← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

“Con đã làm ta thất vọng, cậu bé”.

Sherrinford Holmes đang ngồi ở bàn làm việc đồ sộ bằng gỗ sồi trong phòng làm việc, Amyus Crowe đứng sau ông ở bên trái và bà Eglantine đứng bên phải, bộ đồ đen của bà tiệp màu với bóng tối phía sau đến nỗi chỉ thấy mặt và bàn tay bà ta. Vì bộ râu dài trắng xóa của chú Sherrinford và vì chất đống trên bàn làm việc là nhiều loại sách Kinh thánh tiếng Do Thái, Hy Lạp, Latin, Anh nên Sherlock nghĩ nó như đang bị Chúa, với hai thiên thần báo thù đứng sau ngai vàng của Ngài, khiển trách, chỉ có một điều làm phá hỏng quang cảnh đó là chú Sherrinford đang mặc chiếc áo ngủ dài trên người.

Mặt Sherlock đỏ ửng vì xấu hổ và tức giận. Nó muốn cãi lại là nó đã hành động vì những lý do đúng đắn nhất, nhưng khi nhìn khuôn mặt chú, nó biết tranh cãi là vô ích. “Con rất tiếc, thưa chú”, nó nói sau một lúc lâu yên lặng trôi qua và nó nhận ra chú nó đang chờ một lời đáp. “Con sẽ không làm vậy lần nữa”.

“Cha con – anh của ta – giao cho ta trách nhiệm chăm sóc con, có nghĩa là ta sẽ dạy đạo đức cho con và ngăn con không dính vào bạn xấu hay làm những việc xấu. Ta xấu hổ khi nhận ra là ta đã thất bại trong cả hai việc đó”.

Một khoảng yên lặng kéo dài. Sherlock cảm thấy bị áp lực phải nói xin lỗi lần nữa, nhưng nó cảm thấy rằng xin lỗi lần nữa sẽ được xem như dấu hiệu cho thấy nó là đứa trơ tráo. “Con biết là con không nên đi một mình đến Guildford”, cuối cùng nó nói.

“Đó là lỗi nhẹ nhất trong các lỗi của con”, chú Sherrinford tuyên bố. “Sáng nay con bò ra khỏi nhà trước khi mặt trời mọc như một tên trộm”.

“Cậu ta còn chưa lên giường”, Bà Eglantine ngắt lời. “Cậu ta hẳn đã phải rời khỏi nhà trước nửa đêm”.

Sherlock cảm thấy vai nó run lên vì cố gắng kiềm chế cơn giận. Nó biết là bà ta đã nói dối – nó đã ngủ, trong vài giờ, và chỉ rời nhà trước bình minh – nhưng nó không thể cãi lại dù trái với mong ước cháy bỏng là nói lên sự thật. Nó biết bà ta cố làm cho nó lún sâu vào rắc rối, cãi lại bà ta được xem là thách thức, và sẽ bị trừng phạt đích đáng.

“Ta sẽ viết thư cho anh con”, Sherrinford nói tiếp, “kể với cậu ấy là sự tin tưởng ta đặt ở con đã bị phản bội. Và con sẽ không được phép rời khỏi nhà trong tuần tới”.

“Nếu tôi có thể”, Amyus Crowe kéo dài giọng từ phía sau Sherriford, “Tôi muốn nói một vài câu thay cho cậu bé”.

Ông ta thò tay vào trong chiếc áo vét trắng lóa lấy ra một phong thư. “Lá thư này cậu bé mang về từ vị giáo sư xuất sắc Winchcombe đã xóa tan nỗi sợ về sự bùng nổ bệnh dịch trong khu vực này. Mang mẫu phấn hoa đi xác định đã cho thấy ý chí mạnh mẽ, sự độc lập trong suy nghĩ và không tin trước khi kiểm chứng – tất cả những tính cách đó tôi nghĩ nên được khuyến khích, tôi cho là thế”.

“Vậy ông đang đề nghị là cậu bé này nên thoát khỏi sự trừng phạt, có phải không ông Crowe?” bà Eglantine hỏi bằng giọng nói ngọt như đường phèn.

