CHƯƠNG 12
Ga Waterloo là một nơi tập trung một đám người náo nhiệt tỏa đi mọi hướng và mang vác đủ loại hộp, gói, va li, và hòm, tất cả bên dưới một mái vòm khổng lồ bằng kim loại và kính. Hơi ấm mặt trời được khuếch đại bởi kính, làm nhà ga nóng hơn những con đường xung quanh. Những chiếc xe lửa xuất hiện ở sân ga và phun ra những đám mây hơi nước và thêm nhiều người hơn, làm tăng thêm sự ấm áp. Sherlock có thể cảm thấy mồ hôi chảy thành dòng bên dưới cổ áo.
Amyus Crowe thuê ngay một người phu khuân vác và bảo anh ta mang túi của họ từ xe lửa xuống. Người phu khuân vác dẫn họ ra ngoài, nơi một hàng những chiếc xe ngựa hai bánh đang chờ rước một hàng khách. Thêm nửa penny tiền boa đã thuyết phục được người phu khuân vác dẫn họ dọc theo hàng xe đến nơi những chiếc xe mới đến thả hành khách xuống trước khi xếp hàng chờ khách. Vài phút mặc cả và họ leo lên một chiếc xe ngựa qua một cánh cửa trong khi những người khách trước đó leo xuống qua cánh cửa kia.
Amyus Crowe có vẻ quen thuộc với London, và bảo người đánh xe đưa họ tới khách sạn Sarbonnier. Chiếc xe lăn nước kiệu, mang theo Sherlock đang chồm ra ngoài một cửa sổ nhìn phong cảnh và Matty đang chồm ra cửa sổ còn lại.
Quy mô của các tòa nhà rất lớn nếu so với Farnham, Guildford và những tỉnh khác mà Sherlock quen thuộc. Nhiều tòa nhà lên đến năm, sáu tầng. Vài cột trụ đỡ lấy mái cổng phía trên những cánh cửa trước và hàng dãy những bức tượng điêu khắc dọc theo diềm mái, vài cái có hình người rõ ràng và những bức khác là hình các sinh vật thần thoại có cánh, sừng, và nanh.
Chỉ trong vài phút họ đã đi qua một chiếc cầu bắc ngang một con sông rộng.
“Sông Thames?” Sherlock hỏi.
“Chính nó”, Crowe đồng ý. “Một trong những con sông dơ nhất, ùn tắc, và nhiều tội ác nhất. Tôi có những kinh nghiệm chẳng vui vẻ gì với nó”.
Chiếc xe ngựa lọc cọc chạy qua cầu về phía bên kia sông, quẹo vài lần, và dừng lại bên ngoài một tòa nhà dài được xây bằng đá màu cam. Người đánh xe nhảy xuống và giúp dỡ các túi xuống. Ba người khuân vác xuất hiện từ cánh cửa xoay trước tòa nhà và mang hành lý đi.
Khi đã vào cái hành lang đầy ấn tượng – các cột màu trắng có bệ chạm trổ, trần nhà khảm tranh kính màu và sàn lát đá cẩm thạch hồng – Amyus Crowe bước nhanh đến cái quầy gỗ dài.
“Ba phòng, hai đêm”, ông nói với người đàn ông mặc đồng phục đứng sau quầy.
Người đàn ông gật đầu. “Vâng, thưa ngài”, ông ta nói, vươn tay lấy ba cái chìa khóa từ tấm bảng phía sau. Xoay lại, ông ta nói thêm, “Ông vui lòng ký vào sổ khách, thưa ông”.
Crowe ký tên với nét chữ bay bướm, người nhân viên đưa ông các chìa khóa. Chúng được buộc vào một quả cầu bằng đồng lớn, có lẽ để khách khỏi đánh mất chìa khóa, Sherlock đoán.
“Sherlock và Mathew ở một phòng”. Crowe nói và đưa chúng một chìa. “Virginia ở một phòng và tôi sẽ ở phòng thứ ba. Túi của mọi người sẽ được mang lên phòng. Mathew, tôi đề nghị cậu và tôi sẽ đi đâu đó mua quần áo và ít đồ vệ sinh cá nhân cho cậu”. Ông nhìn Mathew, đánh giá. “Và cắt tóc”, ông nói thêm. “Sherlock, Virginia – tôi đề nghị hai cô cậu ra ngoài, quẹo phải và đi đến cuối đường, và hai cô cậu sẽ thấy vài thứ có lẽ sẽ hấp dẫn. Trở lại sau một tiếng để ăn trưa. Nếu đi lạc, hãy hỏi đường về khách sạn Sarbonnier”.
