CHƯƠNG 7
Ngày hôm sau, Sherlock tìm được Matty Arnatt ở chợ. Nó bắt đầu có thể đoán được chỗ của Matty. Lúc này đã gần trưa, những người buôn bán ở chợ đã làm việc từ sáng sớm đến giờ. Có lẽ họ đang nghĩ tới bữa ăn và có thể thay nhau đi tìm gì đó để ăn – một người phải trông chừng hai quầy hàng trong khi người kia đi mua bánh mì, thịt, hoặc bánh nướng và có thể là một vại bia. Điều này có nghĩa là giờ ăn trưa là một trong những lúc họ ít chú ý nhất, vì thế Matty có cơ hội thó một ít trái cây hoặc rau từ một góc quầy hàng mà không bị phát hiện. Sherlock không đồng tình với việc trộm cắp, nó nghĩ vậy, nhưng nó cũng không đồng tình với việc có người bị chết đói và những đứa trẻ bị thu gom và đưa vào các trại tế bần, vì vậy nó cho là chuyện này lâm vào thế khó xử về đạo đức, và thành thật mà nói nó cũng bực bội với Matty về những trái táo bị sâu cắn nham nhở. Việc này chẳng làm Đế chế sụp đổ.
Chợ nằm trên một bãi đất nhỏ với ba mặt là những tòa nhà. Có những quầy bán hàng đống hành và củ cải, khoai tây và củ cải đường và nhiều loại rau đủ đầy màu sắc mà Sherlock thậm chí không nhận ra là rau gì. Các quầy khác treo lủng lẳng các đùi thịt muối trên móc với hàng lũ ruồi vo ve xung quanh, và cá thì nằm trên lớp rơm. Nhiều người bán vải và quần áo – dạ thô và vải chéo go, barragons và vải chéo len, tub green và vải xéc. Một bãi quây thú dã chiến đang nhốt bầy cừu và vài con heo đang nằm dài ngủ bất chấp sự ồn ào. Bao trùm lên tất cả là sự pha trộn giữa các loại mùi, và chỉ một chút thoang thoảng mùi thối rữa trong không khí. Sherlock nghĩ, khi mặt trời lặn nơi này sẽ toàn mùi hôi thối của rau hư và cá ươn, lúc đó hầu hết những người mua hàng đã ra về, chỉ còn lại những người nghèo ở địa phương nán lại với hy vọng những người bán sẽ bắt đầu hạ giá để giải quyết hàng tồn.
Bầu không khí ở chợ dường như khá yên lặng. Nó không náo nhiệt như Sherlock nhớ. Thay vì sự chen lấn, hối hả mà một cái chợ nhỏ ở thị trấn phải có, nơi mọi người xem như một sự kiện xã hội – một cơ hội để mua bất cứ món gì họ cần, những người đi chợ dường như tìm thẳng tới những món họ cần và mua ngay mà không trả giá rồi đi ngay.
“Crowe có nhà không?”, Matty hỏi khi Sherlock đến. Nó đang ngồi trên một cái kiện gỗ thưa úp ngược, chăm chăm quan sát những người bán hàng để tìm một khoảnh khắc bất cẩn của họ.
“Lúc đầu thì không, nhưng có gặp con gái của ông ta”.
“À mình có thấy con bé ở quanh đó”.
“Đáng lẽ cậu nên nói trước với mình về nó”, Sherlock than phiền. “Mình rất sửng sốt, mình không nghĩ đến việc gặp nó ở đó. Mình hẳn trông như thằng ngốc”.
Matty liếc nhìn Sherlock một lúc, từ đầu đến chân. “Đúng, khá giống”, nó nói.
Sherlock cảm thấy mắc cỡ, nó đổi đề tài. “Mình có một ý–”
Nó ngừng lại vì Matty bất thình lình đâm bổ vào đám đông, chen vào giữa những người mua hàng như một con lươn. Sau vài phút, thằng nhóc quay lại, phủi đất khỏi miếng bánh thịt heo. “Miếng bánh rớt ra khỏi quầy”, nó nói một cách hãnh diện. “Mình đang chờ chuyện đó xảy ra. Nhiều hàng thế, chất lên cao thế thì cuối cùng cũng phải có thứ bị rớt thôi”. Nó cắn một miếng lớn rồi đưa qua cho Sherlock.
“Nè, ăn thử đi”.