“Không hề”, Crowe nói tiếp theo. “Tôi đề nghị rằng thay vì cấm cậu ta ra khỏi nhà hoàn toàn, ông nên quy định rằng cậu ta chỉ được phép ra khỏi nhà với tôi. Theo cách đó tôi có thể giữ được giao kết giữa tôi với anh cậu ta”.

Sherrinford Holmes cân nhắc một lúc, tay phải vuốt vuốt hàm râu. Rồi thì ông tuyên bố, “Rất tốt. Chúng ta sẽ thỏa hiệp. Con bị cấm ra khỏi nhà hôm nay và ngày tiếp theo. Sau đó thì con phải ở nhà cả ngày trừ thời gian học với ông Crowe. Khi ở nhà, con sẽ ở trong phòng mình trừ các bữa ăn”. Môi ông mím chặt. “Mặc dù thế ta cho phép con lấy bất kỳ quyển sách nào con muốn trong thư viện của ta để giết thời gian. Hãy sử dụng nó khôn ngoan để làm cho mình tiến bộ, và thể hiện trong các hành động của con”.

“Dạ vâng, thưa chú”, Sherlock trả lời, cố gắng thốt nên lời. Sự căng thẳng đè nặng trên vai nó đã giảm phần nào.

“Cảm ơn chú”.

“Bây giờ thì đi đi và đừng xuất hiện trước bữa ăn tối”.

Sherlock xoay người rời khỏi phòng làm việc. Nó rất muốn tranh cãi, để chứng minh việc nó làm là đúng , nhưng nó đủ hiểu thế giới của người lớn để nhận ra là tranh cãi sẽ làm mọi việc xấu hơn. Đúng không quan trọng. Quan trọng là tuân theo các quy tắc .

Nó đi theo cầu thang rộng, trải thảm lên lầu một, rồi theo cầu thang gỗ hẹp hơn lên tầng áp mái, chỗ phòng nó. Nó nằm dài trên giường, nhìn lên trần nhà, để các suy nghĩ ngổn ngang trong đầu.

Ngày hôm đó và ngày kế tiếp trôi qua trong mơ hồ. Cơ thể Sherlock, mệt mỏi và đờ đẫn vì chuyến đi, đã nhân cơ hội để tự phục hồi bằng cách ngủ càng nhiều càng tốt, nhưng khi tỉnh dậy nó nhận thấy những suy nghĩ của mình dao động không mục đích giống như những con thiêu thân quanh ngọn đèn cầy. Điều gì đang xảy ra? Kế hoạch của Nam tước Maupertuis chính xác là gì, và ai sẽ ngăn cản nó?

Nó dành thời gian cố gắng sắp xếp trong đầu một lá thư gửi cho anh mình, không phải vì nó mong Mycroft sẽ làm gì nhưng nó muốn kể cho ai đó nó tin tưởng về những việc đã xảy ra. Cuối cùng khi nó đã tìm được cách thể hiện những câu muốn nói, nó viết ra giấy.

Em mong là có thể nói với anh rằng em đang làm theo lời khuyên của anh, là đang tự quay cuồng trong mớ sách trong thư viện của chú Sherrinford và đang lang thang ở vùng đồng quê xung quanh, nhưng dường như em đã tự đưa mình vào rắc rối và em không biết làm gì tiếp theo. Tin tốt – nếu có – là em có hai người bạn. Một người tên là Mathew Arnatt, bạn ấy sống trên một con thuyền nhỏ trên kênh. Em nghĩ anh có lẽ sẽ thích cậu ấy. Người kia là Virginia Crowe. Bạn ấy là con gái gủa Amyus Crowe. Ông ấy nói sẽ dạy em về tự nhiên và về việc khám phá thế giới xung quanh, nhưng em nghĩ điều mà ông ấy thực sự dạy em là cách suy nghĩ. Em ước là anh đã không nghĩ rằng cần tìm gia sư cho em trong các kỳ nghỉ, nhưng trong tất cả những gia sư anh có thể tìm thấy, em nghĩ ông Crowe là người giỏi nhất.