Nghe lời Crowe, Sherlock dẫn Virginia ra ngoài và quẹo phải. Hai đứa ngay lập tức bị cuốn vào một đoàn người đang đi cùng hướng. Sợ bị lạc nhau, Sherlock vươn tay ra vẫy Virginia đến gần hơn với nó. Thay vào đó, tay cô bé nắm chặt tay nó một lúc, mềm mại và ấm áp. Tim nó đột ngột đập nhanh gấp hai lần bình thường. Nó giật mình liếc cô bé. Cô mỉm cười lại với nó, thoáng e lệ.
Chỉ mất vài phút để đi đến cuối dãy nhà. Con đường giờ mở rộng ra thành một quảng trường lớn, nơi ngự trị một cái cột cao mọc lên từ một bệ ở trung tâm. Trong một lúc Sherlock nghĩ về người đàn ông đang đứng trên đỉnh cột, ý nghĩ của nó bất ngờ trở về Trang viên Holmes, khi chú nó nói trong một bữa ăn tối về những ẩn sĩ tôn giáo khổ hạnh, những người đã từ bỏ cuộc sống bình thường và gia đình để sống trên đỉnh của những cây cột, suy ngẫm về Chúa và chỉ ăn những thứ mà người qua đường ném lên cho. Tập trung một lát nó nhận thấy hình người trên đỉnh cột không phải là một người đàn ông, mà là một bức tượng được tạc như thể mặc quân phục hải quân.
“Ai thế?” Virginia hỏi như bị mê hoặc.
“Mình nghĩ đó là Đô đốc hải quân Nelson”, Sherlock trả lời. “Người làm quảng trường Trafalgar này. Để ghi nhớ một chiến công lẫy lừng của hải quân năm 1805”.
Ở bệ cột có hai đài nước, nơi bụi nước phun lên các màu cầu vồng rực rỡ trong ánh nắng sớm. Đây là trái tim của London. Đây là điểm trung tâm của một đế chế trải dài đến tận nửa bên kia của địa cầu.
Và ở một nơi gần đây, Mycroft, anh của Sherlock có lẽ đang ngồi ở bàn giấy giúp điều hành đế chế.
Bọn chúng tha thẩn quanh quảng trường Trafalgar một lúc, ngắm mọi người và quan sát những tòa nhà đẹp nằm dọc những con đường xung quanh, và sau đó chúng trở về hướng khách sạn. Vừa đúng lúc: Amyus Crowe đang đứng đợi chúng ở sảnh. Ở cùng ông là một cậu bé trạc tuổi Matty Arnatt, nhưng với mái tóc gọn gàng, bộ đồ lịch sự và khuôn mặt cau có. Mất một lúc Sherlock mới nhận ra đó chính là Matty.
“Đừng”, Matty cảnh cáo. “… không được”.
Sherlock và Virginia cười phá lên.
Cả bốn người cùng vào phòng ăn gọi món cho bữa trưa. Xung quanh họ là những phụ nữ với lụa là, váy phồng, lông công và những mũ, những bao tay, các ông với những bộ ria óng và mặc áo choàng, nhưng không ai chú ý đến họ. Bọn họ được chấp nhận như một gia đình đi ngoạn cảnh thủ đô của quốc gia quan trọng nhất trên hành tinh.
Sherlock dùng món cốt-lết cừu, được nấu hoàn hảo – còn hồng hồng ở giữa – và bao quanh là khoai tây và đậu. Cả Matty và Amyus Crowe đều dùng món bít-tết và bánh pudding cật, trong khi Virginia, phiêu lưu hơn, thử món gà rừng ăn với nước sốt kiểu Pháp có tiêu, bắp và kem.
Khi họ đang ăn, Amyus Crowe cập nhật lại lý do họ ở đây.
“Tôi đã đánh điện cho một người quen ở đây”, ông nói, miệng đầy thức ăn. “Đại loại là một mối liên hệ công việc”.
Sherlock thắc mắc một chút về loại “công việc” mà Crowe có liên quan đến, ông chưa bao giờ nhắc tới trước đây, nhưng ông người Mỹ lại tiếp tục.
