← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 8

Sherlock vẫn còn run rẩy khi mặt trời đã lên khỏi chân trời và treo lơ lửng như trái cây chín mùi trên bầu trời phía sau bóng đen của những hàng cây. Bên vai bị Clem bấu chặt đau xé lan xuống lưng nó. Nếu nhìn chắc chắn nó sẽ thấy những vết bầm trên đó -năm vết bầm hình bầu dục do năm ngón tay để lại.

Sau cuộc tấn công, khi Clem đã chìm xuống nước và gã đồng bọn tháo chạy, Matty và Sherlock chỉ nhìn sững nhau một lúc, chúng vẫn còn sốc vì chuyện bạo lực xảy ra đột ngột và cái kết cũng đột ngột không kém.

“Hắn ta không cố cướp chiếc thuyền”, sau cùng Matty lẩm bẩm. “Hắn cố phá hủy nó. Trước đây cũng có những gã muốn cướp thuyền nhưng tại sao lại có người muốn đốt nó? Mình chưa bao giờ gặp chúng trước đây. Mình đã từng làm gì chúng sao?”

“Chúng muốn mình”, Sherlock miễn cưỡng nói. “Đó là một trong những gã ở nhà kho. Mình nghĩ hắn là tên đứng đầu – ít nhất là đứng đầu những gã ở đó. Gã Nam tước mà chúng nói đến mới thật sự là tên đầu sỏ. Hẳn là hắn đã nhìn thấy mình rời khỏi nhà kho đang cháy và nhận ra là mình đã nghe lỏm mọi việc. Nhưng mình không biết làm sao chúng theo dấu chúng ta đến tận chiếc thuyền”. Nó lắc đầu không tin. “Chúng đang làm gì đến nỗi sẵn sàng giết chúng ta để bảo vệ bí mật? Việc gì quan trọng đến vậy?”

Matty nhìn Sherlock chằm chằm như thể nó bị phản bội, rồi nó đột ngột quay đi giật sợi dây thừng để khiến con ngựa đi tiếp.

Và giờ đây, khi mặt trời đang lên cao và vai Sherlock đang đau như khi răng bị sâu, bọn nó đang đi vào khu vực Guildford, và nó vẫn không tìm ra được điều nó muốn biết. Trong đầu nó chỉ toàn những câu hỏi, và cuộc tấn công đã bồi tiếp những câu hỏi mới.

Một bầy chó lôi thôi lếch thếch đi theo chúng dọc bờ sông, dõi theo với hy vọng sẽ được quăng cho vài thứ đồ ăn. Sherlock thoáng cười, về mặt này thì bọn chúng giống Matty. Nó liếc ra phía trước, nhìn gáy Matty, và nụ cười tắt dần trên mặt. Nó đã đặt chiếc thuyền của thằng nhỏ – ngôi nhà thực sự và duy nhất mà Matty sở hữu – vào tình thế nguy hiểm. Tệ hơn nữa là nó đưa cuộc sống của thằng nhỏ vào tình thế nguy hiểm. Và tất cả vì cái gì?

Bây giờ đã có người xuất hiện ở hai bên bờ sông. Vài người rõ ràng là đang trên đường vào hoặc ra khỏi thị trấn, họ sử dụng bờ sông như một tuyến đường thuận tiện, trong khi những người khác thì đang ngồi trên những cái thùng và vẩy mấy cái cần câu tạm bợ xuống nước với hy vọng kiếm vài con cá cho bữa sáng. Trên trời phía trước chúng có khói bốc lên, vì cư dân Guildford đang bắt đầu nấu nướng cho ngày hôm đó. Nhà cửa bắt đầu xuất hiện dọc hai bờ: những căn lán tạm bợ được dựng từ những thanh gỗ đóng chằng đóng chéo và những nhà khá giả hơn xây bằng gạch. Những phiến đá lát đường bắt đầu xuất hiện, ban đầu chỉ rời rạc nhưng dần dần hình thành cả một con đường lát nhiều loại đá chạy dọc bờ nước.

Một lúc sau, khi bọn nó bắt đầu tiến dần đến một cụm các ngôi nhà trông giống như nhà kho tụ thành một đám trên bờ sông, Matty bắt đầu kéo dây thừng. Con ngựa đi chậm lại, và chiếc thuyền nhẹ nhàng đi men vào trong bờ. Matty chọn thời điểm rất khéo: cuối cùng chiếc thuyền dừng lại ngay cạnh một vòng sắt lớn được gắn vào một trong những tảng đá. Sherlock nghĩ Matty sẽ quấn dây thừng quanh cái vòng sắt, nhưng Matty lại đi đến mũi thuyền và kéo ra một sợi dây xích có vẻ như được gắn vào một lỗ đục âm vào gỗ. Nó ném sợi dây xích lên bờ rồi nhảy lên theo. Quấn dây xích xung quanh cái vòng sắt xong, nó lấy từ trong túi áo ra một ổ khóa lớn đã cũ và móc nó qua vài mắt xích.

