CHƯƠNG 13
Cả người Sherlock dường như đông cứng trong hoảng loạn và hoài nghi, rồi một cơn giận dữ chợt chạy qua người nó. Bước lên trước, nó thoi mạnh vào háng Denny. Gã gập người xuống, nghẹt thở. Khi gã đổ sập xuống, Sherlock lùi lại và đá vào hàm gã. Một cái gì đó bị gãy. Gã thét lên qua cái miệng dường như bất thình lình bị khóa cứng một chỗ, và bị vẹo sang một bên.
Người phụ nữ đi cùng Bill cũng hét lên, một tiếng thét chói tai cắt vào không khí như một nhát dao.
Bốn gã khác nhìn nhau như không thể tin nổi, rồi xô tới vươn những cánh tay dơ bẩn túm lấy Sherlock. Các chi tiết khắc sâu trong đầu Sherlock: những móng tay cáu ghét, lông lá trên mu bàn tay chúng, máu đọng thành vũng trên đất, tiếng kêu thét của người phụ nữ và tiếng gào của Deny trộn lẫn trong tiếng rên không ngừng của cơn đau. Thế giới dường như chậm dần rồi ngừng lại, đông cứng, và rồi vỡ tan thành nhiều mảnh quanh nó. Nó quay về phía người phụ nữ, miệng khô khốc. “Cháu vô cùng tiếc”, nó nói.
Rồi nó bỏ chạy lần nữa. Hai gã đuổi theo, để Denny lại phía sau, ngã quỵ trên sỏi đá bên cạnh Bill. Người phụ nữ chỉ đứng đó, nhìn xuống cả hai, tiếng la hét của cô dần trở thành tiếng nức nở tắc nghẹn.
Quẹo qua một khúc cua, Sherlock trông thấy một tòa nhà mái vòm đồ sộ ở trước mặt. Nó trông hoàn toàn không hợp với cảnh khi nằm giữa khu đất trống trước đây được trồng cây bụi và cây cao. Vài con đường – đường lớn, không phải hẻm – dẫn từ tòa nhà ra ngoài, và luôn nhộn nhịp người và ngựa đông nghẹt xung quanh bên ngoài. Bên cạnh đó Sherlock có thể nhìn thấy một bức tường đá và, xa hơn, là mặt nước xám xịt nổi sóng của sông Thames.
Sherlock chạy về hướng đó. Ở nơi có người, có thể an toàn.
Chạy hết tốc lực, nó chạy xéo vượt qua những người đàn ông và phụ nữ ăn mặc lịch sự và luồn phía dưới càng một chiếc xe ngựa, luôn di chuyển hướng về phía tòa nhà. Khi đến gần hơn, nó thấy tòa nhà được trang trí với những bức tượng và tranh khảm. Một lối vào lớn hiện ra lù lù trước mặt nó, nó chuyển hướng một chút để hướng thẳng tới. Phía sau nó là tiếng chửi rủa và la hét cho thấy những kẻ đuổi theo không bỏ cuộc.
Lối vào dẫn vào trong một sảnh tròn, được chiếu sáng bởi ánh mặt trời xuyên qua vô số những cửa sổ kính màu trên mái vòm. Ánh sáng làm không gian đại sảnh trở nên vui mắt, sặc sỡ. Ở trung tâm tòa nhà là một khoảng trống lớn được bao quanh bởi một ban-công. Mọi người xếp hàng dọc theo bancông, nhìn chằm chằm xuống một thứ gì đó bên dưới. Lệch sang một bên là một cầu thang rộng xoắn ốc vòng quanh rìa khoảng trống, đi sâu xuống dưới đất.
Sherlock lao nhanh qua, luồn qua đám đông người, chạy đến đầu cầu thang. Quay người lại, nó liếc nhanh về phía hai gã đang xô đẩy một cách thô bạo khi chạy qua đám đông. Một trong hai là một gã hói đầu với tai và mũi bị biến dạng, những chi tiết này làm một phần nhỏ não của Sherlock, cái phần đang không cố gắng một cách điên cuồng để tìm đường thoát thân, nghĩ rằng hắn có thể từng là võ sĩ quyền Anh. Tên còn lại thì ốm nhom một cách đau lòng, với gò má cao và cái cằm nhọn. Chúng rõ ràng quyết tâm bắt cho bằng được nó, bằng bất cứ giá nào. Có thể là nếu nó không đánh vỡ hàm Denny, chúng có thể từ bỏ, nhưng giờ chúng có mục đích. Một đồng bọn của chúng đã bị làm nhục, và vì thế Sherlock sẽ phải trả giá.
Nó xoay lại, và bắt đầu đi xuống cầu thang.
Cầu thang xoắn quanh các bên của một giếng trời cực lớn, thỉnh thoảng dẫn ra một ban-công nhưng rồi tiếp tục xuống sâu trong lòng đất. Có một mùi nổi lên trong giếng trời: một mùi hôi thối kết hợp giữa ẩm, rữa và mốc làm nó ngứa mũi và chảy nước mắt. Các bước chân của Sherlock dần theo một nhịp đều đặn khi nó chạy vòng theo đường xoắn ốc của giếng trời. Nó không biết có gì ở đáy, nhưng liếc ngang giếng trời một cái là nó biết điều gì đang chờ ở bên trên. Hai gã tay chân của Nam tước Maupertuis đang chạy xuống các bậc thang về phía nó.