“Tôi báo với ông ta đường đi của đoàn xe, và bảo ông ta chặn chúng lại và tìm xem điểm đến cuối cùng của chúng là ở đâu. Tôi đã báo nơi tôi ở và ông ta gửi điện tín báo là đoàn xe cuối cùng đã dỡ các thùng cùng những thứ kiểu như vậy ở một nhà kho tại một nơi gọi là Rotherhithe. Ông ta đã báo tôi địa điểm của nhà kho”.
“Rotherhithe?” Sherlock hỏi.
“Vài dặm xuôi theo con sông – một chỗ ghê tởm nơi các thủy thủ giải trí giữa các chuyến đi biển và là nơi chứa hàng hóa trước khi xếp chúng lên tàu. Đó không phải là chỗ người ta muốn đến khi trời tối”. Ông lắc đầu ngán ngẩm. “Tôi không muốn mạo hiểm dẫn mọi người đến đó, nhưng vụ này quá lớn. Gã Nam tước đang dự định chuyện gì đó, và việc đó đủ quan trọng để hắn ta sẵn sàng giết người vì nó. Và hắn đã ra tay rồi. Giết hai cậu đối với hắn cũng chẳng khó hơn đạp lên một con nhện. Vấn đề ở đây là chúng ta phải kiểm tra xem những cái thùng trong xe có phải là những tổ ong cậu nhìn thấy ở Farnham không, và nghĩa là tôi cần cậu đến Rotherhithe để ngó một cái, Sherlock. Nhưng tôi cảnh báo trước – điều đó có thể nguy hiểm. Nguy hiểm thật sự”.
Sherlock gật đầu chầm chậm. “Cháu sẽ nắm lấy cơ hội. Cháu muốn khám phá điều gì đang xảy ra – tại sao hắn ta muốn giết cháu”.
Crowe liếc qua Matty, đang xúc đậu ăn. “Còn cậu, cậu trai trẻ, tôi nghĩ cậu cũng đã tham gia trong vụ ở cầu tàu và nhà kho, thêm việc cả đời cậu dọc ngang trên chiếc thuyền nhỏ.
Và tôi cũng nghĩ cậu có thể xoay xở trong một trận đánh”.
“Nếu có đánh nhau”, Matty nói, miệng đầy đậu, “cháu sẽ chạy, nếu chạy được. Nếu cháu không chạy được, cháu sẽ đấm dưới thấp và đấm thật mạnh”.
“Tôi cũng chỉ làm được đến thế là cùng”. Crowe gật đầu. “Tất nhiên tôi sẽ đi với các cậu, nhưng chúng ta có thể phải chia nhau ra đi quan sát những khu vực khác nhau”.
“Vậy còn con?”, giọng Virginia cất cao lên vì phẫn nộ, đôi mắt tím lóe lên nguy hiểm. “Con làm gì?”
“Con ở đây”, Crowe nói một cách ảm đạm. “Cha biết con có thể xử lý tốt một trận đánh nhau, nhưng con không biết điều gì có thể xảy ra cho một cô gái trẻ ở Rotherhithe. Những kẻ sống ở đó còn tệ hơn súc vật. Cha sẽ không bao giờ tha thứ cho mình nếu có việc gì xảy ra cho con, không bao giờ sau khi–” ông ngừng đột ngột. Nhìn qua Virginia, Sherlock nhìn thấy mắt cô bé đột ngột sáng lấp lánh. “Ở đây”, Crowe lặp lại. “Nếu chúng ta chia nhau ra, chúng ta cần biết là có người ở đây để nhận và chuyển tin. Đó là việc của con”.
Virginia gật đầu, không nói gì.
Crowe nhìn lại hai cậu bé. “Khi các cậu sẵn sàng, chúng ta sẽ đi”.
Khi họ băng qua sảnh khách sạn, Sherlock quay lại nhìn Virginia. Cô bé đang liếc nhìn cậu. Cô cố cười, nhưng cặp môi méo xẹo vì lo lắng. Nó mỉm cười lại để cô bé yên tâm, nhưng nó ngờ là biểu hiện trên mặt nó chẳng thuyết phục hơn là mấy.
Thay vì đi xe ngựa đến Rotherhithe, Crowe dẫn hai cậu bé đến bờ sông Thames, nơi những bậc đá loang lổ rong rêu dẫn xuống một con sông màu nâu bốc mùi hôi thối. Phía bờ xa được che phủ bởi khói sương và một lớp chướng khí màu nâu có lẽ bốc lên từ chính con sông. Một chiếc thuyền đang bập bềnh trên mặt nước. Người chủ của nó ngồi ở mũi, đang hút tẩu.