Có vài chuyện lạ xảy ra ở Farnharm, và em mong có thể nói chuyện với anh về chúng. Một xác người đầy mụn nhọt được tìm thấy trong thị trấn, và một xác khác được tìm thấy ở đây, trong khu đất của Trang viên Holmes. Người trong thị trấn nghĩ đó là bệnh dịch, nhưng một giáo sư tên Winchcombe đã chứng minh rằng họ bị giết vì hàng trăm vết chích của ong. Em nghĩ đàn ong có liên quan đến một người tên là Nam tước Maupertuis, người sở hữu một nhà kho ở Farnham, nhưng em không biết liên quan như thế nào.

Cái nhà kho đã bị cháy, tất cả bằng chứng bị thiêu hủy. Em sẽ kể cho anh nghe mọi việc xảy ra thế nào khi gặp anh.

Tóm lại, cuộc sống ở đây thích thú hơn em tưởng – khi em có thể đi ra khỏi nhà. Em hiện đang bị cấm túc trong phòng vì đã đi đến Guildford gặp Giáo sư Winchcombe, nhưng đó là một câu chuyện khác em sẽ kể khi gặp anh.

Có tin gì mới về cha không? Cha vẫn trên đường đi Ấn Độ phải không, và anh có thông tin gì thêm là khi nào những vấn đề ở đó có thể chấm dứt không?

Cho em gửi lời thăm mẹ và chị. Anh mau đến thăm em nhé.

Em của anh, Sherlock>

Sau khi viết xong và thấm mực lá thư, nó để lá thư ở trên bàn trong sảnh vào giờ ăn trưa, lá thư sẽ được một người hầu lấy và mang gửi ở bưu điện Farnham. Khi nó xuống lại để ăn tối, lá thư không có ở đó. Bà Eglantine đang đi ngang sảnh, khuôn mặt bà ta thấp thoáng trong bóng tối, và bà ta mỉm cười một cách không vui với nó. Bà ta có thấy lá thư không? Bà ta có đọc không? Thư có đến được bưu điện hay là bà ta đã hủy nó? Sherlock tự bảo rằng mình thật ngớ ngẩn – bà ta có lý do gì để làm những chuyện đó?– nhưng lời cảnh báo của Mycroft vẫn văng vẳng trong đầu nó. Bà ta không phải người thân trong gia đình Holmes .

Nằm dài trong phòng, những suy nghĩ cứ chạy qua đầu. Tiếng cồng báo hiệu giờ ăn tối đã đánh thức nó khỏi giấc ngủ lơ mơ, và nó đi xuống đất. Bà Eglantine vừa rời phòng ăn. Bà nhìn nó, nhếch mép cười, rồi bỏ đi.

Sherlock không thấy đói. Nó nhìn cánh cửa một lúc, cố ép mình phải ăn gì đó để khỏe hơn, nhưng nó không làm được. Nó quay đi và đi về phía thư viện để xem có thể tìm được cuốn sách nào nói về ong hoặc việc nuôi ong không.

Băng qua sảnh, nó để ý một một lá thư nằm trên chiếc đĩa bạc trên chiếc bàn ở góc phòng. Lá thư đã ở có đó từ trước hay là nó đã không để ý? Trong một thoáng nó nghĩ đó là một lá thư khác của Mycroft, vì thế nó cầm lên. Tên nó ở trước, nhưng đó không phải là chữ viết của Mycroft. Chữ này tròn hơn. Nhìn… nữ tính hơn. Sao lại như vậy?

Sherlock nhìn quanh, không hoàn toàn tin rằng mình sẽ thấy bà Eglantine đang đứng trong bóng tối và quan sát, nhưng cả sảnh chẳng có ai ngoại trừ nó. Nó lấy lá thư, mở cửa trước và đứng trong ánh nắng chiều nhưng vẫn ở ngưỡng cửa nên không thể bị kết tội là ra khỏi nhà.