Sherlock gặm một chút ở phần rìa bánh. Nó mặn, có vị của bơ và chắc. Nó cắn thêm miếng nữa, và ngoạm được một miếng nhân thịt hồng hồng và mỡ thịt đông trong suốt bên trong bánh. Phần nhân thịt giàu hương vị, có rải những mẩu trái cây nhỏ – có lẽ là mận chăng? Dù là trái gì đi nữa thì sự kết hợp này ngon tuyệt.
Nó đưa miếng bánh lại. “Mình đã ăn ít táo và phô-mai rồi”, nó giải thích. “Cậu ăn hết đi”.
“Cậu vừa nói là cậu có một ý tưởng”.
“Mình cần phải đi Guildford”.
“Đi xe đạp mất vài giờ đó”, Matty trả lời, mắt nó vẫn dán chặt vào chỗ đám đông.
Sherlock nhớ lại chuyến đi của nó từ Trường Nam sinh Deepdene tới Farnham, ngang qua Guildford và Aldershot.
Nó không đặc biệt thích thú với việc đạp xe nguyên quãng đường đến Guildford rồi quay lại, và nó cũng không chắc là nó có thể đi được trong vòng một ngày – và còn phải tìm chuyên gia để hỏi về chất độc và bệnh dịch nữa.
Nó thở dài. “Thôi quên đi”, nó nói. “Đó là một ý nghĩ ngu ngốc”.
“Không nhất thiết”, Matty đáp lại. “Còn có cách khác để đi Guildford”.
“Mình không biết cưỡi ngựa, mà mình cũng không có ngựa”.
“Xe lửa thì sao?”
“Mình cần làm việc này bí mật – không thể để ai biết. Bà Eglantine có vẻ thân thiết với tay trưởng ga. Mình không muốn để bà ta biết hết việc mình làm”.
Bà ấy không phải là người bạn của gia đình . Những từ trong lá thư của Mycroft bất ngờ xuất hiện trong đầu, làm nó rùng mình.
“Còn có đường khác”, Matty nói một cách thận trọng.
“Đường gì?”
“Sông Wey”.
“Đường nào?”
“Không phải, sông Wey. Con sông Wey chạy từ đây đến Guildford”.
Sherlock cân nhắc ý tưởng đó một chút. “Chúng ta cần một chiếc thuyền”. Và rồi trước khi Matty kịp nói gì nó reo lên, “Và cậu có một chiếc – ít nhất là một chiếc thuyền nhỏ!”
“Và một con ngựa để kéo nó”.
“Mất bao lâu để tới đó?”
Matty ngẫm nghĩ một lúc. “Có lẽ là cũng lâu bằng đi xe đạp nhưng ít tốn sức hơn. Mình nghĩ hôm nay không thể đi được. Cậu gặp mình sáng mai lúc bình minh, chúng ta sẽ có một ngày trên sông nước, nhưng với cách này cậu sẽ không có nhiều thời gian ở Guildford”.
“Nếu tụi mình đi trước lúc bình minh thì sao?”
Matty liếc nó một cách tò mò. “Chú thím cậu không lo lắng à?”
Đầu Sherlock kêu ong ong như chiếc đồng hồ quả lắc lớn sắp báo giờ. “Mình sẽ quay về lúc ăn tối, xong nói với họ là mình đi ngủ. Mình sẽ lẻn ra khỏi nhà sau đó, khi trời tối và mọi người đã ngủ – Mình chắc là làm được. Chưa có ai kiểm tra mình cả. Mình sẽ để lại một tờ giấy nhắn ở phòng ăn là mình dậy sớm trước giờ ăn sáng để ra ngoài với Amyus Crowe. Đến sáng mọi người mới trông thấy tờ giấy đó. Cách này sẽ thành công”.
“Nhánh sông gần nhà chú cậu”, Matty nói. “Mình sẽ vẽ bản đồ cho cậu và tụi mình sẽ gặp nhau ở đó. Chúng ta sẽ ở Guildford vào buổi sáng và về đây trước lúc mặt trời lặn”.
Matty nhanh nhẹn dùng một miếng đá nhọn vẽ bản đồ trên một miếng gỗ nó kéo ra từ cái kiện gỗ nó đang ngồi lên. Sherlock ngờ rằng thằng nhóc không biết chữ, nhưng tấm bản đồ nó vẽ rất hoàn hảo và gần như chính xác về mặt tỷ lệ. Sherlock có thể hình dung ra nơi bọn nó sẽ gặp nhau.
“Mình cần cậu giúp một việc”. Sherlock nói.
“Việc gì?”