“Không thể tin bất kỳ ai quanh đây”, nó làu bàu mà vẫn không nhìn Sherlock. “Họ có thể cắt dây thừng, nhưng một sợi dây xích và khóa móc sẽ làm họ mất nhiều thời gian. Mình tính là còn nhiều thời gian hơn cả giá trị của chiếc thuyền”.

“Còn con ngựa thì sao?” Sherlock hỏi.

“Nếu nó tìm thấy ai đối xử với nó tốt hơn mình thì cứ đi”, Matty nói. Nó bước một bước lên cỏ, rồi quay lại nhìn Sherlock. Biểu hiện của nó không hẳn là hối hận, nhưng ít ra bây giờ nó đã chịu nhìn vào mắt Sherlock. “Nó già quá rồi, lại khập khiễng nữa nên không kéo cày hay kéo xe nổi”, nó giải thích. “Kéo thuyền là hết mức của nó rồi và ngay cả thế nó vẫn chậm. Nó không đáng để trộm”.

“Mình xin lỗi vì chuyện đã xảy ra”, Sherlock nói, ngượng nghịu.

“Không phải lỗi của cậu”, Matty nói, đưa tay áo lên chùi miệng. “Cậu bị rơi vào một chuyện và nó bám chặt lấy cậu. Mình cũng bị vướng vào. Tốt nhất là chúng ta cố thoát ra càng nhanh càng tốt, rồi tiếp tục việc của mình”. Nó nhìn quanh. “Đây là bến tàu Dapdune”, nó nói. “Nếu chúng ta bị lạc nhau, có thể lắm, thì nhớ là gặp lại nhau ở đây. Mình sẽ không đi nếu không có cậu”. Nó nhìn Sherlock một cách nghiêm trọng. “Và mình khá chắc là cậu sẽ không thể đi mà không có mình. Bây giờ thì tên của cái lão mà cậu muốn tìm là gì?’

“Giáo sư Winchcombe”, Sherlock nói.

“Vậy thì chúng ta hãy đi tìm ông ta. Trên đường đi, có lẽ chúng ta cần tìm cái gì đó ăn sáng”.

Hai đứa cùng nhau đi khỏi con sông, dọc theo một con đường mòn hứa hẹn dẫn chúng đến một con đường khác lớn hơn. Chúng đi bộ khoảng một tiếng, hỏi thăm vài khách qua đường thì mới phát hiện ra là nhà của Giáo sư Winchcombe ở đường Chaelis, con đường này cắt với Đại lộ. Sau đó chúng mất thêm nửa tiếng để tìm ra Đại lộ, con đường này dẫn lên dốc từ con sông và dọc theo nó có những cửa hàng hai và ba tầng được xây dựng với những xà nhà gỗ đen và tường trát vữa trắng. Bảng hiệu treo bên ngoài: những tấm bảng gỗ vẽ hình cá, bánh mì, rau và đủ loại hàng hóa khác. Những người đi dọc đường và nhìn ngắm hàng hóa trong các cửa sổ bày hàng phần lớn ăn mặc đẹp hơn dân Farnham. Quần áo của họ may bằng loại vải tốt, viền đăng ten và ruy-băng, nhiều màu sắc và sạch hơn là Sherlock từng thấy ở Farnham.

Vài quầy hàng bán trái cây và thịt đông nằm ở cuối Đại lộ, dọc theo một bức tường cao đến thắt lưng ngăn cách thị trấn và con sông. Matty chuẩn bị bò dọc theo bức tường, sau lưng các chủ quầy hàng để tìm kiếm thức ăn rơi khỏi quầy, nhưng Sherlock đã đi tới và dùng một ít tiền trong mớ tiền đã teo tóp mà Mycroft đã gửi cho nó để mua cho cả hai một ít đồ ăn sáng. Matty nhìn nó một cách nghi ngờ: Sherlock có cảm giác là Matty nghĩ rằng thức ăn vì một lý do nào đó sẽ ngon hơn nếu không phải trả tiền. Theo Sherlock biết thì thức ăn sẽ ngon hơn nếu không lăn trong cát bụi hay nếu bạn không phải giành ăn với một con chó.