“Rotherhithe”, Crowe nói dứt khoát, quăng một đồng tiền. Người lái thuyền gật đầu, khéo léo chụp đồng tiền cắn thử để chắc là tiền thật. Crowe và mấy thằng bé ngồi ở đuôi thuyền khi người lái bắt đầu chèo, anh ta ngồi quay về phía sau và kéo mái chèo để đẩy chiếc thuyền đi trên dòng nước.
Sherlock thấy chuyến đi lạ lùng và không yên tĩnh. Nước bì bõm dưới đáy thuyền và nhiều thứ trôi nổi trên sông mà nó cố không nhìn đến: chất thải của người, xác chuột chết, những thanh gỗ dài ướt đẫm phủ đầy rong rêu. Cái mùi quá kinh khủng đến nỗi nó phải thở bằng miệng, và ngay cả vậy nó vẫn chắc là nó vẫn có thể cảm thấy cái mùi đang phủ đầy lưỡi và cuống họng nó. Việc đó làm nó mắc ói. Có lúc một chiếc thuyền khác xuất hiện từ trong sương mù và vượt lên sát họ. Ai đó la lên chửi rủa, và người lái thuyền của họ đáp lại bằng một cử chỉ Sherlock chưa bao giờ trông thấy trước đây nhưng nó có thể hiểu nghĩa.
Mất khoảng hai mươi phút để đến Rotherhithe, họ bước lên bờ theo những bậc thang gần như giống y những bậc họ đã bước xuống thuyền. Crowe dẫn đường đi lên trên.
Một ngõ hẹp lát đá cục chạy dọc theo bờ sông, bẻ cua ở cả hai đầu. Crowe dẫn Matty và Sherlock đi dọc theo con ngõ, vượt qua những căn nhà kho cao chót vót và những bức tường gạch, đi dọc theo bờ sông Thames nặng mùi và luôn men theo bóng tối ở bất kỳ nơi nào có thể. Sau khoảng mười phút ông dừng lại. Trước mặt họ là một trong những quán ăn có thể tìm thấy ở bất kỳ nơi đâu ở thủ đô. Tiếng nhạc chói tai của một cây piano đứng bị lạc nốt vọng ra qua cửa ra vào và cửa sổ, cùng một mớ lộn xộn những giọng ca đang hát những ca từ khác nhau cho cùng một giai điệu. Vài người phụ nữ đứng ở ngưỡng cửa và nhìn Amyus Crowe một cách thích thú trước quay đi khi họ nhìn thấy Sherlock và Matty.
“Tôi nghĩ nhà kho ở ngay khúc cua”, Crowe lẩm bẩm. Ông ta chú ý mọi thứ quanh họ, tìm các mối đe dọa. “Tôi đề nghị chúng ta kiểm tra lại vị trí khu đất và ổn định một chút”,
“Nếu chúng ta bị phát hiện thì sao?”
“Hồi ở Albuquerque, tôi là một kẻ săn người”, Crowe nói. “Tôi theo dấu vài trong số những gã nguy hiểm nhất. Có những thứ cần làm để giảm thiểu khả năng bị phát hiện. Để bắt đầu, đừng nhìn vào mắt, bởi vì các con thú phát hiện ra ánh mắt ngay. Nhìn ngang mọi thứ – nó sẽ nhạy hơn là nhìn thẳng, mặc dù các cậu sẽ không thấy màu rõ lắm. Đừng chớp mắt nếu còn giữ yên được, vì mắt được thiết kế để bắt lấy sự chuyển động, chứ không phải những thứ bất động. Mặc quần áo màu êm – xám của đá, xanh của rêu, nâu của đất – không có những màu các cậu không thấy trong tự nhiên. Và không đeo bất kỳ thứ kim loại nào, vì kim loại không xuất hiện trong tự nhiên với số lượng lớn. Theo những quy tắc này, các cậu có thể đứng trước một bức tường gạch và người ta sẽ nhìn lướt qua cậu cho đến khi họ tìm thấy thứ gì đó hấp dẫn hơn”.
“Giống như ảo thuật”, Sherlock nói, không bị thuyết phục.