Có một tờ giấy bên trong. Màu tím. Trên đó, dưới tên và địa chỉ, thư viết:

Có một hội chợ tổ chức ở đồng cỏ phía dưới khu lâu đài. Gặp mình ở đó ngày mai lúc chín giờ sáng - nếu cậu dám!

Đến một mình.

Virginia>

Nó thấy choáng váng một lúc, và phải hít một hơi sâu. Virginia muốn gặp nó? Nhưng tại sao? Hai lần gặp nhau nó có cảm giác cô bé không thích nó đến mức đó. Bọn nó đâu có nói nhiều với nhau. Và nữa, bây giờ cô bé muốn gặp nó – một mình?

Nhưng nó không thể đi. Nó bị cấm ra khỏi nhà!

Suy nghĩ của nó chạy đua trong đầu, cố đặt ra một lý lẽ bào chữa để cho phép mình ra khỏi nhà vào sáng mai mà không bị rắc rối. Chắc chắn là nó phải đặt ra một lý lẽ logic để đối phó với sự kiểm tra nghiêm ngặt của chú Sherrinford. Virginia bảo nó gặp cô. Từ những gì ít ỏi nó biết về cô bé, nó có thể nói là cô bé độc lập hơn các cô gái Anh ở cùng tuổi. Cô có thể cưỡi ngựa – đúng kiểu, chứ không phải ngồi một bên – và cô hoàn toàn có khả năng ra ngoài một mình. Nhưng nếu cô bé là người Anh, cô không thể đến hội chợ nếu không đi cùng gia đình. Và nghĩa là nó có thể diễn giải lá thư là một lời mời đi gặp cô bé và cha cô , và nghĩa là nó có thể ra khỏi nhà mà không phạm vào qui định mà nó đã đồng ý với chú nó. Sherrinford không thể tin được là một đứa con gái có thể sắp xếp gặp một thằng con trai mà không có sự hiện diện của gia đình cô ta. Sherlock biết rõ hơn về điều đó, nhưng nếu gặp thách thức thì nó sẽ không tiết lộ.

Một ý nghĩ thoáng qua – sẽ ra sao nếu có ai đó ở Trang viên Holmes đến hội chợ? – nhưng một ý nghĩ thứ hai thuyết phục nó là cả chú, thím nó hay bà Eglantine đều ít có khả năng đến đó, và nếu bất kỳ người hầu, người nấu bếp hay công nhân nào đến đó, có lẽ họ thậm chí không nhận ra nó.

Phần còn lại của buổi chiều và phần lớn buổi tối nó cứ lưỡng lự giữa đi và không đi. Sáng đó nó vẫn không chắc, nhưng khi xuống cầu thang để ăn sáng nó thấy mình nghĩ đến khuôn mặt của Virginia, và nó quyết định sẽ đi. Nó sẽ đi.

Nó kiểm tra giờ trên chiếc đồng hồ đứng. Hơn tám giờ một chút. Nếu nó đi ngay, bằng xe đạp, nó có thể đến đó đúng giờ. Nó biết chỗ tòa lâu đài – nằm trên đồi ở trên thị trấn – và nó đoán hội chợ nằm ở khoảng đồng cỏ phía dưới lâu đài một đoạn.

Nó có nên viết vài dòng để lại? Sau những chuyện gần đây, nó nghĩ đó là cách khôn ngoan, vì thế nó viết một giải thích ngắn sau bì thư là nó ra ngoài để gặp Amyus Crowe, và để trên cái đĩa bạc, rồi vừa đi vừa chạy đến chỗ để xe đạp, cúi rạp người xuống khi chạy qua các cửa sổ và giấu mình sau tường bất cứ lúc nào có thể.

Đầu nó quay cuồng với những suy nghĩ và viễn cảnh khi đạp xe. Nó thật sự chưa có một đứa bạn gái nào ra trò trước đây. Nó có chị, tất nhiên, nhưng chị lớn hơn nó, và ý thích của chị khác nó – vẽ, đan móc, chơi dương cầm. Và, cũng tất nhiên, bệnh của chị đã làm chị tách biệt và nằm liệt giường suốt phần lớn thời gian khi Sherlock còn nhỏ. Nó chưa bao giờ thật sự kết bạn với bất kỳ ai chung quanh nhà ba mẹ nó, nói gì đến con gái, và Trường Deepdene là trường nam sinh. Nó hoàn toàn không biết cư xử thế nào với Virginia, nói gì hay cư xử thế nào.