Đường Chaelis nằm ở nửa trên của Đại lộ, và cả hai đứa mệt hết thở khi đến được đầu đường. Con đường ngoặt gấp che khuất tầm mắt và Sherlock bước dọc con đường, nhưng nó ngừng lại khi nhận ra Matty không đi theo. Nó quay lại nhìn thằng bé dò hỏi.

“Có chuyện gì vậy?”

Matty lắc đầu. “Đây không phải chỗ của mình”. Nó nói, mắt nhìn những căn nhà cao và những vườn cây được chăm sóc cẩn thận nằm dọc đường. “Cậu đi tiếp đi. Mình sẽ chờ ở đây”. Nó nhìn quanh. “Dù sao chăng nữa, một nơi nào đó quanh đây”.

Sherlock gật đầu. Matty nói đúng – vẻ bề ngoài mà bà Eglantine mô tả là “một thằng bụi đời” có thể sẽ gây rắc rối cho chúng. Phủi bụi trên quần áo hết mức có thể, nó đi tiếp.

Căn nhà nó tìm nằm ngay khúc quanh. Nó đẩy cổng và tiến tới cửa chính nằm dưới mái đón kiểu Hy Lạp. Một cái biển bằng đồng được bắt ốc vào một trong các cột, trên đó khắc: “Giáo sư Arthur Albery Winchombe. Giảng viên về bệnh nhiệt đới”.

Trước khi nỗi lo sợ lấn át, Sherlock kéo chuông.

Một người đàn ông trong bộ com-lê đen đơn giản và áo gi-lê xám ra mở cửa. Ông ta nhìn xuống Sherlock qua cặp kính nhỏ chỉ vừa đủ che mắt.

“Giáo sư Winchcombe có nhà không ạ?” Sherlock hỏi.

Người đàn ông – mà Sherlock nghĩ là quản gia – yên lặng một lúc. “Tôi có thể thông báo là ai đến?” Cuối cùng ông ta hỏi.

Sherlock mở miệng, sắp tự giới thiệu mình, rồi lại ngần ngừ. Có lẽ tốt hơn là nó nên nhắc tên một người khác – người mà giáo sư có thể từng nghe nói đến. Có lẽ là Mycroft? Hay Amyus Crowe? Xưng danh ai là tốt nhất?

Cuối cùng nó chọn đại. “Xin vui lòng thông báo với giáo sư là học trò của ông Amyus Crowe mong được tham vấn”. Nó nói.

Người quản gia gật đầu. “Cậu có thể vui lòng chờ ở phòng đợi không?” ông ta hỏi, tay giữ cánh cửa mở. Cư xử với Sherlock như thể nó là quí tộc, chứ không phải là một thằng bé bối rối, ăn mặc nhếch nhác, ông ta ra hiệu về hướng một cánh cửa bên kia sảnh.

Căn phòng được bao phủ bằng loại giấy dán tường có hình những thân cây cao và mảnh mà Sherlock không nhận ra loại cây gì, trông như một loài cỏ khổng lồ. Những cái cây này dường như có các vòng bao quanh thân, cách khoảng đều nhau từ dưới lên trên. Nó mê mẩn mấy cái cây này và vẫn còn đang nhìn chúng thì cửa phòng mở ra và một người đàn ông bước vào. Ông ta nhỏ con – nhỏ hơn Sherlock – và bụng phình ra như thể có độn một cái gối bên dưới áo vét. Ông ta đội một cái mũ nhỏ màu đỏ ngộ nghĩnh không có cả vành lẫn lưỡi trai: trông giống như một cái tháp mập, lùn làm bằng vải lụa đỏ.

“Cây tre”, ông ta nói.

“Xin lỗi?”

“Những cái cây trên giấy dán tường. Cây tre. Nó là loại cây rừng thường xanh lâu năm thuộc họ thân cỏ. Tôi đã ở Trung Quốc nhiều năm khi còn trẻ và trở nên rất quen thuộc với nó. Cậu biết đấy, tre là loại cây rừng tăng trưởng nhanh nhất thế giới. Ở những điều kiện nhất định, những cây to có thể cao lên hơn sáu mươi phân mỗi ngày. À nhân tiện, giấy dán tường này là của Trung Quốc. Giấy gạo”.

Sherlock có vẻ không chắc là nó hiểu đúng. “Giấy làm từ gạo ?”