“Hầu như mọi thứ đều vậy trước khi cậu hiểu cách vận hành của nó”. Ông nhìn hai thằng bé soi mói. “Những vết cắt trên mặt cậu sẽ giúp cậu lẫn vào mọi người, Sherlock, nhưng cả hai cậu vẫn hơi sạch sẽ quá đối với nơi này. Cần làm cho các cậu trông dơ bẩn hơn một chút”. Ông nhìn quanh. “Được rồi, tôi cần các cậu lăn lên mớ đá sỏi này một lúc. Làm cho bụi bám vào quần áo các cậu”.
“Việc đó không làm người ta nghi ngờ à?” Sherlock hỏi.
“Không, nếu cậu có lý do để làm chuyện đó”, Crowe giải thích. “Matty, xô mạnh vào ngực Sherlock”.
“Cái gì?” Matty phản ứng.
“Làm đi, còn Sherlock, đấm vào sau vai phải của cậu ta”.
Sherlock chợt hiểu. “Và cuối cùng chúng cháu đánh nhau trong cát bụi, việc đó sẽ giúp cho quần áo chúng cháu giống mọi người và giúp chúng cháu trở thành một phần của khu này. Nếu chúng cháu không phải dân địa phương, chúng cháu sẽ không đánh nhau ngoài đường”.
“Chính xác”, Crowe nói một cách hài lòng.
Sherlock vừa tính hỏi chúng nên đánh nhau trong bao lâu thì Matty xô mạnh vào ngực nó. ‘Tao đã cảnh cáo mày rồi!” Nó la lên.
Sherlock kiềm chế niềm thôi thúc bất chợt là đấm vào hàm Matty, thay vào đó nó đấm vào vai. “Sao mày dám”, nó hét lên, cảm thấy hơi ngượng.
Matty nhào người về phía Sherlock, kéo nó ngã xuống đất. Trong vài phút hai đứa đã lăn tròn trên đất, một đám mây bụi bốc lên xung quanh chúng. Sherlock ghì chặt tay Matty, nhưng những ngón tay Matty nắm chặt tóc nó và kéo đầu nó ra sau.
Sherlock đang dần tới chỗ quên là nó đang giả vờ đánh nhau khi cánh tay khổng lồ của Amyus Crowe nắm chặt vai của nó và Matty và nhấc bổng chúng dậy. “Được rồi cả hai cậu, tách ra”, ông nói, lại dùng giọng “Anh”, nhưng lúc này giọng thật thô lỗ.
Hai thằng con trai đứng đối mặt nhau, cố nín cười bất chấp tình huống nguy hiểm của họ. Sherlock liếc nhìn xuống người mình. Áo gi-lê của nó bị rách ở tay áo, và mọi thứ đều bị bao phủ bởi bụi và lông ngựa và thứ gì đó mà nó không muốn ngay cả nghĩ tới.
‘Đừng lo”, Crowe nói. “Sẽ giặt ra. Và nếu không ra, chúng ta sẽ mua thêm quần áo. Đồ dùng luôn có thể mua lại được.
Một thợ săn giỏi biết rằng có thể hy sinh bất kỳ thứ vật chất gì để theo đuổi con mồi”.
“Ông đã săn loài thú nào?” Matty hỏi.
“Tôi đâu có nói chúng là thú vật”, Crowe lầm bầm.
Trước khi hai đứa kịp hỏi thêm để hiểu rõ câu ông vừa nói, ông rời đi. Chúng đi theo, nhìn nhau băn khoăn.
Crowe ngừng ở một góc đường rồi liếc quanh. “Nhà kho ở ngang đó”, ông nói lặng lẽ. “Sherlock, cậu ở đây. Ngồi xuống và chơi cái gì đó – vài viên đá nếu cậu có thể tìm thấy nó. Nhớ kỹ – không nhìn thẳng vào mắt ai hết, nhưng phải quan sát mọi việc bằng cách nhìn ngang. Matty đi với tôi. Cậu sẽ bao quát phía sau, và tôi sẽ di chuyển tới lui giữa hai cậu”.
“Ông đang muốn tìm gì?” Sherlock hỏi.
“Thứ gì đó khác thường. Thứ gì đó nói cho chúng ta biết chuyện gì đang xảy ra ở đây”.
Crowe và Matty bước đi, Crowe khoác vai Matty, còn Sherlock theo hướng dẫn ngồi xổm xuống và lấy vài viên sỏi trong đám bụi. Nó lăn chúng tới lui. Đó là một trò ngán ngẩm, nhưng đủ để giúp cho nó hòa lẫn với quang cảnh nơi đây, và nó nhận ra mình có thể nhìn thấy mọi việc xung quanh bằng đuôi mắt trong khi có vẻ như đang mải chơi.