“Hỏi thăm xung quanh. Tìm hiểu về người đàn ông đã chết – người chết ở căn nhà mà cậu đã đứng bên ngoài đó.
Tìm xem anh ta đã làm gì”.
“Ý cậu muốn biết gì?’
“Công việc của anh ta. Chỗ anh ta kiếm tiền. Mình có cảm giác điều này quan trọng”.
Matty gật đầu. “Mình sẽ làm những gì có thể,’ nó nói, “Nhưng người ta thường không nói hết mọi chuyện với một thằng bé đâu”.
Sau đó mọi thứ đều suôn sẻ. Sherlock đạp xe về trang viên vừa kịp lúc mọi người trong nhà đang ngồi xuống để ăn trưa. Nó cố suy xét cẩn thận kế hoạch của mình, phân tích từng bước đi để đối phó với những sự việc bất ngờ xảy ra và kiểm tra những chi tiết để loại trừ sai sót, nhưng nó phát hiện ra ý nghĩ của nó vẫn không ngừng xoay quanh Virginia Crowe. Nó không thể nào đẩy ra khỏi đầu đường nét của gương mặt con bé và mái tóc chảy như thác của nó.
Amyus Crowe đến sau buổi ăn trưa, và ngồi nhiều tiếng cùng nó ở hàng hiên để kiểm tra quy trình suy nghĩ của nó bằng những trò chơi trí não và các câu đố. Có một thứ đặc biệt mắc kẹt trong đầu nó.
“Hãy tưởng tượng là có ba người muốn chia nhau tiền phòng khách sạn”, Crowe nói. “Giá phòng là ba mươi shilling một đêm bao gồm ăn sáng và tối – rõ ràng là một nơi có tiếng tăm. Vì thế mỗi người sẽ trả cho người quản lý mười shilling.
Cậu theo kịp không?’ Sherlock gật đầu. “Tốt. Vào sáng hôm sau người quản lý nhận ra anh ta đã mắc một sai lầm nghiêm trọng. Có giá đặc biệt cho căn phòng đó do khách sạn đang sửa chữa. Vì thế anh ta bảo một cậu hầu phòng mang năm shilling đến trả lại cho họ. Bọn họ rất vui nên giữ lại mỗi người một shilling và boa cho người hầu phòng hai shilling. Vì thế cuối cùng bọn họ trả mỗi người chín shilling thay vì mười, và cậu bé hầu phòng thì được 2 shilling. Đúng không?”
Sherlock gật đầu lần nữa nhưng đầu nó đang tính rất nhanh. “Khoan đã – nếu cuối cùng mỗi người trả 9 shilling thì tổng cộng có 27 shilling tất cả. Cộng thêm 2 shilling người hầu phòng nhận là 29 shilling. Vậy còn 1 shilling bị mất ở đâu?”
“Cậu nói đúng”, Crowe nói. “Vậy hãy cho tôi biết 1 shilling đang ở đâu”.
Sherlock bỏ ra cả hai mươi phút tiếp theo để tính toán, đầu tiên là tính nhẩm và sau đó tính trên giấy. Cuối cùng nó thừa nhận là bó tay. “Cháu không biết”, nó nói. “Người quản lý trả lại 5 shilling vì vậy ông ta không giữ nó, mỗi người đàn ông lấy 1 shilling vậy họ cũng không giữ luôn”.
“Vấn đề ở đây là cách diễn giải”, Crowe giải thích. “Đúng là ba lần chín shilling là bằng 27, nhưng tiền boa đã nằm trong đó. Sẽ không đúng nếu cộng 2 shilling tiền boa vào để thành 29 shilling. Nếu cậu sắp xếp lại bài toán, cậu sẽ nhận ra là bọn họ trả tất cả 25 shilling cho tiền phòng và 2 shilling để boa rồi nhận lại 1 shilling cho mỗi người, tổng cộng đúng 30 shilling. Và kết luận của câu chuyện này là…?”
Sherlock gật đầu. “Đừng để ai khác diễn giải vấn đề cho mình bởi vì họ có thể dẫn dắt mình đi sai hướng. Hãy lấy những chi tiết mà họ cung cấp, sau đó sắp xếp lại vấn đề theo cách hợp lý để mình có thể giải quyết được nó”.