“Một hiểu lầm thông thường”, Giáo sư đáp lại. “Thực ra, giấy gạo là loại làm từ phần lõi xốp của một loài cây nhỏ, “ Tetrapanax papyrifer ”. Ông ta hất đầu sang một bên. “Cậu nói cậu là học trò của Amyus Crowe?”, ông ta hỏi. Cặp mắt ông ta, đằng sau cặp kiếng, sáng và trông như mắt chim, sinh động đầy sự tò mò.

“Dạ đúng, thưa ngài”, Sherlock nhắc lại, có cảm giác lạ lùng như thể nó đã trở lại Trường Deepdene”.

Tôi vừa nhận được thư của ông Crowe sáng nay. Rất lạ. Quả thực rất lạ. Có phải đó là lý do cậu đến đây?”

“Có phải thư viết về hai người bị chết?” Giáo sư gật đầu. “Đúng là như vậy”.

“Đó là lý do cháu đến đây. Cháu nghe thầy Crowe nói Giáo sư là chuyên gia bệnh học”.

“Tôi chuyên về bệnh nhiệt đới, nhưng cũng đúng, chuyên môn của tôi bao gồm hầu hết những bệnh truyền nhiễm trầm trọng, từ bệnh sốt Tapanuli và Black Formosa Corruption đến bệnh dịch tả và bệnh thương hàn. Tôi nghĩ hai gã đó chết vì một chứng bệnh lạ”.

“Cháu không chắc”. Sherlock lục trong túi áo khoác và lấy ra cái bì thư mà trước đây đựng bức thư của Mycroft, giờ đang chứa mẫu bột màu vàng. “Cháu đã thu thập mẫu này ở gần chỗ của một cái xác, nhưng cháu biết nó có mặt ở cả hai xác chết”, nó nói vội vàng. “Cháu không biết đó là chất gì, nhưng cháu nghĩ nó có liên quan đến những cái chết. Nó có thể là chất độc”.

Giáo sư đưa tay ra cầm cái phong bì. “Trong trường hợp đó, tôi sẽ cẩn thận với thứ này”. Ông nói.

“Ông tin cháu à?” Sherlock hỏi.

“Cháu đã đi một quãng đường xa đến gặp tôi, vì vậy tôi cho là cháu nghiêm túc. Ít nhất tôi có thể coi trọng việc này như cháu. Ngoài ra, tôi biết Amyus Crowe và tôi tin ông ta là một người chính trực. Tôi không thể tin là ông ấy lại nhận một học trò ham mê những trò đùa bỡn”. Ông mỉm cười, đột ngột mặt ông trở nên hiền hậu. “Giờ chúng ta hãy đi xem cái mẫu mà cháu mang đến cho ta”.

Ông ta dẫn Sherlock ngang qua sảnh và vào một phòng khác. Căn phòng này đầy sách, và có một cái bàn lớn đặt cạnh cửa sổ nơi có ánh sáng tốt nhất. Trên bàn là một chiếc kính hiển vi đặt trên tờ giấy thấm màu xanh lá cây, giữa những giấy tờ và báo chí rải rác và ngọn nến đang cháy.

Giáo sư Winchcombe ngồi trên chiếc ghế tựa bọc da sau bàn giấy và ra hiệu cho Sherlock kéo cái ghế khác đến bên cạnh ông. Ông lấy một tờ giấy da dê từ ngăn kéo và đặt nó lên trên tờ giấy thấm cạnh kính hiển vi, rồi cẩn thận rọc nắp bì thư bằng dao rọc giấy và đổ những thứ bên trong lên miếng giấy da. Trong chốc lát, ông ta đã có một nhúm bột vàng trước mặt. Dùng mũi dao rọc giấy, ông lấy một ít hạt bột và để lên tấm kính đựng mẫu đã được kẹp sẵn vào bàn soi kính hiển vi – một cái đĩa phẳng bên dưới các vật kính. Ông điều chỉnh một tấm gương bên dưới bàn soi, nghiêng nó để nó phản chiếu ánh sáng từ nến lên qua một lỗ trên bàn soi và qua tấm kính đựng mẫu để đến các thấu kính. Trong khi Sherlock quan sát, cố gắng không thở quá mạnh để không làm bay các hạt mẫu, Giáo sư nhìn qua kính hiển vi, vặn núm chỉnh hội tụ và sau đó là các núm tinh chỉnh để nhìn rõ các hạt.

“A”, ông nói, và rồi, “Ừm”. Ông tháo cái mũ đỏ ra, gãi đầu, và đội lại cái mũ vào đúng chỗ cũ.