Căn nhà kho là một tòa nhà bằng gạch với mặt trước là hai cánh cửa gỗ lớn chiếm gần như toàn bộ bề mặt, có bản lề để mở cửa ra phía đường. Không có gì khả nghi ở đây, và Sherlock tự hỏi không biết họ có thật sự quan sát đúng chỗ không, hay chỉ chọn một cách ngẫu nhiên căn nhà này.
Crowe quay lại sau một lúc lâu tưởng như hàng giờ, nhưng có lẽ chỉ khoảng gần nửa tiếng. Mặc dù ông vẫn mặc bộ đồ lúc trước, và cũng không làm nó dơ một cách lộ liễu như nó và Matty, nhưng trông ông có vẻ nhếch nhác. Áo gi-lê cài lệch nút, làm vẻ ngoài của ông không cân xứng, áo sơ-mi tuột ra ngoài cái quần dài. Ông đi lướt nhẹ, mắt nhìn chằm chằm xuống đất ngay phía trước chân. Ông dừng lại gần Sherlock, ngồi tựa vào tường.
“Mọi thứ bình thường chứ?” ông thì thầm.
“Không có gì xảy ra”, Sherlock đáp, lặng lẽ.
“Cậu ổn chứ?”
“Chán quá”.
Crowe nén cười. “Xin chào mừng cậu đến cuộc săn. Sự nhàm chán sẽ kéo dài liên tục cho đến đúng giây phút vui vẻ và kinh hoàng”. Ông ngưng lại rồi nói tiếp: Tôi nghĩ là tôi phải bước vào cái quán ăn này một lúc, xem họ đang nói về chuyện gì”.
“Được. Ông mang cho cháu một ly nước được không?”
“Con trai, cậu uống nước sông Thames còn sạch hơn nước ở bất kỳ quán nào quanh đây. Nếu cậu đói hay khát hãy ghi nhận rồi gạt qua một bên. Đừng có cứ nghĩ về nó. Một người có thể sống ba hoặc bốn ngày không cần uống nước. Cứ tự nhủ với mình thế”.
“Ông nói thì dễ”.
Crowe cười lớn.
“Cháu có thể hỏi ông một việc được không?”
“Chắc rồi”.
“Ông đang làm gì ở Anh? “Công việc” mà ông đề cập lúc trước là gì ?”
Crowe mỉm cười không vui, nhìn sang nơi khác, không nhìn mắt Sherlock. “Không phải để làm gia sư, chắc chắn là thế”, ông nói nhẹ nhàng, “mặc dù đó là việc giải trí hấp dẫn. Không, tôi được thuê bởi… à, nói là chính phủ Mỹ cho dể hiểu, tìm kiếm một đám người đã phạm tội ác, hung tợn, làm những việc khủng khiếp trong suốt cuộc Nội chiến và tẩu thoát ra khỏi đất nước trước khi bàn tay của luật pháp có thể chụp được vai chúng. Đó là lý do tại sao tôi biết anh cậu – anh ấy đã ký một thỏa thuận cho phép tôi ở đây. Và đó là lý do tôi đã xây dựng một hệ thống những người hữu dụng, đặc biệt ở bến tàu và ở cảng. Vì thế nên khi cậu bảo tôi gã Nam tước đang đẩy nhanh kế hoạch của hắn, bất kể là việc gì, tôi đã gửi yêu cầu tìm kiếm những chiếc xe ngựa của hắn. Và tôi phải nói là tôi đã ngạc nhiên vì người của tôi tìm thấy chúng quá dễ”. Ông nhìn lại Sherlock. “Thỏa mãn chứ?”
Sherlock gật đầu.
“Tôi không nói cho nhiều người biết chuyện này”, Crowe nói thêm. “Tôi rất biết ơn nếu cậu giữ bí mật”. Ông quay đi trước khi Sherlock kịp nói thêm bất cứ câu gì.
Sherlock tiếp tục với trò chơi của nó, lăn những viên sỏi tới lui, khi thời gian chậm chạp trôi, hết phút này tới phút khác. Nó tiếp tục quan sát cửa nhà kho, nhưng chúng vẫn đóng chặt và không có gì khuấy động. Nó bắt đầu nghĩ là tất cả bọn họ đang phí thời gian làm chuyện vô ích.
