CHƯƠNG 11
Amyus Crowe đã rửa xong những vết cắt trên mặt Sherlock bằng nỉ và một loại chất lỏng có mùi gắt và xót mỗi khi chạm vào vết thương. Ông bước ngang qua căn nhà và ngồi xuống chiếc ghế đan bằng cây liễu gai. Cái ghế kêu răng rắc dưới sức nặng của ông. Ông đẩy chân ngả người ra sau, giữ cân bằng chiếc ghế trên hai chân ghế sau, rồi lắc nó nhè nhẹ.
Suốt thời gian đó mắt ông dán chặt vào Sherlock.
Bên cạnh Sherlock, Matty nhấp nhổm bất an, giống như một con thú muốn bỏ chạy nhưng không biết lối nào an toàn. “Quả là một câu chuyện thú vị”, Crowe lẩm bẩm.
Nghĩ rằng những gì Crowe nói là một cách để phá vỡ sự yên lặng trong khi đang suy nghĩ, Sherlock giữ yên lặng. Crowe lắc lư ghế ra trước rồi ra sau, trong khi đó liếc nhìn Sherlock. “Đúng, quả là một câu chuyện thú vị”, một lúc sau ông nói.
Cái nhìn chằm chằm của ông làm Sherlock bực mình, vì thế nó nhìn đi chỗ khác, mắt nhìn lơ đãng quanh phòng. Căn nhà của Amyus Crowe lộn xộn, đầy sách báo và tạp chí bạ đâu bỏ đấy. Một chồng thư đặt trên mặt lò sưởi bằng gỗ với con dao nằm ở giữa, cạnh một chiếc đồng hồ chỉ hai giờ. Bên cạnh chỗ họ ngồi là một chiếc dép đi trong nhà, từ đó một nhúm điếu xì gà thò ra như những ngón tay chực nắm. Trông có vẻ dơ bẩn, nhưng không có bụi, không có đất. Nơi này sạch sẽ nhưng không gọn gàng. Có vẻ như Crowe có cách riêng để cất đồ.
“Cuối cùng cậu tính sao đây?” sau cùng Crowe thách thức.
Sherlock nhún vai. Nó không muốn là đối tượng bị Crowe quan sát. “Nếu cháu biết”, nó trả đũa, “cháu đã không đến gặp ông”.
“Mọi việc sẽ tốt nếu một người luôn có thể tạo ra sự khác biệt”, Crowe đáp lại không chút bực bội, “nhưng trong thế giới đầy phức tạp của chúng ta, cậu thỉnh thoảng cần đến bạn bè, và thỉnh thoảng cần một tổ chức đứng sau lưng chúng ta”.
“Ông nghĩ chúng ta nên đi gặp cớm à?” Matty hỏi, rõ ràng là hoang mang.
“Cảnh sát hả?” Crowe lắc đầu. “Tôi nghi ngờ việc họ sẽ tin các cậu, và ngay cả khi họ tin thì họ cũng không làm được gì nhiều. Bất cứ ai sống trong một ngôi nhà lớn đó cũng sẽ chối hết mọi việc. Họ là người có quyền lực và thế lực, chứ không phải các cậu. Và các cậu phải thừa nhận đó là một câu chuyện phi lý dựa trên bề ngoài của nó”.
“Ông có tin bọn cháu không?” Sherlock thách thức.
Crowe nhăn mặt ngạc nhiên. “Tất nhiên tôi tin các cậu”, ông nói.
“Vậy tại sao? Như ông đã nói, đó là một câu chuyện phi lý”.
Crowe mỉm cười. “Mọi người làm mọi thứ khi họ nói dối”, ông đáp. “Nói dối gây căng thẳng, vì người ta phải giữ hai việc khác hẳn nhau trong đầu cùng một lúc – sự thật mà người ta muốn giữ kín và lời nói dối mà người ta muốn nói ra. Sự căng thẳng đó thể hiện theo một số cách nào đó. Người ta không nhìn vào mắt một cách thích hợp, họ xoa mũi, họ ngập ngừng và nói lắp nhiều hơn khi nói chuyện. Và họ sẽ đi vào chi tiết nhiều hơn mức cần thiết, như thể nó sẽ làm cho lời nói dối của họ đáng tin hơn nếu họ nhớ màu của giấy dán tường, và người kia có râu hay ria hay một cái gì đó đại loại như vậy. Các cậu đã kể một câu chuyện thật, các cậu đã nhìn vào mắt tôi và các cậu không thêm thắt những chi tiết không liên quan. Trong khả năng đánh giá của tôi, các cậu đã kể thật – hay ít nhất, điều các cậu tin là sự thật”.