“Nó là cái gì vậy?” Sherlock thì thầm.

“Phấn ong”, Giáo sư nói. “Hoàn toàn không sai”.

“ Phấn ong? ” Sherlock lặp lại, không chắc mình có nghe lầm hay không.

“Đã bao giờ cậu học về loài ong chưa?” Giáo sư hỏi, lưng dựa vào ghế. “Một sinh vật hấp dẫn. Tôi đề nghị cậu nên nghiên cứu về chúng một cách nghiêm túc”. Ông tháo kính và lấy tay xoa mắt. “Bọn ong thu phấn hoa và mang về tổ của chúng”.

“Phấn hoa là cái gì?” Sherlock hỏi, nó có cảm giác thất vọng một cách kỳ lạ. “Cháu có nghe từ này trước đây, nhưng cháu chưa bao giờ hiểu rõ nghĩa của nó”.

“Phấn ong”, Giáo sư nói, “là một loại bột bao gồm microgametophytes, tạo ra giao tử đực, hay tế bào sinh sản, của cây trồng. Phấn hoa được nhị hoa, hay cơ quan sinh sản đực của hoa tạo ra và được gió hay do côn trùng đưa đến nhụy hoa, hay cơ quan sinh sản cái, của một bông hoa khác cùng giống. Ở đó chúng thụ tinh để sinh ra hạt”. Ông xem xét cặp kính của mình, đoạn đeo nó lại lên mũi. Sherlock cố gắng sắp xếp những gì giáo sư nói với nó, nhưng nhận ra rằng ông lại nói tiếp. “Trong trường hợp loài ong, chúng hút phấn từ các bông hoa và mang về tổ trong những viên giống như trái banh ở chân sau. Tất nhiên cái lợi cho cây trồng là trong khi ong bay từ hoa này sang hoa khác, nó làm rớt phấn hoa lấy từ nhị của một bông hoa sang nhụy của một hoa khác, nhờ vậy trợ giúp cho việc sinh sản của cây. Bây giờ, trên những chân sau của ong có những cái lông rất nhỏ, những cái lông này như những cái túi ở đó các con ong cuộn các hạt bụi phấn lại, trộn chúng với mật hoa tạo thành viên. Và đó là cái chúng ta gọi là “phấn hoa””.

“Và nó an toàn?”

“Cho hầu hết mọi người, đúng thế, mặc dù có vài người không may có cơ thể dị ứng với nó”. Giáo sư dựa ra sau và ngẫm nghĩ một hồi. “Không biết đó có phải là những mụn mủ bị sưng lên như trong thư mô tả của ông Crowe không? Hừmm, tôi nghi ngờ điều đó. Dị ứng với phấn hoa thường giống như phát ban hơn là các mụn mủ, và tìm được hai người đàn ông ngẫu nhiên nhạy cảm với phấn hoa là không thể”. Bất thình lình giáo sư đấm mạnh tay xuống bàn. Sherlock nhảy dựng lên. “Tất nhiên rồi! Tôi đã bỏ qua một đáp án hiển nhiên!”

“Hiển nhiên?” não của Sherlock chạy hết tốc độ. Cách giải thích hiển nhiên cho những vết như mụn mủ khi có sự tham gia của ong là gì? Và rồi một nhận thức rõ ràng chợt bùng lên trong nó như một tia chớp. “Các vết chích!” nó la lên.

“Giỏi lắm, cậu bé. Đúng là vết ong chích. Rất độc. Hầu hết ong ở nước mình, ít nhất là thế, có những vết chích gây đau nhức và tạo nên những đốm hơi sưng, nhưng không có loại nào giống như những mụn mủ mà ông Crowe mô tả”. Giáo sư liếc nhìn Sherlock. “Cậu cũng nhìn thấy chúng. Những vết đó lớn không?”

Sherlock giơ bàn tay phải lên. “Cỡ bằng đầu ngón tay cái của cháu”. Nó trả lời.

“Nó cho thấy đó là một loại ong có nọc độc rất mạnh, có lẽ đây là một loại rất hung dữ”.

“Sao Giáo sư biết nhiều về loài ong thế?” Sherlock hỏi.