Amyus Crowe đi khỏi trước buổi ăn tối, và Sherlock quay lại phòng mình để suy nghĩ những thứ vừa học. Nó trở xuống lại để yên lặng ăn tối trong khi chú nó đọc sách còn thím nó thì độc thoại. Bà Eglantine quan sát nó với vẻ ngờ vực từ một phía của phòng nhưng nó không nhìn bà ta. Đoạn đối thoại duy nhất là khi chú nó ngước lên trên quyển sách đang đọc và hỏi người quản gia: “Bà Eglantine, chúng ta có thức ăn dự trữ nào trong vườn của trang viên không?”
“Đối với rau, chúng ta trồng đủ ăn”, bà nói, miệng nhọn hoắt. “Trứng và gia cầm cũng vậy. Đối với thịt và cá, có lẽ chúng ta có thể cầm cự trong vài tuần nếu dùng dè sẻn”.
Chú Sherrinford gật đầu. “Tôi nghĩ chúng ta nên đề phòng trường hợp xấu nhất. Hãy chuẩn bị để xông khói hay bảo quản bằng cách khác càng nhiều thịt càng tốt. Dự trữ những thứ cần thiết. Nếu bệnh dịch bùng phát ở Farnham, chúng ta có thể bị cô lập một thời gian. Tôi biết là Amyus Crowe đang khuyến cáo phải thận trọng, nhưng chúng ta nên phòng ngừa thì hơn”. Chú quay sang nó. “Nhắc mới nhớ – ông Crowe nói là con không dành nhiều thời gian cho tiếng Latin và tiếng Hy Lạp”.
“Con biết”, Sherlock nói. “Ông Crowe và con tập trung nhiều vào… môn Toán”.
“Thời gian của ông Crowe rất quí giá”, chú Sherrinford trở nên trầm ngâm, đắn đo. “Và anh của con phải trả khá tiền cho ông ta. Con nên cố tận dụng nó”.
“Dạ vâng, thưa chú”.
“Ông Crowe sẽ quay lại vào trưa mai. Có lẽ con nên dịch cho ta vài bài”.
Nhớ lại ước tính của Matty là đến giờ ăn tối bọn nó mới về tới, Sherlock cau mày. Tuy vậy nó không thể nói với chú là nó sẽ đi Guildford. Nó có thể bị cấm đi. Liếc nhìn lên nó bắt gặp bà Eglantine đang nhìn nó chằm chằm bằng cặp mắt nhỏ, tròn và sáng lóe. Bà ta đã biết gì rồi?
“Con sẽ có mặt”, nó hứa, dù khi nói ra là nó biết không thể quay về kịp giờ. Nó lo lắng nghĩ đến việc giải thích khi việc đã xảy ra.
Ăn tối xong nó xin phép về phòng và đẩy mở cửa thư viện. Chú nó vẫn đang ăn trong phòng ăn và cách đây một hay hai ngày chú nói nó có thể đến thư viện nếu muốn, nhưng nó vẫn có cảm giác mình là khách không mời ở căn phòng yên tĩnh với những tấm màn được buông xuống ngăn ánh nắng và với mùi của da và giấy cổ chất đầy mọi ngóc ngách, xó xỉnh. Nó đọc lướt qua các kệ sách để tìm kiếm cuốn nào đó liên quan đến địa lý ở nơi này. Nó tìm được vài bộ sách bách khoa toàn thư khác nhau, những tập san tôn giáo được đóng thành quyển, vô số sách chứa các bài thuyết giáo nó nghĩ là của một mục sư nổi tiếng trước đây, rất nhiều sách về lịch sử của Giáo hội Ki-tô, và cuối cùng nó đến vài kệ đựng sách lịch sử và địa lý của địa phương. Chọn một cuốn sách viết về đường thủy của Surrey và Hampshire, nó rời khỏi thư viện để trở về căn phòng áp mái của nó.
Trong khoảng nửa tiếng, nó đã sáng tác ra được một lá thư giải thích là nó phải ra ngoài sớm và có thể về trễ. Những nỗ lực đầu tiên của nó có quá nhiều chi tiết, đặc biệt là những chi tiết không thật về chuyện nó sẽ làm gì và ở đâu, nhưng không bao lâu sau nó nhận ra rằng thư càng đơn giản và chứa ít thông tin có thể kiểm chứng thì càng tốt. Khi đã viết xong thư, nó nằm dài trên giường đọc quyển sách lấy từ thư viện.