“Vậy chúng ta phải làm gì bây giờ?” Sherlock hỏi. “Có điều gì đó cứ lởn vởn quanh đây. Nó có liên hệ với mớ quân phục, những con ong, và cái nhà kho ở Farnham. Và người đàn ông trong căn nhà lớn – cháu nghĩ là tay Nam tước – đứng sau mọi việc, nhưng cháu không biết hắn ta đang làm điều gì”.
“Vậy thì chúng ta phải tìm cho ra”. Amyus Crowe để cái ghế đứng lại trên bốn chân của nó và đứng lên. “Nếu chúng ta không có đủ dữ kiện để đi đến kết luận thì chúng ta phải ra ngoài và tìm thêm dữ kiện. Hãy đi và hỏi vài câu”.
Matty nhấp nhổm. “Cháu phải đi”, nó lầm bầm.
‘Đi với chúng tôi, cậu bé”, Crowe nói. “Cậu là một phần của chuyến phiêu lưu này, và cậu xứng đáng với việc khám phá việc gì đang diễn ra. Và ngoài ra, cậu Sherlock trẻ tuổi này có vẻ tin tưởng cậu”. Ông ngừng lại. “Nếu điều này giúp cậu lên tinh thần, tôi sẽ tìm vài thứ để ăn trên đường đi”.
“Cháu sẽ đi”, Matty nói.
Crowe dẫn họ ra ngoài. Ở chỗ bóng râm bên cạnh căn nhà, Virginia Crowe đang chải lông cho con ngựa của cô, Sandia. Bên cạnh nó là con ngựa cái lớn hơn màu hồng. Sherlock nghĩ đó là ngựa của ông Crowe. Hai con ngựa mà nó và Matty cưỡi ra khỏi nhà Nam tước đang yên lặng nhai cỏ ở một bên.
Virginia nhìn lên khi họ đến. Mắt cô chạm ánh mắt của Sherlock và cô nhìn đi hướng khác ngay.
“Chúng ta sẽ đi cưỡi ngựa”, Crowe thông báo. “Virginia, con cũng đi cùng. Càng nhiều người hỏi, càng nhiều cơ hội có câu trả lời gần đúng”.
“Con không biết nên hỏi gì”, Virginia phản đối.
“Con đã đứng ngoài cửa, lắng nghe”, Crowe nói với nụ cười trên môi. “Cha nghe tiếng hí của con Sandia. Nó chỉ làm vậy nếu con ở đó nhưng không quan tâm đến nó. Và cha có thể nhìn thấy cái gì đó chuyển động, che ánh sáng ở chân cửa”.
Virginia đỏ mặt, nhưng vẫn liếc cha cô, có chút ngang ngạnh. “Cha vẫn dạy con tận dụng cơ hội”, cô nói.
“Hoàn toàn đúng, cách tốt nhất để học là lắng nghe”.
Crowe nhảy lên con ngựa của ông, và Virginia cũng vậy. Cô bé quan sát, mỉm cười, khi Sherlock và Matty leo lên ngựa của chúng, và gật đầu khích lệ Sherlock, “Không quá tệ”, cô nói.
Cả bốn chạy nước kiệu nhỏ dọc theo con đường, đi lại lộ trình mà Sherlock và Matty đã dùng để ra khỏi căn nhà. Mặt trời đang chiếu sáng, mùi của khói củi treo lơ lửng trong không khí, và Sherlock phải cố sức tự thuyết phục mình rằng nó chưa hề bị đánh gục, bị bắt giam, bị hỏi cung và gần như bị kết án tử. Mọi thứ đó dường như đã không xảy ra, có phải không? Không phải trong một ngày đầy nắng. Ngay cả những vết cắt trên mặt cũng đã ngừng đau.
Virginia thúc ngựa lên gần Sherlock hơn. “Cậu cưỡi ngựa khá tốt”, cô nói, “so với người mới bắt đầu”.