Giáo sư mỉm cười. “Tôi đã kể là tôi sống nhiều năm ở Trung Quốc. Người Trung Quốc nuôi ong đã vài ngàn năm, và tôi thấy họ đánh giá rất cao mật ong vì những lợi ích của nó trong việc trị bệnh. Theo những y văn trong cuốn sách y nổi tiếng Bản thảo Cương mục hay The Compendium of Materia Medica , được viết bởi một người đàn ông tên là Li Shizhen (Lý Thời Trân) cách đây ba trăm năm, mật ong có khả năng làm tâm trạng nhẹ nhàng, làm giảm cơn đau, loại bỏ chất độc, làm giảm sự khó chịu, làm sáng mắt và kéo dài tuổi thọ”. Giáo sư nhìn ra phía bức tường, và Sherlock có cảm tưởng ông nhớ hết những chuyện đã xảy ra nhiều năm trước. “Ở Vương quốc Anh, chúng ta đã quen với những loài ong châu Âu khá hiền, Apis mellifera . Loại ong núi của châu Á, Apis dorsata, hung dữ hơn rất nhiều và có vết chích rất đau, tuy vậy người Trung Quốc vẫn nuôi để lấy mật từ tổ của chúng. Không giống như tổ ong của chúng ta, có hình dạng như quả chuông, người Trung Quốc sử dụng những khúc gỗ rỗng ruột hay những cái giỏ đan hình trụ để nuôi ong. Thỉnh thoảng cậu có thể thấy những người nông dân Trung Quốc mang tổ ong đi vào trong núi, hai tổ một lúc, treo lủng lẳng trên hai đầu một thanh tre mà họ gánh trên vai, trong khi những con ong bu xung quanh họ như một một đám mây khói”.

Đám mây khói. Những từ này như một cú đấm mạnh vào giữa hai mắt Sherlock.

“Đó là hình dạng của nó”, nó thì thào.

“Cái gì?”

“Cháu đã trông thấy một cái bóng chuyển động ra khỏi một trong những cái xác, và bạn cháu cũng trông thấy thứ tương tự di chuyển ra khỏi cửa sổ nơi một cái xác khác được tìm thấy. Nó hẳn phải là ong”.

Giáo sư gật đầu. “Hẳn là chúng phải rất nhỏ nên cậu mới lầm chúng với một cái bóng, và có thể là chúng màu đậm, có phần nào đó đậm hơn màu vàng nhạt và màu đen của loài ong nghệ của chúng ta. Tôi nghĩ đến một loại ong châu Phi nhỏ và gần như đen, bọn chúng cũng rất hung hăng”.

“Giáo sư có thể giúp cháu một việc không?” Sherlock hỏi. “Tất nhiên”.

“Giáo sư có thể viết một lá thư cho Amyus Crowe, nói với ông ấy điều mà ông nghĩ gây nên cái chết của hai người đàn ông? Cháu sẽ về Farnham và đưa thư cho ông ấy”. Nó tránh nhìn thẳng vào giáo sư, cảm thấy mặt mình đỏ bừng. “Cháu nghĩ là cháu sẽ gặp rắc rối với chú thím cháu khi cháu trở về, và có thể lá thư sẽ giúp cháu khỏi bị phạt”.

Giáo sư gật đầu. Ông đổ bột màu vàng – bột vô hại, Sherlock phải tự nhắc mình – từ tờ giấy da dê lên tờ giấy thấm. Vươn tay lấy hộp mực ở cạnh bàn, ông rút cây viết lông ngỗng và bắt đầu viết trên tờ giấy da dê. Chữ viết ông khẳng khiu nhưng Sherlock có thể nhận ra được mặt chữ.

<Ông Crowe thân mến,

Tôi rất vui được biết cậu học trò của ông->

“Tên cậu là gì cậu bé?”, ông quay về Sherlock, hỏi.

“Holmes, thưa giáo sư. Sherlock Holmes”.

Tôi mong được gặp lại ông nếu ông rảnh.

Kính thư,

Ông (Giáo sư) Arthur Winchcombe.>

Gấp thư lại, ông ta bỏ nó vào trong chiếc phong bì lấy từ ngăn kéo, dán thư bằng một viên sáp tròn từ cây đèn cầy ông dùng để chiếu sáng kính hiển vi, và đưa cho Sherlock.

“Tôi tin là cái này sẽ giúp cậu không bị phạt quá nặng”, ông nói. “Hãy chuyển sự kính trọng của tôi đến gia sư của cậu”.

“Cháu sẽ chuyển lời”. Sherlock ngừng lại một lát rồi nói tiếp: “Cảm ơn Giáo sư”.

Giáo sư Winchcome rung chiếc chuông nhỏ trên bàn, cạnh kính hiển vi. “Quản gia của tôi sẽ đưa cậu ra. Nếu cậu muốn tìm hiểu nhiều hơn về các căn bệnh nhiệt đới, về việc nuôi ong, hay về Trung Quốc thì cứ đến gặp tôi”.