Đạp xe đến Farnham, nó chạy theo đường dẫn lên đồi, hướng về phía lâu đài mà nó có thể thấy là nằm phía trên thị trấn. Nó dấn tới cho đến khi chân nó nóng bừng lên, rồi xuống xe và dắt bộ. Khi đến được khu đất của lâu đài, nó đã mệt lử.

Băng ngang qua bãi cỏ, dưới ánh nắng sáng, Sherlock có thể nhìn thấy một góc của cuộc sống thường ngày. Như là một bản sao nhỏ của thị trấn ở ngay trung tâm, hàng quán và các khu được rào quanh bằng dây thừng được dựng lên ở hai bên những lối đi phủ cỏ, rộng, nơi mọi người đi dạo và chỉ trỏ cảnh xung quanh. Một làn khói treo lơ lửng trên mọi thứ, mùi của thịt được nấu nướng, mùi phân súc vật và mùi người làm mũi của Sherlock khó chịu. Có khu vực dành riêng cho những diễn viên xiếc, cho các trận quyền Anh, đấu kiếm và chọi chó. Những người bán thuốc dạo đang bán những phương thuốc gia truyền chẳng ai biết được làm từ thứ gì, những người diễn trò nuốt lửa đang đút vào miệng những hòn than cháy rừng rực trên chiếc chĩa kim loại và những người dân địa phương đang nhăn nhở làm mặt xấu để giành chiếc mũ giải thưởng, chạy đua để giành một cái đầm ngủ và ăn ngốn ngấu bánh pudding để giành tiền thưởng cho người ăn nhiều nhất.

Nó lia mắt qua đám đông, tìm kiếm mái tóc màu đồng dễ phân biệt của Virginia, nhưng có quá nhiều người đến mức nó không thể phân biệt ai với ai. Cô bé không nói rõ nơi hẹn, vì vậy nó chỉ có hai chọn lựa là chờ và hy vọng cô bé sẽ đến gặp nó hay là ngụp lặn trong đám đông để kiếm cô bé. Và nó chưa bao giờ kiên nhẫn trong việc chờ đợi.

Với một chút lo lắng, Sherlock để chiếc xe đạp dựa vào hàng rào bên cạnh bãi thả ngựa. Nó không chắc lắm là chiếc xe sẽ còn đó khi nó quay lại, nhưng sự chen chúc của đám đông làm nó biết sẽ khó mà tiếp tục dắt xe đi cùng.

Nơi đầu tiên nó đến khi băng qua bãi cỏ là một thùng lớn đầy nước. Mọi người bu xung quanh đó, cười và đùn đẩy nhau. Mặt nước trông như đang sôi làm Sherlock nghĩ có gì đó đang được nấu bên trong, nhưng không có lửa ở bên dưới. Một người trong đám đông, trẻ và mảnh khảnh với chiếc khăn tay lấm tấm buộc trên cổ đang cố tạo ấn tượng với một cô gái má đỏ mặc chiếc váy yếm trắng đứng bên cạnh. Anh ta đưa một đồng xu cho người chủ đứng bên cạnh cái thùng, tay nắm chặt hai thành thùng nước và bất ngờ hụp đầu vào nước.

Sherlock há hốc miệng, vẫn đang nửa tin nửa ngờ là nước đang sôi, nhưng anh ta dường như không bị đau. Anh ta ngọ nguậy đầu hết bên này sang bên kia trong nước, như là đang tìm kiếm thứ gì, cái đầu nhanh như chớp hướng về phía trước trong vài giây rồi thụt lại. Cuối cùng anh ta rút đầu ra khỏi nước hoàn toàn. Nước chảy xuống mặt và cổ anh ta rồi tràn xuống quần áo nhưng dường như anh ta không quan tâm đến. Có cái gì đó được cắn chặt giữa hai hàm răng anh ta – một thứ gì đó óng ánh như bạc đang luồn lách điên cuồng để thoát ra. Mất một lúc Sherlock không hiểu đó là cái gì, và rồi nó nhận ra. Đó là một con lươn, chỉ dài hơn ngón tay người đàn ông một chút. Sherlock đi tiếp, kinh ngạc. Nó có nghe đến trò đớp táo, nhưng đớp lươn ư? Không thể tin được.