“Mình nhận được những lời khuyên hay”, nó nói, liếc nhìn cô bé rồi nhìn sang nơi khác.
“Những chuyện cậu kể, lúc ở trong nhà. Tất cả là thật à?”
“Từng từ một”.
“Vậy thì cái vùng quê này không chán ngấy như mình đã nghĩ”.
Càng gần đến căn nhà lớn nơi nó bị giam, nó càng cáu kỉnh. Cuối cùng Amyus Crowe ghìm cương cho ngựa dừng lại gần khu vực cổng nhà. Không có ai ở đó.
“Là chỗ này à?” Crowe hỏi.
Sherlock gật đầu.
“Có nhiều vết lún dẫn ra ngoài cổng và dọc theo con đường”, Crowe tiếp. “Tôi thấy có vẻ như họ chạy tháo thân”.
Sherlock nhìn Virginia, bối rối. Cô bé cười. “Rời khỏi”, cô giải thích. “Bỏ chạy”.
“Ồ, đúng”. Nó ghi nhớ từ đó để sau này dùng.
“Hãy đi xuôi con đường và xem chúng ta tìm được gì”, Crowe la lớn, và thúc ngựa lên. Virginia theo ngay sau ông.
Sherlock và Matty nhìn nhau rồi đi theo.
Khoảng hơn năm phút sau, họ tìm thấy một quán rượu – xây bằng gạch đỏ, các viên gạch xếp theo kiểu xương cá trích rất đặc trưng mà Sherlock đã để ý thấy trước đó, trát vữa trắng và xà nhà màu đen. Bàn ghế được đặt ở bên ngoài, trên cỏ. Khói bốc lên từ ống khói và Sherlock có thể ngửi thấy mùi thịt quay. Nó lập tức thấy đói.
Crowe ngừng lại và xuống ngựa. “Bữa trưa muộn”, ông nói. “Matty, Virginia ở đây trông chừng ngựa. Sherlock, cậu đi với ta”.
Sherlock đi theo người đàn ông Mỹ to cao vào quán. Trần nhà thấp, gần như được phủ bởi một lớp khói mỡ từ một con cừu đang được quay trên một cái xiên trên bếp lửa. Mùn cưa mới phủ trên sàn. Có bốn người đàn ông ngồi cùng bàn, nhìn người mới đến một cách ngờ vực. Người thứ năm ngồi trên ghế đẩu ở quầy, không chú ý đến họ, mải nhìn chằm chằm vào ly của anh ta hơn. Chủ quán, đứng sau quầy và đánh bóng cái vại to bằng một miếng vải, gật đầu với Amyus Crowe.
”Xin chào các quí ngài. Muốn uống hay ăn hay cả hai?”
“Bốn đĩa bánh mì và thịt”, Crowe nói, và Sherlock kinh ngạc khi nghe ông nói mà không có chút giọng Mỹ như bình thường. Giọng của ông, trong khả năng nhận biết của Sherlock, được nói như thể ông là một nông dân hay người lao động chân tay từ một miền quê nào đó quanh London.
“Và bốn vại bia”.
Chủ quán mang ra bốn vại bia và để lên cái khay bằng thiếc. Crowe lấy một vại cho mình và gật đầu với Sherlock. “Mang chúng ra ngoài, chàng trai”, ông nói bằng giọng “Anh” cộc cằn. Sherlock cầm cái mâm và cẩn thận mang nó ra ngoài.
Nó để ý thấy Crowe thượng lên một cái ghế cao cạnh quầy.
Ở ngoài, Sherlock nhìn thấy Matty đã kiếm được một cái bàn và ghế dài gần quán. Virginia vẫn còn đang đứng với con ngựa. Nó đến chỗ Matty, và ngồi vào chỗ nó có thể nhìn vào quán qua một trong những cái cửa sổ. Matty lấy một vại bia và bắt đầu uống một cách thèm khát, nó dùng cả hai tay cầm vại bia.
Sherlock nhấm nháp từng ngụm chất lỏng màu nâu đậm. Đắng và nhạt nhẽo, và để lại một hương vị khó chịu trong miệng sau khi uống.
“Cây hoa bia không ăn được phải không?” nó nói với Matty.