Sherlock đọc thật kỹ quyển sách để tìm thông tin về sông Wey, tốt nhất là một cái bản đồ mà nó có thể nhớ, chẳng bao lâu nó tìm được hơn cả mong đợi. Sông Wey, chẳng hạn, không phải chỉ là một con sông – nó dường như là một thứ được gọi là “đường thủy”. Các con sông có khuynh hướng chảy uốn quanh địa hình theo những hướng không dự đoán được, trong khi đó các con kênh – vốn được đào vì mục tiêu thương mại giữa các thị trấn – chảy thẳng ở những nơi có thể và sử dụng các công trình giống như bậc thang được gọi là “cửa cống” để nâng và hạ mực nước tùy theo địa hình của khu đất. Còn “đường thủy”, nó đọc được, là một con sông được làm để phù hợp cho tàu bè đi lại bằng cách xây dựng các đập và cửa cống – làm biến đổi con sông tự nhiên thành một kiểu giống một con kênh hơn.
Đầu Sherlock ù lên vì những chi tiết của nhiều ngón nghề xây dựng cần thiết để chuyển hướng một con sông theo ý muốn của con người, và thời gian nhiều năm để làm điều đó. Cuối cùng nó cố ngủ vì biết sẽ có một ngày dài trước mặt. Mặc dù đầu óc vẫn rất phấn khích với những ý tưởng, hình ảnh và các sự kiện, nó chìm vào giấc ngủ không mộng mị lúc nào không hay. Khi nó thức, trời vẫn còn tối nhưng một làn gió trong lành đang thổi vào qua cửa sổ và chim bắt đầu hót trên cành và trong các bụi cây. Lúc này là bốn giờ sáng.
Nó yên lặng mặc quần áo, và trong tích tắc nó lẻn qua căn nhà đang nằm trong bóng tối, đi ra đầu cầu thang tầng áp mái rồi xuống cầu thang gỗ hẹp, nó cố bước lên phía ngoài của các bậc thang để không phát ra tiếng cót két, rồi cẩn thận đi dọc theo đầu cầu thang lầu một, đi ngang qua phòng ngủ của chú thím, phòng thay đồ và phòng tắm của họ, cố gắng không thở mạnh, rồi men theo cầu thang chính uốn cong xuống sảnh tầng trệt, đi sát tường và cảm nhận độ nặng của những bức tranh treo bên trên nó, những khung tranh bằng gỗ được chạm khắc trang trí làm bức tranh trông có vẻ nhỏ đi một cách không cân xứng. Chỉ có tiếng động của chiếc đồng hồ lớn đứng ở góc nơi cầu thang tiếp giáp với mặt sàn lát gạch.
Nó ngừng lại khi xuống đến sảnh. Bây giờ nó phải băng qua phần sảnh rộng lát gạch để ra cửa trước. Không còn tường để men theo – nó có thể bị lộ cả người nếu có ai tình cờ ra khỏi cửa hay nhìn xuống từ ban-công tầng trên. Nó quỳ xuống một chút, cố nhìn xem có chút ánh sáng nào dưới các kẹt cửa, nhưng tất cả đều tối om. Cuối cùng nó lấy hết can đảm băng ngang qua sảnh. Ngay khi đến cửa chính, tim nó đập thình thịch nhanh gấp hai lần tiếng tích tắc của đồng hồ.
Cánh cửa được cài then, nhưng nó nhấc then lên và đẩy nhẹ cửa. Sáng nay ai đó sẽ để ý là cửa không cài then nhưng hy vọng họ cho là có người khác đã mở cửa trước mình.
Cánh cửa gần khép lại khi Sherlock chợt nhớ đến lá thư nó cần phải để lại để giải thích lý do nó ra ngoài sớm. Nó tì hết sức nặng vào cửa đẩy nó mở lần nữa, rồi len trở lại vào trong để lá thư lên cái bàn nhỏ trong sảnh bên cạnh giá để mũ, nơi thư sáng và thư chiều thường được để ở đó chờ người đến nhận.
Không khí bên ngoài thật mát và trong lành so với không khí ngột ngạt trong nhà, đã thấy thấp thoáng ánh sáng trên các ngọn cây, nơi bóng đêm đã dần nhường chỗ cho màu xanh dương của bình minh. Sherlock chạy nhanh hết mức có thể khi băng qua con đường trải đá dăm, nghe thấy tiếng đá dăm kêu lạo xạo dưới chân trước khi chạm vào yên lặng khi chạy đến bãi cỏ.