Một tiếng động bất chợt vang lên phía sau làm nó gần như quay lại và nhìn, nhưng nó ngưng lại kịp lúc. Nó để những viên sỏi lăn xa hơn, xoay người để lấy những viên sỏi và để mắt mình hướng lên phía quán ăn. Một cánh cửa mở và một nhóm người hiện ra, rõ ràng là đã say bét nhè. Họ giễu cợt nhau một lúc, rồi quay người đi về hướng nó. Nó tập trung vào những viên sỏi, nghe xem họ có nói gì về nhà kho, về tổ ong, hay về Nam tước Maupertuis, hay bất cứ thứ gì liên quan đến bí ẩn không.
“Khi nào chúng ta đi?” một người hỏi.
“Khi tờ mờ sáng”, một người đáp. Giọng người này có vẻ quen quen, nhưng Sherlock không nhận ra là ai.
“Ai giữ bảng phân công?” giọng thứ ba hỏi.
“Ở trong đầu tao”, giọng thứ hai đáp. “Mày đi Ripon, Snagger đi Colchester, thằng Nicholson này sẽ có một chuyến đi dễ dàng đến Woolwich còn tao sẽ quay lại Aldershot”.
“Thay vì thế tao có thể đi Ascot không?” một giọng miền Bắc hỏi, có lẽ là của gã Nicholson.
“Mày đi nơi mày được phân công, ông trời con”, giọng thứ hai đáp. Khi đang nói, gã bước đến gần Sherlock. Chân gã đạp trúng hòn sỏi, đá nó qua đường hẻm. Không cố ý, Sherlock liếc mắt lên, và bắt gặp ánh mắt gã đàn ông.
Đó là Denny, gã mà Sherlock đã bám theo về nhà kho ở Farnham, gã đã có mặt khi tên Clem bạn gã nhảy xuống chiếc thuyền nhỏ tấn công Sherlock và Matty. Gã làm việc cho Nam tước Maupertuis.
Quá nhiều để phá mất sự vô hình. Mặt Denny ngay lập tức đỏ lên vì tức giận.
Sherlock lăn đi khi những cánh tay chộp lấy vai nó. Nó nhảy đứng lên và chạy nước rút xuôi con hẻm. Nó muốn chạy đến quán ăn, nơi có Amyus Crowe, nhưng những gã này chặn giữa nó và cửa quán ăn. Thay vì làm vậy, nó thấy mình chạy ngày càng xa Crowe, Matty và những gì nó biết.
Tiếng bước chân thình thịch đằng sau nó, tiếng vang của những bức tường ở những tòa nhà mà nó chạy qua. Hơi thở của nó vướng ở cổ họng và tim nó đập nhanh như một sinh vật bị nhốt trong lồng ngực và đang chiến đấu để thoát ra ngoài. Đã hai lần nó cảm thấy những ngón tay sượt sau gáy và quờ quạng để nắm cổ áo nó, và hai lần nó phải giật thoát ra với một sự bùng nổ năng lượng điên cuồng. Những kẻ đuổi theo vừa thở vừa gầm gừ, ngoài những tiếng đó, tiếng thình thịch của những đôi ủng của chúng và tiếng đập của tim nó ra, cuộc rượt đuổi hoàn toàn trong yên lặng.
Khi chạy được nửa đường nó nhìn thấy con hẻm bị chặn bởi một bức tường gạch. Mắt Sherlock mở to. Nó đã lọt vào bẫy! Nó quay lại, cố gắng trong tuyệt vọng để xem nó có đủ thời gian để chạy ngược lại và tìm lối khác không, nhưng bọn chúng đang tiến tới gần. Chúng có năm người, nó nhận ra theo một kiểu kinh hoàng thầm lặng, và bọn chúng đều nắm trong tay dao hay những cây gậy nặng. Nó không thể còn sống mà thoát ra.
Một giọng nói đột ngột vang lên rất rõ ràng, trong đầu nó, và nó không thể nhận ra là giọng của anh nó hay giọng của Amyus Crowe hay của chính nó, nhưng giọng đó nói: “Hẻm và đường đều dẫn từ nơi này đến một nơi khác. Một con hẻm bị một bức tường gạch chặn lại là vô lý. Không có mục đích, vì thế không bao giờ nên được xây”.
Nó quay nhanh lại và nhìn chằm chằm lên bức tường gạch. Không cửa ra vào, không cửa sổ, không có gì ngoài một khoảnh tối nhỏ ở một góc, nơi ánh sáng mặt trời lờ mờ không thể chiếu tới.