Thằng bé lưỡng lự. “Cậu có thể ăn nó, mình cho là thế, nhưng không ai làm vậy. Vị nó không ngon lắm”.
“Vậy thì vì lý do quái gì mà người ta nghĩ có thể làm ra một thứ nước uống từ nó?”
“Chả biết”.
Nhìn qua cửa sổ vào quán, Sherlock thấy Amyus Crowe đang tán chuyện với chủ quán. Theo độ nghiêng của đầu Crowe, có vẻ như ông đang hỏi và chủ quán trả lời trong khi vẫn đang tiếp tục đánh bóng các vại bia bằng miếng vải ngày càng dơ.
Một cô gái khoác tạp dề xuất hiện mang một cái khay với bốn đĩa thịt bốc khói. Cô ấy bước ra ngoài, đặt đĩa và dao xuống bàn rồi rời đi không nói lời nào.
Virginia bước đến tham gia với chúng, và Sherlock nhích ra chừa chỗ cho cô. Cô dùng nĩa xiên một miếng thịt cừu nóng. Khi đưa nĩa lên miệng, cô ngưng lại. “Cậu biết là mình không viết lá thư đó phải không?’
“Giờ mình mới biết”. Sherlock nhìn ra chỗ khác, xa về phía đồng quê, không thể nhìn thẳng vào mắt cô bé. “Lúc đó mình nghĩ là cậu, nhưng giờ mình cho rằng lúc đó mình muốn tin như vậy. Nếu mình chịu khó nghĩ một chút, thì mình phải biết không phải là cậu viết”.
“Làm sao biết?”
Nó nhún vai. “Lá thư trang nhã và rất nữ tính, câu cú rất chính xác. Giống như ai đó cố giả làm một cô bé”. Nó tự chỉnh mình. “Mình muốn nói là một phụ nữ. Một phụ nữ trẻ. Ý mình là-”
“Mình hiểu ý cậu”. Cô bé cười nhẹ. “Vậy điều gì làm cậu nghĩ mình thường không dùng loại giấy viết nữ tính và có chữ viết đẹp?”
Lúc này nó có thể nhìn vào mắt cô bé, một lúc lâu. “Cậu chẳng giống bất cứ cô gái nào mình gặp ở Anh”, nó nói. “Cậu khác biệt. Mình vẫn đang cố hiểu cậu, nhưng mình nghĩ nếu cậu muốn mình đi đâu đó, như hội chợ chẳng hạn, cậu sẽ đến gặp và hỏi mình”. Nó ngưng lại và cân nhắc. “Hay, khả năng này cao hơn, đơn giản là bảo mình đi”, nó nói thêm.
Lúc này cô bé đỏ mặt. “Cậu nghĩ mình phách lối như vậy hả?”
“Không quá phách lối. Chỉ hơi hơi thôi”.
Cái nhìn của Matty chen vào giữa bọn họ. “Hai người đang nói gì thế?”
“Không có gì”. Sherlock và Virginia đồng thanh.
Nhìn qua cửa sổ lần nữa, Sherlock thấy Crowe đang tham gia vào nhóm bốn gã đàn ông đang ngồi cùng nhau. Có vẻ họ đang rất thân mật. Crowe ra hiệu cho chủ quán, ông này bắt đầu rót thêm bia từ một chiếc bình thiếc ở quầy.
“Cha cậu là một người đặc biệt”. Sherlock nói, xoay về hướng Virginia.
“Đôi khi ông ấy cũng thành công”.
“Ông ấy làm gì, hồi còn ở Mỹ?”
Cô bé nhìn chằm chằm vào đĩa thức ăn của mình. “Cậu thật sự muốn biết hả?”
“Ừ”.
“Ông ấy là thợ săn”.
“Ý cậu là ông ấy săn thú?”
Cô bé lắc đầu. “Ông săn người. Ông theo dấu những kẻ giết người trốn tránh pháp luật, và ông ấy truy đuổi những người da đỏ tấn công những khu định cư cách trở. Ông theo dấu họ nhiều ngày qua những nơi hoang vắng cho đến khi ông biết đủ để bắt họ một cách bất ngờ”.
Sherlock không thể tin hoàn toàn vào điều nó đang nghe. “Và sau đó thì – ông ấy mang họ về đối mặt với công lý?”