Mất khoảng mười phút để đến bờ sông theo hướng Matty chỉ. Một vật dài màu đen nằm dọc trên con sông ánh bạc, nhấp nhô nhẹ nhàng theo sóng nước. Nó trông lạ lùng như một túp lều dài thấp tè nằm bên trên một chiếc sà lan hẹp. Chỉ có duy nhất một khoảng trống ở phía dưới đuôi, nơi không có mái lều, có sàn thuyền đủ chỗ cho hai người đứng, một trong hai người giữ bánh lái. Một sợi dây thừng buộc vào mũi thuyền võng xuống mặt nước rồi ngóc lên nơi một con ngựa đang yên lặng nhai cỏ trên bờ. Không giống như con ngựa ô non đẹp tuyệt của Virginia Crowe, đây có vẻ là một sinh vật nặng nề với những cái chân mập và cái bờm rậm rạp. Nó tò mò liếc Sherlock một lát, rồi lại tiếp tục ăn.
Matty đang chờ ở đầu mũi thuyền hẹp, một mảng tối in trên nền trời lúc rạng đông, như một tượng người gắn ở mũi tàu hay ở đầu hồi các nhà thờ. Nó đang cầm một cái câu liêm – một cái sào dài bằng gỗ có một cái móc bằng kim loại ở một đầu.
“Đi thôi”, nó nói khi Sherlock trèo lên thuyền. “À nhân tiện, đó là Albert”. Nó tặc lưỡi. Con ngựa quay lại nhìn nó với vẻ luyến tiếc trên khuôn mặt dài, rồi bắt đầu bước dọc bờ sông. Sợi dây giữa nó và chiếc thuyền căng ra, rồi chiếc thuyền bắt đầu chuyển động khi Albert kéo nó đi. Matty dùng cái sào cắm thuyền đẩy chiếc thuyền hẹp ra xa khỏi bờ để nó không bị mắc vào đám sậy.
“Con ngựa có biết nó đang đi đâu không?” Sherlock hỏi.
“Biết nghĩa là gì? Nó đi dọc theo bờ sông kéo thuyền phía sau. Nếu gặp vật cản, nó sẽ ngừng lại và mình sẽ giải quyết vấn đề. Cậu ở phía sau và đặt tay lên bánh lái. Nếu chiếc thuyền bắt đầu trôi giạt ra phía ngoài sông thì cậu lái nó hướng về phía bờ. Có một cái mền trên boong, nếu cậu thấy lạnh. Đó là mền của con ngựa, nhưng nó sẽ giữ cho cậu ấm như một cái mền xịn”.
Chiếc thuyền hẹp trôi đi. Nước vỗ hai bên mạn thuyền theo một nhịp điệu đều đều ru nó ngủ lơ mơ gần như trong trạng thái thôi miên. Không có gì trên sông ngoại trừ sự xuất hiện hiếm hoi của vài con vịt hoặc ngỗng.
“Cậu có tìm được gì về người đàn ông bị chết không?”, sau một lúc Sherlock hỏi với lên. “Người đầu tiên. Gã ở trong nhà đó”.
“Anh ta là thợ may”, Matty hét lớn để trả lời. “Làm việc cho một công ty chuyên may quân phục ở Aldershot. Đơn hàng lớn, hình như vậy, vì thế công ty đang tuyển mọi người địa phương có khả năng cắt và ráp”.
“Làm thế nào cậu biết?”
Matty cười lớn. “Mình nói mình là con của ông ta, và mẹ mình muốn tìm xem ông ta có được chủ trả cho chút tiền nào không. Hình như anh ta còn vài tháng lương chưa lãnh nhưng người chủ nhà trọ đã nhắm để xiết tiền thuê phòng”.
“Thế công ty đó ở đâu?”
“Văn phòng chính ở gần chợ, nhưng họ có nhà kho ở ngay bên ngoài thị trấn nơi gã đó làm việc. Có thể đó là chỗ bị đốt trụi!”
Sherlock ngẫm nghĩ trong khi chiếc thuyền trôi theo lực kéo của con ngựa. Người đàn ông chết là thợ may, chuyên may quân phục. Căn nhà kho anh ta làm việc chất đầy thùng vuông, những cái thùng được bọn họ chất lên xe ngựa. Các thùng đựng quân phục? Dường như là vậy. Nhưng điều đó không giải thích được tại sao người đàn ông chết, hay nguyên nhân cái chết, và không giải thích được về cái chết của người đàn ông thứ hai, gã trong rừng.