“Hãy xem con cừu lạ lùng nhất thế giới!” một người rao hàng la lên trước một quầy hàng. “Hãy nhìn con cừu với bốn chân và một nửa chân thứ năm. Bạn sẽ chẳng bao giờ thấy một con như thế!”. Anh ta bắt được cái nhìn của Sherlock khi nó đi ngang qua. “Cậu, chàng trai trẻ – hãy nhìn thứ gây kinh ngạc nhất trên trái đất xanh này của Chúa. Cậu sẽ không bao giờ quên. Các cô gái sẽ nuốt lấy từng lời từ miệng cậu khi cậu kể cho họ về con cừu không thể tin được với bốn chân và nửa chân thứ năm”.

Nó đi qua một quầy có bày hai con rối bên cửa sổ, chúng hoạt động nhờ một người điều khiển rối núp bên trong quầy. Đầu chúng được tạc bằng gỗ với mũi và cằm nhô ra, quần áo của chúng được làm từ những dây ruy-băng sáng màu. Khi Sherlock nhìn, một con rối đặt đầu nó nằm trên thành cửa sổ – gần như phải gập người lại để làm như vậy – còn con rối kia nhanh như chớp chặt đầu con kia bằng cái rìu nhỏ xíu. Cái đầu rớt ra và các ruy-băng màu đỏ tươi bung ra, trông giống như máu phun ra. Đám đông reo hò và vẫy mũ.

Có một cái ao nằm ở một bên khu hội chợ, và một người đàn ông mặc áo gi-lê màu tươi và đội mũ chóp cao quăng một con vịt vào. Chân con vịt được cột vào một quả cân bằng một sợi dây nhỏ, và quả cân kéo nó xuống. Xung quanh bờ ao, những con chó bị buộc dây thừng và dây da đang gầm gừ và chảy nước dãi. Nhìn cảnh đổi tiền của đám đông xung quanh, Sherlock có cảm giác khiếp hãi khi biết việc gì sẽ xảy ra tiếp sau đó. Người đàn ông mặc áo gi-lê lùi ra sau tay giơ lên. Đám đông im lặng, chờ đợi. Những con chó cố gắng gấp đôi khả năng để giật đứt dây buộc, những tiếng gầm gừ của chúng đủ khiến mặt đất run rẩy. Người đàn ông thả tay xuống hông, đám chó được chủ của chúng thả ra. Cả đám chó lao vào trong ao, cố gắng bắt con vịt đang kêu quàng quạc và làm nước văng khắp nơi. Hoảng hốt, con vịt bơi loạn xạ trên mặt nước trong tầm sợi dây và quả cân, tránh né sự tấn công. Về phần mình, đám chó cố không ra chỗ nước quá sâu, ngoại trừ một con chó sục can đảm bơi điên cuồng ngang qua ao để săn vịt. Sherlock quay đi trước khi con chó cắn ngập hàm răng vào cổ con vịt. Đó là một cái kết được báo trước, điều không chắn chắn chỉ là chủ con chó nào sẽ lãnh giải mà thôi. Cảm thấy buồn nôn, Sherlock quay đi.

Nó đi ngang các quầy bán xúc xích nóng và những quả táo được bao bằng kẹo cứng lạnh xiên que, bánh quy và puffy hương cam, mùi da heo muối chiên giòn. Nó không chắc cảm giác nó thấy trong bụng là đói hay bồn chồn. Hay là cả hai.