Và nếu như có một lối thoát ra, nó phải ở chỗ đó.
Nó chạy vào trong chỗ tối. Nếu không có gì ở đó thì hẳn nó đã tông thẳng vào bức tường gạch, tự đánh gục mình, nhưng có một khoảng trống nhỏ. Một con đường thoát.
Lối đi hẹp chạy giữa hai tòa nhà. Nó chạy dọc theo, nghe tiếng la thất vọng từ phía sau khi bọn kia đang cố tìm lối ra tối đen. Từng gã một chạy ngật ngưỡng vào lối đi phía sau nó, tiếng thở phì phò của chúng dội vào tường gạch đứng.
Chạy ngoằn ngoèo trong bóng tối, Sherlock nhảy ra một con đường rộng với nhiều cánh cửa nằm dọc theo đường. Nó chạy tiếp, cảm giác những đôi ủng đang nện vào đá sỏi phía sau, và trượt bên trái vào một con hẻm khác, giúp nó có thêm được vài mét ưu thế. Một con chó nhảy xổ ra từ một chỗ trống nơi bức tường nó vừa chạy qua, nhưng nó đã thoát qua trước khi răng con chó phập vào không khí. Thế vào đó, con chó quay sang những gã đang đuổi nó. Sherlock nghe tiếng sủa điên tiết và tiếng chửi rủa khi những gã đó cố thoát khỏi con chó. Nó nhăn mặt khi nghe tiếng chiếc ủng bủa vào vật gì đó mềm. Con chó ẳng lên và lết đi mất.
Chạy trốn vòng qua một góc khác, nó xông vào một cặp nam nữ đang đi bộ dọc sông Thames, làm người đàn ông ngã sóng soài và bản thân nó thì ngã quay tròn ra phía sau.
“Thằng nhỏ ăn mày này!” người đàn ông la lớn, cố đứng lên. “Tao sẽ dạy mày một bài học!” Ông ta kéo tay áo lên, để lộ những bắp tay cuồn cuộn với những hình xăm màu xanh dương hình mỏ neo và những nàng tiên cá.
“Đừng đánh nó, Bill. Nó không cố ý!” Người phụ nữ nắm cánh tay của người đàn ông. Da của cô ta trắng xóa vì trang điểm vụng, môi như một vết cắt đỏ thẫm, mắt tô đậm bột đen. Kết quả là mặt cô ta trông giống cái đầu lâu. “Nó chỉ là một đứa bé!”
“Anh nghĩ nó là một thằng ăn trộm”, người đàn ông gầm lên lần nữa, nhưng lúc này đã bớt hung dữ.
“Có người rượt theo tôi”, Sherlock nói qua tiếng thở nặng nhọc. “Tôi cần giúp đỡ”.
“Anh biết họ làm gì với những thằng bé quanh đây”, người phụ nữ nói. “Em mong là mình không rơi vào tình cảnh đó.
Bill, làm điều gì đi. Giúp thằng bé đi”.
“Đứng đằng sau tao”, Bill nói. Tay áo xắn cao, rõ ràng là rất muốn đánh nhau mà không cần quan tâm đánh với ai. Sherlock trốn đằng sau người đàn ông to lớn khi những kẻ truy bắt tiến tới đứng thành vòng tròn.
“Đứng yên đó”, Bill nói, giọng anh ta trầm và hứa hẹn đầy bạo lực. “Để thằng nhỏ yên”.
“Không có cơ hội đâu”, Denny nói, gã đang đứng đầu trong năm tên. Gã giơ cao tay lên, và gã đang cầm một con dao. Ánh sáng lấp loáng dọc theo lưỡi dao như một dòng chảy sinh động. “Nó là của tụi tao”.
Bill chồm lên giật con dao, nhưng Denny chuyển nó từ tay trái sang tay phải và đâm mạnh về phía trước, vào ngực Bill. Người đàn ông ngã quỵ xuống, ho ra máu, một ánh nhìn ngờ vực trên khuôn mặt như thể ông không chấp nhận được khoảnh khắc này, trong con hẻm này, là những giây phút cuối của đời mình.
Denny mỉm cười với Sherlock khi Bill ngã chúi về phía trước trên mặt đường sỏi. “Với mày”, hắn hứa hẹn, “sẽ không nhanh chóng thế đâu”.