Bầu trời ở hướng đông màu tím đậm như da mới bị bầm, và hàng cây dọc bờ sông hiện ra như những hình thù tối hơn nổi trên lớp phông tối. Một ngôi sao cô đơn đang chiếu lấp lánh gần đường chân trời. Phía trước, Sherlock nhìn thấy một vòm cong màu đen băng ngang đường chúng đi: có lẽ là một cái cầu. Có thể đó là cây cầu mà chỉ một hay hai ngày trước nó và Matty đã ngồi ngắm cá bơi dưới sông.
Albert hí lên giống như có điều gì đó làm nó hoảng sợ. Sherlock nhìn chằm chằm lên bờ, cố gắng phân biệt hình dáng của con vật và bóng tối của bờ giậu chạy dọc theo bờ. Tiếng vó ngựa gõ trên đường đã thay đổi. Đối với Sherlock tiếng động này giống như con ngựa đang cố thoát ra khỏi một thứ gì đó đang ở quá gần nó.
Matty điềm tĩnh nói điều gì đó, giống như là một tiếng động để trấn an con ngựa hơn là những lời nói thật sự – nhưng Sherlock có thể nhận ra từ giọng nói là nó đang lo lắng. Chuyện gì đã xảy ra? Có phải một con chó hoang đang lởn vởn xung quanh làm cho con ngựa sợ, hay là con ngựa ngửi thấy mùi gì đó nó không thích?
Sherlock vừa muốn gọi Matty hỏi xem có vấn đề gì thì trên cầu có một cái gì đó di chuyển ngay phía trên cái bóng của đầu và vai Matty.
Sherlock dán mắt vào cái bóng đen đang băng qua sông trên đầu họ. Có một điều gì đó phá vỡ cái vòm cong êm ái của chiếc cầu: một cái bóng dị dạng ở vị trí hơi lệch khỏi điểm giữa cầu. Hai cái bóng dị dạng, khi một cái bóng thứ hai nhập hội cái bóng đầu tiên. Họ tụ lại với nhau vài giây, hai thân người cúi xuống chụm lại và rồi tách ra.
Cư dân ở Farnham, ra ngoài sớm vậy sao? Những kẻ câu trộm, có lẽ đúng hơn.
Suy luận của Sherlock sai ngay khi nó nhìn thấy ngọn lửa bùng lên từ que diêm trong giây lát soi sáng khuôn mặt ngăm đen mà nó nhận ra ở căn nhà kho.
Gã đó tên là Clem.
Ngọn lửa tạo thành luồng ánh sáng ấm áp trên chiếc cầu đá. Clem đang giơ cây đèn dầu lên cao chiếu ánh sáng của nó xuống chiếc thuyền hẹp đang dần tiến tới. Ngay khi thuyền của bọn nó vừa đến cầu, Sherlock có thể thấy một nụ cười độc ác nở trên môi hắn. Ánh sáng từ cây đèn làm rõ hình dáng Matty khi nó đứng ở mũi thuyền. Nó dường như muốn nói gì đó, nhưng Clem vung cây đèn lên cao qua đầu làm cho bóng hắn nhảy nhót khắp nơi, rồi ném cây đèn xuống đầu Matty.
Matty hụp đầu xuống, chiếc đèn nảy lên hai lần trước khi bể nát ở đuôi thuyến, dầu cháy bắn ra khắp nơi. Những tia lửa nhỏ bắt nhanh lên gỗ, liếm một cách đói khát lên lớp gỗ mặt. Sherlock nhìn quanh. Chúng đang ở trên sông, ôi trời, và nó nhận ra là nó không có cách nào để đưa nước lên những chỗ cần thiết!
Mắt nó dán lên tấm mền ngựa mà Matty đã chỉ cho nó, xếp thành đống trong góc của sàn gần bánh lái. Sherlock kéo cái mền lên, ném về trước lên đám lửa, tay vẫn giữ một góc để mền không tuột xuống nước. Khói bốc lên từ bên dưới mền nhưng lửa đã tắt. Sherlock kéo mền về hướng mình. Phân nửa đám cháy đã tắt nhờ cái mền dày nhưng những tàn lửa vẫn còn âm ỉ ở các khe gỗ trên thuyền.
Matty la lên khi một cái đèn dầu khác đụng vào cạnh thuyền gần đầu Sherlock rồi rớt xuống sông, chỗ đèn chìm nghe xèo một tiếng khi chiếc bấc đèn đụng vào nước. Sherlock xoay người nhúng cái mền xuống nước ở một bên thuyền, tay vẫn nắm chắc một góc mền. Trước khi cái mền thấm đẫm nước, nó kéo lên khỏi mặt nước và phủ lên mặt gỗ một lần nữa. Lúc này các tàn lửa kêu xèo khi bị cái mền ướt dập tắt.