Ra tới bên ngoài, Sherlock ngạc nhiên khi thấy mặt trời không thay đổi vị trí nhiều, chỉ hơn vài độ trên bầu trời. Nó có cảm giác đã ở trong nhà Giáo sư Winchcombe hàng giờ đồng hồ.

Matty đang ngồi trên tường rào. Nó đang ăn gì đó trong một cái cốc giấy. “Đã xong việc chưa?” nó hỏi.

Sherlock gật đầu. Nó ra hiệu về hướng cái cốc giấy. “Cậu có gì trong đó vậy?”

“Sò và ốc hút”, thằng bé trả lời. Nó đưa miệng cốc về hướng Sherlock. “Muốn ăn không?”

Bên trong cốc, Sherlock thấy một mớ sò. “Chín chưa?” nó hỏi.

“Luộc rồi”, Matty trả lời ngắn gọn. “Mình thấy một quầy bán cá. Có lẽ cá được đưa từ Portsmouth về đêm qua. Mình phụ người bán một chút, sắp xếp các thùng, bỏ thêm đá và đem thêm cá. Anh ta cho mình một cốc này để trả công”. Nó lấy một con sò trong cốc ra. Để cốc trên bờ tường, nó lấy một con dao xếp trong túi và lấy mũi dao nạy vỏ sò, đâm vào thứ ở bên trong. Sau vài giây nó kéo ra một thứ gì đó đen và dai, rồi thả vào trong miệng. “Thật là ngon”, nó cười rạng rỡ. “Mấy thứ này không có thường xuyên, trừ khi cậu sống gần biển. Một món ăn ngon”.

“Mình nghĩ mình sẽ không ăn”, Sherlock nói. “Chúng ta hãy về nhà đi”.

Lần này bọn chúng đi xuôi Đại lộ đến sông, rồi đi dọc theo bờ sông cho đến khi nhìn thấy chiếc thuyền hẹp. Đúng như dự đoán của Matty, cả thuyền và ngựa đều vẫn còn đó. Sherlock thắc mắc không biết chúng sẽ làm sao để quay mũi thuyền, nhưng Matty dẫn ngựa đi dọc theo bờ hướng về thị trấn cho đến khi chúng gặp một cây cầu, rồi dẫn ngựa đi băng qua cầu để sang bờ bên kia, kéo mũi thuyền quay ngược lại trong khi Sherlock dùng cây câu liêm để ngăn không cho thuyền đụng bờ. Và rồi khi thuyền chầm chậm trôi trong chuyến về, lần này Sherlock đứng ở mũi để điều khiển ngựa tiếp tục đi, còn Matty ở phía sau điều khiển bánh lái.

Hai đứa nói chuyện khi con thuyền chậm chạp xuôi dòng. Sherlock kể cho Matty nghe về Giáo sư Winchcombe và giải thích của ông về ong và các vết chích. Lúc đầu Matty còn nghi ngờ, nhưng dần dần Sherlock thuyết phục nó là không cần cách giải thích siêu nhiên nào cho chuyện đám mây chết. Matty dường như bị giằng xé giữa sự nhẹ nhõm vì bệnh dịch chưa đến Farnham và sự bực bội vì lời giải thích quá tầm thường. Sherlock không nói gì, nhưng trên đường đi nó ngày càng trở nên chắc chắn là chúng vừa gỡ bỏ một bí mật và làm lộ ra một bí mật khác. Tại sao ong chích hai người đàn ông ở hai nơi khác nhau nhưng không có ai khác bị chích? Tại sao lại có ong châu Phi ở nước Anh trong vụ đầu tiên? Có liên hệ gì giữa ong và nhà kho, những cái thùng được chất lên xe ngựa bởi những gã giang hồ và tên Nam tước bí ẩn?

Một lúc sau, Sherlock nhận ra là có một con ngựa khác đang đi cùng với ngựa của chúng trên bờ sông. Đó là con ngựa ô đen bóng với một mảng nâu trên cổ, và Virginia Crowe đang cưỡi nó. Cô bé vẫn mặc chiếc quần cưỡi ngựa ống túm và áo cánh, với một chiếc áo khoác bên ngoài.

“Chào cậu!” Sherlock gọi. Cô bé vẫy tay đáp lại.

“Matty, đây là Virginia”, nó gọi vọng ra sau. “Virginia, đây là Matty Arnatt. Matty”.