“Không”, cô bé nói lặng lẽ. Đột ngột cô bé đứng thẳng lên và bỏ đi, về hướng những con ngựa.
Sherlock và Matty lặng yên, mỗi đứa theo đuổi ý nghĩ riêng trong đầu.
Cuối cùng thì Crowe cũng rời quán và ngồi cùng chúng, ép cái thân hình đồ sộ giữa cái ghế dài và bàn. “Thật lý thú”, ông nói, lại trở về với giọng Mỹ.
“Có chuyện gì thế?” Sherlock hỏi. “Bọn họ có biết gì về căn nhà không?”
“Và làm thế nào họ chịu trả lời những câu hỏi của ông?” Matty hỏi thêm. “Ông là người lạ ở đây, và bọn họ thường không chịu mở miệng với người lạ”.
“Tốt nhất là lúc đó đừng có làm người lạ”, ông lặp lại. “Nếu cậu chỉ ngồi đó một lúc, nói chuyện với người ở quầy, cậu sẽ trở thành một phần của nơi đó. Rồi cậu tham gia câu chuyện, nếu cậu thấy một sự mở đầu, và nói với họ vài điều về mình – cậu là ai, tại sao cậu ở đây. Tôi nói với họ là tôi đang kiếm mua một trang trại để nuôi heo, vì quân lính mới đồn trú ở Aldershot sẽ cần nhiều thực phẩm. Họ rất muốn biết có bao nhiêu lính sẽ đóng ở đó, và chúng tôi nói chuyện với nhau về cơ hội kinh doanh. Tôi đã hỏi họ liệu có ai ở đây muốn tham gia đầu tư, hay ai có đất để cho thuê, và họ nói với tôi về cái điền trang ở cuối con đường này. Chủ nhân của nó là Maupertuis – một dạng Nam tước, hình như là người nước ngoài.
Sherlock liếc nhìn Matty và mỉm cười. Crowe dường như quên cái sự thật là ở đây chính ông ta là người nước ngoài.
“Chưa ai từng thấy ông Nam tước Maupertuis này, và ông ta luôn đi cùng bộ hạ của mình, không thuê người ở vùng này, điều này làm cho dân ở đây không thích lắm. Mọi thứ hàng cung ứng và những thứ khác nữa được mang đến từ nơi nào đó khác, chứ không mua ở gần đây. Dù sao đi nữa, ông chủ quán đang nghe chúng tôi nói chuyện và đã nói rằng cái ông Nam tước đó đã đi khỏi đây vào sớm hôm nay. Hình như có một đoàn xe ngựa hộ tống chạy xuôi con đường này, tất cả chất đầy các thùng và đồ đạc, với một chiếc xe đạp đen được cột sau xe. Và một lúc sau, có thêm nhiều xe ngựa đến, lần này được chất những thùng lớn hơn được che bằng những tấm phủ. Tôi nghi ngờ đó là những tổ ong mà cậu đã nhắc đến, chàng trai trẻ. Họ dùng khói để làm những con ong bị say và chúng ngủ đi. Đó là cách những người nuôi ong chuyên nghiệp làm khi họ di chuyển tổ ong”.
“Họ mang tổ ong đi cùng họ ư? Tại sao?”
Amyus Crowe gật đầu. “Đó là một câu hỏi hay. Khi cậu phải di tản gấp, tại sao cậu phải mang toàn bộ tổ ong đi cùng? Nó sẽ làm cậu bị chậm, và cũng không dễ mang nhiều ong đến nơi khác”. Ông trầm ngâm một lát. “Có vẻ như việc trốn thoát của các cậu làm họ kinh hãi. Họ không thể mạo hiểm chờ cậu đến gặp cảnh sát và cảnh sát sẽ đến điều tra. Họ di chuyển đến nơi khác và chúng ta cần biết chỗ đó ở đâu”.
“Chúng ta có thể đi theo họ”. Sherlock nói.
Crowe lắc đầu. “Họ đã khởi hành từ lâu rồi”.
“Họ sẽ đi chậm”, Sherlock khăng khăng. “Họ đi cùng với những tổ ong. Một người cưỡi ngựa có thể đuổi kịp họ”.
“Họ có nhiều con đường để đi”. Crowe vẫn kiên trì.