Đám đông ngày càng đông và ồn ào, và Sherlock cảm thấy bị đẩy và bị hích từ phía sau. Mọi người xung quanh nó đang chế giễu và càu nhàu. Một giọng nói lớn vang lên át những giọng khác: “Ai sẽ tiếp tục đấu với nhà vô địch? Ai có can đảm đọ sức với Nat Wilson, nhà vô địch vùng Kensal Green? Một đồng sovereign nếu thắng; nếu thua thì không mất gì, chỉ bị coi thường và cười nhạo!”. Nó vấp ngã khuỵu gối. Khi đứng lên được thì bị đẩy nghiêng sang bên. Một thứ gì cứng đập mạnh vào lưng nó. Xoay người lại, nó bỗng thấy mình đang đứng phía trước đám đông. Thứ làm nó vấp là một cột gỗ, một trong bốn cái cột tạo thành các góc của hình vuông. Dây thừng được giăng giữa các cột. Một người không mặc gì ngoài cái quần túm bằng da đứng giữa vòng, tạo dáng và ra hiệu với đám đông. Ngực và cánh tay anh ta đầy cơ bắp. Một người khác mặc bộ com-lê dơ bẩn và đội mũ nỉ đang nhìn thẳng vào Sherlock.

“Chúng ta có người thách đấu!” gã la lên. Đám đông vỗ tay hoan nghênh.

Sherlock muốn lùi đi, nhưng đám đông thúc vào lưng nó. Những cánh tay kéo dây thừng ra để tạo thành khoảng trống, và Sherlock bị đẩy vào trong khu bãi cỏ.

“Không!” nó la lên, thật sự nhận ra rằng không hiểu vì sao nó lại là người thách đấu. “Tôi không –”

Người rao trò cắt ngang lời nó. “Luật tiêu chuẩn Broughton [4]”, anh ta nói như hát. “Không dùng miếng lót và quả đấm sắt. Có thể sử dụng mọi thứ ngoại trừ việc đánh khi đối thủ đã ngã. Khi có người ngã anh ta có ba mươi giây để nghỉ và thêm tám giây để tiếp tục trận đấu. Trận đấu kết thúc khi một người không thể đứng dậy”. Anh ta liếc nhìn Sherlock, người đang đứng nhìn quanh với vẻ hoang mang, cố tìm một chỗ trống trong đám đông để bỏ chạy. “Cậu bé”, anh ta thì thầm, “tôi không đánh giá cậu hơn một phút mà không cần giúp đỡ. Nếu cậu có thể kéo dài đến năm phút, tôi sẽ tăng gấp đôi giải thưởng. Hãy làm cho những người đánh cược vui vẻ”.

“Tôi không nên ở đây!” Sherlock phản đối.

“Hơi trễ để nói không”, người rao trò đáp.

“Nhưng đây là tai nạn!”

“Không”. Ông ta mỉm cười, lộ ra hàm răng sâu đen đúa. “Đây là một cuộc thảm sát”.

Người rao trò hướng về một bên của võ đài, nơi nhiều người đang nâng dây thừng cho anh ta ra. Sherlock cố đi theo anh ta, nhưng những sợi dây thừng đã trở về vị trí cũ và những người đàn ông, đàn bà, con nít trong đám đông chế nhạo khi nó đến gần. Người ta ném đá vào nó, làm nó lùi lại về phía trung tâm của vòng tròn.

Gã võ sĩ kia tiến tới, đưa mắt một vòng nhìn đám đông và nhận được sự tán thưởng. Anh ta cao hơn Sherlock ít nhất mười lăm phân, và to hơn một vòng ôm. Tay anh ta như hai túi da lớn đầy quả óc chó. “Đứng vào vạch đi”, anh ta lầm bầm.

“Cái gì?”

Gã võ sĩ chỉ vào hai vạch song song được cắt vào cỏ, cách nhau khoảng gần một mét. “Mày đứng sau một vạch; tao đứng sau vạch kia. Khi chuông reo, chúng ta đánh nhau.

Đó là cách chơi”.

“Tôi không muốn đánh nhau”, Sherlock phản đối.