Matty gật đầu với Virginia, và cô gật đầu lại, nhưng cả hai không nói gì.

Sherlock đứng, cẩn thận giữ thăng bằng trên mũi thuyền một lúc, cảm thấy nó tròng trành bên dưới, rồi nhảy lên bờ. Sherlock cầm vòng dây thừng buộc quanh cổ ngựa hướng nó về phía trước, rồi đi bộ bên cạnh Virginia và con ngựa của cô bé.

“Đây là Albert”, cuối cùng nó nói.

“Đây là Sandia”, Virginia đáp lại. “Cậu biết đấy, cậu thật sự nên học cưỡi ngựa”.

Sherlock lắc đầu. “Chưa bao giờ có cơ hội”.

“Đơn giản thôi, nhưng đám con trai mấy người luôn làm ầm ĩ là cưỡi ngựa khó. Dùng đầu gối để điều khiển, đừng dùng dây cương. Dây cương chỉ dùng để làm cho con ngựa chậm dần”.

Sherlock không nghĩ ra câu trả lời thích hợp để đáp lại.

Bọn nó tiếp tục đi bộ trong im lặng lúng túng một lúc.

“Cậu đã ở đâu?” cuối cùng Virginia hỏi.

“Guildford. Mình muốn gặp một người”. Sực nhớ, nó thò tay vào túi áo khoác lấy ra lá thư mà Giáo sư Winchcombe đã viết. Mình cần đưa cái này cho cha cậu. Cậu có biết ông đang ở đâu không?”

“Cha mình vẫn đang tìm cậu. Theo lịch hôm nay cậu có một buổi học”.

Sherlock liếc cô bé xem nó có nghiêm túc không, nhưng một nụ cười thoáng qua môi con bé. Cô bé nhìn xuống nó, và nó quay mặt đi.

“Đưa thư cho mình”, cô nói. “Mình sẽ đưa cho cha”.

Nó giơ lá thư lên cho cô bé, nhưng rụt tay lại. “Lá thư này quan trọng”, nó ngập ngừng nói. “Về hai người đàn ông bị chết”.

“Vậy thì mình sẽ đưa ngay cho cha”. Cô bé lấy lá thư từ bàn tay đưa ra của nó. Các ngón tay của cô bé không chạm vào tay nó, nhưng nó cảm giác được sức nóng của chúng khi lướt qua tay nó. “Những người chết vì dịch hạch phải không?

Mọi người đang nói vậy”.

“Không phải bệnh dịch. Là do ong chích. Đó là lý do tại sao mình đến Guildford – mình cần nói chuyện với chuyên gia bệnh học”. Nó nhận ra mình đang nói nhanh hơn, nhưng nó không thể dừng lại được. “Mình tìm thấy chất bột màu vàng gần hai xác chết. Mình muốn ai đó nói cho mình biết bột đó là gì, nên mình mang theo bột đến Guildford. Hóa ra đó là phấn hoa. Đó là lý do bọn mình khẳng định ong là thủ phạm”.

“Nhưng cậu không biết điều đó khi cậu tìm thấy thứ bột này”. Virginia chỉ ra.

“Không”.

“Hay là khi cậu thu thập chất bột và mang nó đến Guildford”.

“Tất cả những gì cậu biết là nó là thứ gì đó gây ra bệnh dịch. Một thứ dễ lây nhiễm”.

Sherlock cảm giác nó đang bị dồn vào góc. “Đúng”, nó nói, từ này khi ra khỏi miệng nó bị kéo dài thành âm giống như là “Đu-u-ú-ng”.

“Vậy là cậu mạo hiểm tính mạng của mình dựa trên việc cậu nghĩ là những người khác đã sai và cậu có thể chứng minh là họ sai”.

“Mình nghĩ thế”. Nó cảm thấy hơi ngượng. Cô bé đã đúng – việc đi đến tận cùng của bí ẩn đối với nó quan trọng hơn là an toàn của bản thân. Nó có thể sai – nó không biết nhiều về bệnh dịch hay cách bệnh lây lan. Chất bột vàng có thể là một thứ gì đó mà cơ thể người chết đã tạo ra do ảnh hưởng của bệnh, như là da nhiễm khuẩn bị khô – một thứ gì đó có thể chứa mầm bệnh và có thể lây. Nó đã quá bị cuốn hút vào việc giải câu đố đến nỗi không nghĩ gì tới việc đó.

Phần còn lại của quãng đường trở về Farnham trải qua trong yên lặng.