“Một đoàn xe dài hộ tống? Mọi người sẽ nhìn và nhớ nó. Và họ cũng không đi theo những con đường quê gập ghềnh – họ sẽ đi theo những con đường lớn. Việc này sẽ làm giảm bớt những khả năng”.
Crowe cười hớn hở. “Suy nghĩ tốt lắm, chàng trai”.
“Ông đã nghĩ về điều đó à?” Sherlock hỏi, khó chịu.
“Đúng, nhưng tôi không muốn đưa sẵn cho cậu đáp án. Tôi muốn xem cậu có khả năng tư duy không, đặc biệt khi tôi đang dồn cậu theo hướng khác”. Crowe đứng lên. “Tôi biết vài gã gần nhà tôi có ngựa và có thể làm việc đó nếu được trả vài shilling. Tôi sẽ bảo họ đi tìm đoàn xe. Tôi nghĩ cậu nên về Trang viên Holmes để giảng hòa với gia đình. Nói với họ là cậu đi với tôi suốt thời gian qua – điều đó sẽ làm mọi việc lắng xuống. Tôi sẽ tạt qua ngày mai và nói cho cậu biết những gì tôi khám phá ra”.
Bốn người phi nước kiệu ngược trở lại những con đường đá và những lối đi xuyên qua miền quê cho đến khi tới gần Farnham, nơi họ chia tay. Matty hướng về phía con thuyền của nó, trong khi Crowe và Virginia phi nước kiệu về phía nhà họ. Sherlock để ngựa đứng yên một lát, cho những việc đã qua đọng lại trong đầu trở thành ký ức hơn là một mớ bòng bong những ấn tượng đầy cảm xúc. Cuối cùng, khi cảm thấy bình tĩnh, nó hướng ngựa về phía Trang viên Holmes.
Khi về đến nơi, Sherlock ngẩn ra một lúc về việc con ngựa. Xét cho cùng, ngựa không phải của nó. Mặt khác, người chủ trước của con ngựa dường như đã từ bỏ nó, và con ngựa rõ ràng là sự lên đời từ chiếc xe đạp lọc cọc cũ kỹ mà Matty đã tìm cho nó. Cuối cùng nó để con ngựa lại chuồng cùng với một mớ cỏ. Nếu ngày mai con ngựa còn ở đó thì nó sẽ xem đó là một dấu hiệu để giữ lại con ngựa.
Bữa ăn tối bắt đầu được phục vụ khi nó bước vào. Nó cư xử bình thường, như không có gì xảy ra, như là thế giới vẫn y như vậy sáng nay. Nó liếc nhìn quần áo, phủi bụi ở áo khoác, rồi hướng về phòng ăn.
Bữa ăn là một trải nghiệm siêu thực. Thím nó cứ nói suốt về những thứ không cụ thể như mọi khi, và chú nó thì đọc một cuốn sách lớn khi ăn, thỉnh thoảng lại vừa lẩm bẩm vừa thở. Bà Eglantine liếc nhìn nó từ chỗ của bà ở phía bên kia phòng gần bức tường. Thật khó để hòa hợp không khí bình lặng, lễ phép với việc nó đã bị đánh gục, bắt cóc, tuyên án tử và trốn thoát, tất cả chỉ trong vài tiếng qua. Nó đói rã rời, dù đã ăn một bữa thịt ở quán, và nó lấy đầy đĩa những lát thịt gà được hấp với rau củ và rưới thật nhiều nước sốt bên trên.
“Nhìn con giống như mới đi đánh trận về, Sherlock”, thím nó nói khi đang ăn món tráng miệng – câu hỏi trực tiếp nhất mà thím từng hỏi nó.
“Con… bị té”, nó nói, ý thức được những vết cắt nhức nhối trên mặt và tai. “Con không quen chạy xe đạp”.
Lời giải thích đã thỏa mãn được thím, và bà lại tiếp tục lầm rầm một mình, tiếp tục những câu độc thoại không ngừng.
Sau khi đã nán lại đủ lâu cho phải phép, Sherlock đứng lên và đi về phòng. Nó dự định đọc sách một lúc, rồi sau đó có lẽ sẽ viết nhật ký một vài sự việc ngày hôm nay để khỏi quên, nhưng ngay khi ngả người xuống giường, nó thấy khó mà mở được mắt, và chỉ trong vài giây nó đã chìm vào giấc ngủ, vẫn mặc nguyên quần áo.