“Đó là do mày chọn, nhóc”, gã gầm gừ. “Tao sẽ phải kéo dài trận đấu trong năm phút, và đầu mày sẽ giống như thịt xay nếu mày không che chắn”. Mắt gã nhìn nó dò xét. “Có vẻ vẫn như thế dù mày cố che chắn”, gã nói thêm. Gã xô mạnh nó về hướng cái vạch gần nhất. “Giơ tay lên, che cái mặt. Và nhớ phải đứng thẳng. Nếu mày ngã, tao sẽ đá cho đến khi mày đứng lên lại”.

“Tôi nghĩ trọng tài nói không được đánh khi người ta ngã”. Gã võ sĩ nhún vai. “Không nói gì về chuyện đá”.

Sherlock hoài nghi di chuyển đến vạch của nó. Gã võ sĩ mang giày ống đứng ở đường vạch kia. Sherlock nhìn quanh, tìm kiếm ai đó, bất kỳ ai có thể giúp đỡ, nhưng những khuôn mặt nhìn lại nó với vẻ phấn khích, đầy mồ hôi và méo mó vì hung hãn. Không có cách nào để thoát ra.

Chuông reo.

Sherlock bước lùi khi quả đấm của gã võ sĩ vụt qua mũi nó. Nó giơ tay lên để tự vệ, lùi lại khi gã kia tiến tới. Đám đông la hét. Nó đã nhìn thấy những võ sĩ quyền Anh trong sách, xem vài trận ở phòng tập của Trường Deepdene, thậm chí có đấu vài trận, và nó đứng theo cách nó nhớ – nắm tay co lại và giơ cao lên trước – nhưng gã đấu thủ của nó không đọc cùng loại sách với nó và cứ nhào lên trước, hai cánh tay vung sang hai bên ngang tầm vai. Sherlock bị đấm một cú vào vai trái – cái tay đã bị Clem làm bị thương tối trước – và cảm thấy một cơn đau cực độ như kim loại lỏng tràn xuống cánh tay. Tay nó rơi bất lực xuống một bên thân. Làm thế nào việc này xảy ra? Một phút trước nó là kẻ vô danh trong đám đông, và giờ nó là trung tâm của mọi sự chú ý. Giống như là có cái gì đó, ai đó , đã hướng dẫn đám đông, lôi kéo họ đến đây đúng lúc này.

Gã võ sĩ tiến đến gần hơn, sẵn sàng đấm vào mặt Sherlock, vì thế Sherlock bước lùi lại và bất ngờ đánh tạt ra bằng tay phải. Không ngờ, nó đánh trúng mũi gã. Nó thấy có cái gì đó vỡ dưới những ngón tay, và máu tràn xuống cằm và ngực gã. Gã đấu sĩ lùi nhanh ra sau, thở mạnh, máu bắn tung tóe trên áo Sherlock, rồi gã đấm thẳng cánh tay phải vào ngực Sherlock. Tác động của cú đấm làm Sherlock giật lùi ra sau. Sự đau đớn lan khắp các xương sườn. Trong một lúc nó thấy như tim ngừng đập. Nó cố hít vào nhưng phổi không hoạt động. Nó gập người lại, cố lấy một chút không khí vào cổ họng. Một bàn tay tóm lấy gáy nó và quăng nó ra bãi cỏ.Sự va chạm giữa cơ thể nó và bãi cỏ giải phóng chút không khí còn sót lại trong phổi, và bất ngờ nó lại hít được một lượng lớn không khí. Nó lăn người đi kịp lúc một bàn chân giẫm mạnh vào đất ngay chỗ đầu nó trước đó, và đạp lên chân nó.

Gã võ sĩ giờ như đang đeo mặt nạ máu, chỉ còn hở hai con mắt hẹp đang điên cuồng và một hàm răng nghiến lại thành đường thẳng. Gã tiến đến Sherlock và tung hai cú đấm một lúc, tay trái vào xương sườn Sherlock và tay phải vào một bên đầu. Cả người nó ngập trong đau đớn, máu phun đỏ và tươi. Mọi thứ như quá xa xôi. Nó đang rơi, nhưng không cảm thấy gì khi chạm đất.

Bóng tối chiếm lấy nó, và nó buông rơi một cách hài lòng.