. Sherlock thú nhận.
“Chẳng có ai gây được ấn tượng tốt với con bé. Suốt ngày nó cưỡi ngựa rong ruổi ở đồng quê, ăn mặc thì giống như con trai”. Miệng ông ta vẹo sang một bên nhăn nhó. “Không thể trách con bé. Bị lôi từ Albuquerque sang đây đủ để làm cho một đứa trẻ rơi vào tâm trạng xấu, mà không-” Ông ta đột ngột ngưng lại, Sherlock có cảm giác ông ta đã sắp nói một điều gì đó và tự dừng lại kịp. “Cậu gặp tôi có chuyện gì không, hay chỉ là muốn học bài mới?”
“Thật ra thì có chuyện”, Sherlock nói. Nó nhanh chóng tóm tắt mọi việc xảy ra ở Farnham cho Crowe – người đàn ông với đám bột màu vàng, căn nhà kho, đám cháy. Nó kể một hơi đến hết, ý thức được là nó đang thừa nhận điều có thể được gọi là hoạt động phạm pháp nếu nhìn vào vẻ mặt khó đoán của Crowe khi nghe kể.
Nghe xong hết, Crowe chỉ lắc lắc đầu nhìn ra phía xa. “Cậu đã trải qua những chuyện thật hấp dẫn”, ông nói. “Nhưng tôi không chắc là tất cả mọi thứ nói lên điều gì. Vẫn có hai người chết, và bệnh dịch có khả năng bùng phát. Nếu cậu cần biết ý kiến của tôi thì nó sẽ là: Đừng lo lắng. Hãy để các bác sĩ và nhân viên công vụ giải quyết vấn đề này. Có một qui luật rất có ích trong cuộc sống là ta không nên cố gắng tham gia tất cả các trận chiến xuất hiện trên đường đời của chúng ta. Hãy chọn những trận chiến quan trọng và để những người khác giải quyết những trận còn lại. Trong trường hợp này thì đây không phải là trận chiến của cậu”.
Sherlock cảm nhận sự thất vọng trào lên bên trong nhưng nó giữ yên lặng. Nó có cảm giác rất mạnh rằng đây là trận chiến của nó, nếu không ai khác trông thấy gã đàn ông trên xe ngựa hay nghĩ về tầm quan trọng của chất bột màu vàng, nhưng Amyus Crowe có lý. Có lẽ việc cố thuyết phục Crowe rằng có chuyện đang xảy ra không phải là cuộc chiến mà Sherlock nên tham gia. Có lẽ có cách khác để giải quyết mọi chuyện.
Thay vì vậy nó hỏi, “Vậy thời khóa biểu của hôm nay là gì?”
“Tôi tin là chúng ta chưa nói hết chuyện loại nấm nào có thể ăn được”, Crowe đáp. “Hãy đi một vòng và xem chúng ta có thể tìm thấy gì. Nhân tiện, tôi sẽ chỉ cho cậu vài loại cây dại có thể ăn sống, nấu ăn hoặc nấu thành một loại nước uống để giảm đau”.
“Hay quá”, Sherlock nói.
Vài tiếng tiếp theo, nó và Amyus Crowe lang thang xuyên qua vùng đồng quê gần đó, ăn thử những thứ an toàn và dễ hái. Dù tâm trạng không thoải mái, Sherlock cũng học được rất nhiều về việc sống ở nơi hoang dã, và không chỉ sinh tồn mà còn sống khỏe. Crowe còn chỉ nó cả việc làm một cái giường ngủ tiện nghi bằng cách chồng những nhánh dương xỉ diều hâu lên cao bằng vai, leo lên đó dùng sức nặng của mình để làm cho nó xẹp xuống bằng chiều dày và độ mềm mại của một tấm nệm.
Sau đó khi đạp xe về lại Trang viên Holmes, nó cố nghĩ về chuyện hai người chết, nhà kho cháy, đám bột màu vàng và đám mây chết chóc bí ẩn biết trườn, nhưng ý nghĩ của nó thường xuyên bị cắt ngang bởi hình ảnh mái tóc đỏ của Virginia xõa quanh vai, sự kiêu hãnh, cái lưng thẳng, bộ đồ cưỡi ngựa ôm sát và cái thân mình nhún nhảy khi cô phi ngựa đi. Nó nhớ lại mẫu bột vàng nó hớt trên mặt đất trong rừng và cất trong phong bì. Nếu những gã giang hồ trong nhà kho nói đúng thì có thứ gì đó liên quan đến cái chết của hai người đàn ông có thể gây lây, nhiễm bệnh hoặc ít nhất là gây vấn đề về sức khỏe nếu chạm phải. Tạm coi như đám bột vàng chính là nguyên nhân, nó cần tìm ra đám bột đó là gì bất chấp sự cảnh báo tế nhị của Amyus Crowe. Chắc chắn nó không có đủ kiến thức hay dụng cụ để tự tìm hiểu việc này. Nó cần một nhà hóa học hay một người bào chế thuốc hoặc ai đó tương tự có thể phân tích đám bột, và nó không thể tìm ra ai như vậy ở Farnham. Trên đường anh nó đưa nó đến Farnham, họ có đi qua Guildford. Do Guildford là thị trấn lớn gần nhất nên đó cũng là nơi nó có thể tìm ra ai đó có kiến thức về khoa học tự nhiên để cho nó biết chất bột đó là gì. Amyus Crowe có nhắc đến một chuyên gia ở đó – Giáo sư Winchcombe. Có lẽ Sherlock có thể đi gặp ông ta.
Việc nó phải làm bây giờ là đi Guildford.