Nó thức giấc khi xung quanh tối đen và những con cú đang rúc ở đâu đó xa xa. Nó cởi quần áo ra và đẩy xuống dưới tấm nệm thô. Nó chìm vào giấc ngủ sâu như một người lặn vào một cái hồ tối đen, huyền bí.
Bình minh ngày hôm sau rực rỡ và gay gắt. Amyus Crowe đang đứng ở dưới lầu, trong sảnh khi Sherlock đi xuống ăn sáng. Ông mặc bộ đồ bằng vải linen trắng và đội cái mũ rộng vành.
“Chúng ta sẽ đi London”, ông nói lớn khi thấy Sherlock. ‘Tôi đi công việc, và chú cậu đã cho phép cậu đi với tôi. Đó sẽ là một buổi học. Chúng ta sẽ thăm vài phòng tranh, và tôi sẽ dạy cậu vài điều về lịch sử gắn liền với thành phố tuyệt vời đó”.
“Virginia có đi cùng không ạ?” Sherlock bật hỏi, và ngay lập tức ước rằng có thể thu lại những lời đó, nhưng Crowe chỉ cười toe toét, mắt nhấp nháy. “Tại sao, có chứ”, ông nói. “Tôi khó có thể để con bé một mình nơi miền quê này, phải không? Tôi là loại cha nào mà làm thế?”
“Tại sao lại là London?” Sherlock hỏi nhỏ hơn khi nó xuống tới cuối thang.
“Đó là nơi đoàn xe hướng tới”. Crowe đáp nhỏ không kém.
“Tôi nghi ông ta có một căn nhà khác ở đó”.
Với tiếng sột soạt khó nghe thấy của chiếc váy, bà Eglantine bước ra khỏi bóng tối ở cuối sảnh. “Cậu nên ăn sáng trước khi tôi dọn sạch bàn ăn, thưa cậu chủ Sherlock”, bà ta nói, giọng bà thể hiện ác cảm đủ để nhận thấy nhưng không đủ cho Sherlock có bất cứ phản ứng chủ động nào.
“Cảm ơn”, nó nói, rồi quay lại với ông Crowe. “Chúng ta có thể đi ngay không?”
“Hãy nạp một ít thức ăn”, Crowe trả lời. “Cậu có thể cần nó. Gói một gói nhỏ đủ cho hai ngày. Tôi sẽ đợi trong xe ngựa bên ngoài”. Ông quay sang bà Eglantine và giở mũ một cách cường điệu. “Xin chào quý bà”, ông ta nói, rồi bỏ đi.
Sherlock ăn bữa sáng nhanh hết mức, chỉ đủ nếm qua. London! Nó sẽ đi London! Và nếu may mắn nó có thể gặp Mycroft ở đó!
Amyus Crowe đang chờ trong chiếc xe ngựa bốn bánh bên ngoài Trang viên Holmes. Virginia ngồi bên cạnh ông. Cô bé có vẻ không thoải mái, bởi vì chiếc váy nhiều tầng và chiếc mũ có dây buộc ở cằm hay bởi vì cô bé bị nhốt trong xe chứ không phải ở bên ngoài không gian mở.
“Trông cậu đẹp lắm”, Sherlock nói khi ngồi đối diện cô bé và người lái xe đang chất cái túi của nó lên chỗ bên cạnh.
Cô bé cáu kỉnh nhìn nó.
Tiếng bánh xe lăn trên sỏi khi chiếc xe lăn bánh đã làm át câu trả lời của cô bé, nhưng dù sao Sherlock cũng không chắc là nó có muốn nghe không.
Khi họ đến ga Farnham, Matty đang chờ họ. Amyus Crowe mỉm cười với nó. “Cậu nhận được tin nhắn của tôi à?”
“Cháu bị người nhắn tin đánh thức. Làm thế nào ông biết chỗ cháu đậu thuyền?”
“Công việc của tôi là biết chỗ mọi thứ. Công việc và cũng là sở thích đặc biệt của tôi. Thích đi một chuyến không chàng trai?”
“Cháu không có quần áo để thay hay bất cứ đồ dùng nào”, Matty nói.