Sherlock nhìn chằm chằm lên cầu khi chiếc thuyền hẹp đi qua dưới vòm cầu, lo là chiếc đèn thứ ba sẽ được ném xuống đầu nó nhưng sự tấn công không còn nữa. Thay vào đó Sherlock kinh hoàng khi thấy một bóng người nhảy xuống hướng vào nó. Clem vừa nhảy xuống. Hắn đụng nóc thuyền, làm gỗ gãy răng rắc dưới đôi ủng. Hắn rớt xuống phía sau sàn thuyền. Lồm cồm đứng dậy, răng nghiến chặt, mắt trắng dã, hắn tiến về phía Sherlock. Hạ tay phải xuống thắt lưng, hắn rút ra một con dao cong nhọn hoắt.
“Mày nghĩ mày có thể đột nhập nhà kho của tụi tao rồi trốn thoát được à?”, hắn gầm gừ. “Mày bị nhìn thấy chạy ra khỏi ngọn lửa như một con chuột nhắt”. Hắn vươn tay trái ra nắm tóc Sherlock. “Chuẩn bị đi chầu trời đi!”
Sherlock lùi dần vào trong góc sàn thuyền nhỏ xíu, nó cảm thấy một luồng gió nhẹ từ những ngón tay Clem sượt qua trước mắt nó. Gã đàn ông ở gần đến nỗi Sherlock ngửi thấy mùi mồ hôi hôi thối bốc lên từ bộ quần áo xù xì và nhìn thấy cặn bẩn bám dưới các móng tay sứt mẻ của hắn.
Clem chồm người tới và xoắn các ngón tay vào tóc Sherlock, kéo thằng bé tới trước. Sherlock không thể la lên nổi vì cơn đau điếng khi tóc nó gần như bị giật mạnh khỏi da đầu. Trong một khoảnh khắc, thật kỳ lạ, hình ảnh của Albert đang nhai cỏ ngoài bờ sông lại tràn ngập trong đầu nó.
Clem kéo Sherlock đến sát áo hắn và nhìn chằm chằm vào mắt thằng bé. Sherlock cảm thấy bàn tay phải cầm dao của hắn đang hướng lên cổ họng nó. Chỉ vài giây nữa là nó bị cắt cổ, và nó thậm chí không biết tại sao!
Một thứ gì đó đập mạnh vào lưng Clem. Mắt hắn trợn lên vì choáng, và Sherlock cảm thấy bàn tay đang nắm chặt tóc nó buông lỏng. Nó bước ra sau một bước, đẩy Clem ra bằng cả hai tay. Gã đàn ông không chống lại, mà loạng choạng lùi lại trước khi đảo người một vòng, bước từng bước cực kỳ cẩn thận.
Matty đang đứng đằng sau Clem. Nó đang giơ cao thanh câu liêm trên hai tay. Trong một khoảnh khắc Sherlock hoàn toàn không thể lý giải điều gì đã xảy ra, và rồi, khi Clem quay hẳn người về phía Matty, Sherlock nhìn thấy một vết thương dài, sâu và đẫm máu chạy dài từ đỉnh đầu đến cái cổ mập đầy cơ bắp. Da hắn bị toạc ra và Sherlock có thể thấy xương trắng dưới đám máu. Matty đã đánh vào sau đầu hắn rất mạnh bằng cái câu liêm.
Clem bước một bước đến Matty, rồi thêm một bước nữa. Hắn giơ cánh tay đang cầm chặt con dao lên, nhưng dường như hắn không biết nên làm gì với nó. Hắn nhìn chằm chằm vào con dao một cách ngu ngốc, và rồi hắn ngã người ngang qua, rơi khỏi chiếc thuyền hẹp xuống sông như một cái cây bị đốn ngã. Khi hắn chạm vào mặt nước, nước bắn lên hầu như đến tận cây cầu. Trong một tích tắc, Sherlock có thể nhìn thấy mặt Clem khi hắn chìm xuống nước, cái vẻ không thể tin được trong cặp mắt điên dại của hắn, và rồi hắn dần biến vào trong bóng tối và cặn bùn ở đáy sông. Tay hắn là thứ cuối cùng biến mất, những ngón tay ve vẩy như rong rêu trong dòng nước, và rồi chúng cũng biến mất.