“Chúng ta sẽ mua những gì cháu cần ở London. Bây giờ hãy đi lấy vé”.
Crowe mua bốn vé đi London, toa hạng hai, và cả đoàn kéo xuống sân ga nơi người đánh xe ngựa đang dỡ đồ xuống. Ông canh giờ thực hoàn hảo. Xe lửa đến sau đó mười phút, một con vật khổng lồ, cái mũi hình ống phía trước đầu máy phun hơi nước, các piston đẩy lên đẩy xuống như những tay biên trong đồng hồ và các bánh xe bằng kim loại của nó, cao gần bằng Sherlock, kêu rít trên đường ray.
“Một đầu máy lớp Joseph Beattie “Saxon””, Amyus nhận xét. “Về tổng quát được nhắc đến như là một 2-4-0. Sherlock, cậu có thể giải thích cho tôi tại sao không?”
“Tại sao gọi là một “Saxon” hay tại sao là một “2-4-0”?”
Amyus gật đầu. “Việc thu thập thông tin phù hợp phụ thuộc chủ yếu vào cách phân tích câu hỏi phù hợp”, ông nhận xét. “Ý tôi muốn hỏi đến thứ bậc của “2-4-0”. Tôi nghĩ cái từ “Saxon” chỉ là một mẩu sở thích lịch sử của riêng người kỹ sư. Ông ta cũng thiết kế một đầu máy mà ông gọi là “Nelson””.
Sherlock dõi mắt một vòng khắp cái đầu máy. Nó nhận thấy bánh xe không cách đều nhau mà hợp thành cụm. “Cháu sẽ nói là do cách sắp xếp của các bánh xe”, nó đánh liều nói, “nhưng không thể như thế”.
“Thật ra, nó là như thế”, Crowe đáp. “Có hai bánh xe trên một trục đơn ở phía trước, xoay một cách độc lập cho phép động cơ vượt qua những đường cong. Rồi có bốn bánh xe gắn với động cơ, trên hai trục. Đó chính là những bánh động lực”.
“Và “0” là gì?” Sherlock hỏi.
“Vài đầu máy có một bộ bánh xe ở phía cuối”, Crowe đáp.
“Số “0” chỉ ra đầu máy này không có bộ bánh xe thứ ba”.
“Vậy người ta dùng một con số để chỉ ra là không có số”, Sherlock nói.
“Chính xác”. Crowe mỉm cười. “Nó có thể không dễ nhận thấy, nhưng cực kỳ logic, nếu cậu chấp nhận hệ thống họ đã chọn sử dụng”.
Họ tìm được toa của mình và ổn định chỗ ngồi cho chuyến đi. Sherlock chưa bao giờ đi xe lửa trước đó, và mọi thứ đều mới mẻ với nó: sự rung lắc của chỗ ngồi, vách toa và cửa sổ khi xe lửa di chuyển, mùi ngọt lạ lùng của khói bị tạt vào, các phong cảnh đồng quê lướt qua, liên tục thay đổi nhưng thống nhất một cách kỳ lạ. Matty mở to hai mắt và bồn chồn; Sherlock nghi là trước đây thằng bé chưa bao giờ trải nghiệm ngay cả sự xa hoa đạm bạc của một toa tàu hạng hai.
Các cánh rừng trôi qua nhường chỗ cho các cánh đồng, nhưng cây trồng ở các cánh đồng này không phải là bắp, lúa mì hay lúa mạch; chúng màu nâu, có một số cây mảnh khảnh với những chiếc lá xanh nhỏ, xoắn quanh các cọc cao khoảng mét rưỡi hai mét được cắm thẳng đứng trên đất. Sherlock vừa định hỏi Crowe đó là cây gì thì Matty, nhận thấy sự quan tâm của nó, đã chồm ra để nhìn.
“Cây hoa bia”, nó nói ngắn gọn. “Để làm bia. Vùng này được biết đến vì chất lượng bia của mình. Chỉ một mình Farnham thôi đã có đến ba mươi quán rượu và quán rượu kèm thức ăn”.
Chuyến đi cứ tiếp tục như thế, ngừng lại khi chuyển tàu ở Guildford, cho đến khi họ đến ga lớn cuối cùng, ga Waterloo, ở thủ đô náo nhiệt London.
Nơi này Mycroft Holmes sống và làm việc.