Nó tăng tốc. Bất kỳ thứ gì ở cuối giếng trời cũng không thể tệ bằng cái chết chắc chắn và có lẽ kéo dài đang rượt theo nó.
Hình như những ngày gần đây nó đã bỏ ra khá nhiều thời gian để chạy hay đánh nhau, và ngay cả khi chân nó gõ đều xuống các bậc thang đá và tay nó bỏng rát khi chà xát vào lan can, có một phần tâm trí nó đang tự hỏi một cách điên cuồng: chính xác thì Nam tước Maupertuis nghĩ là nó biết gì và vì sao điều đó quan trọng đến mức phải giết người diệt khẩu. Chính xác là tay Nam tước đang dự tính chuyện gì, và tại sao Sherlock lại là vật cản cho dự định của hắn ta?
Nó ở đáy giếng trời trước khi nó nhận ra, chân nó vấp trên bề mặt phẳng. Nó đang đứng trong một cái sảnh được chiếu sáng bằng đèn khí. Hai đường hầm hình vòm xuất phát từ sảnh dẫn đi cùng một hướng. Khung vòm cao khoảng bốn hay năm lần chiều cao của một người lớn, và làm bằng gạch nung, nhưng nhìn chỗ nào cũng thấy ẩm. Quan sát hướng của các đường hầm, nó biết lý do. Các đường hầm này đi thẳng ngay bên dưới sông Thames, và có lẽ sẽ kết thúc ở một cái giếng trời giống như thế này ở bờ bắc.
Nếu nó có thể chạy qua bờ bên kia, nó có thể thoát.
Nó lóng ngóng đi vào đường hầm bên trái. Có những người thong thả đi bộ như thể việc đi bộ bên dưới đáy sông là chẳng có gì đặc biệt. Có cả ngựa ở dưới này, chúng được dẫn đi một cách điềm tĩnh. Rõ ràng cả người lẫn ngựa chẳng ai nghĩ đến vô số tấn nước ở trên đầu họ chỉ vài mét, cách một lớp gạch nung và vữa.
Có những lúc lý trí là tai họa. Bây giờ là một trong những lúc đó. Sherlock biết loại áp lực đang đè lên trên vách hầm. Chỉ cần một vết nứt nhẹ là nước sẽ đổ vào, dìm chết tất cả.
Nhưng nó vẫn tiếp tục chạy. Nó không có lựa chọn.
Hay là có? Trong khi vội vã, nó để ý thấy hai đường hầm chạy song song nhau, và cứ khoảng mười mét lại thông với nhau bằng một đường hầm nhánh nhỏ hơn. Ở mỗi nhánh hầm, những người bán hàng London dựng những quầy bán đồ ăn, thức uống, quần áo và đủ loại đồ mỹ nghệ. Nếu nó có thể trốn trong một nhánh hầm, nó có thể chạy ngược lại theo đường hầm chính khác đến giếng trời, trở lại nhà kho tìm Amyus Crowe.
Nó chạy sát sang bên phải, hướng về phía cạnh hầm, và chạy vào trong nhánh hầm đầu tiên. Một người đàn ông quay về phía nó, khuôn mặt được soi tỏ trong vùng sáng của một cây đèn dầu treo trên cây đinh ở quầy hàng bằng gỗ của anh ta. Da anh ta trắng xám và ẩm ướt, giống như những thứ đã sống dưới lòng đất quá lâu. Anh ta quấn một cái mền cũ trên người, cái mền trở nên cứng ngắc vì bụi đất bám lâu ngày, trông giống như một chiếc áo giáp kỳ quái. Mắt anh ta giống như toàn tròng đen, và anh ta ngó Sherlock lom lom một lát.
“Cậu có muốn một cái đồng hồ không?” anh ta hỏi đầy hy vọng. “Loại tốt. Luôn chạy. Luôn đúng giờ. Đồng hồ đứng loại to, loại nhỏ – bất cứ loại nào cậu muốn, tôi đều có”.
“Không, cảm ơn”, Sherlock nói, chen qua cái quầy. Đối với nó thời gian là vô nghĩa khi ở dưới sông Thames. Không mặt trời, không mặt trăng, không ngày và đêm. Thời gian chỉ trôi qua. Tại sao bạn cần đồng hồ?
“Đồng hồ bỏ túi thì sao? Cậu không bao giờ cần hỏi giờ nếu có một cái đồng hồ. Quý ngài trẻ tuổi như cậu, hãy tạo ấn tượng với các quý cô bằng một chiếc đồng hồ gắn dây chuyền. Bạc thật. Có chạm khắc. Cậu có thể để hình người yêu ở bên trong”.
Bạc thật, có chạm khắc, và chắc chắn là hàng ăn cắp. “Cảm ơn”, Sherlock nói, hụt hơi, “nhưng cha tôi có tiền. Chút nữa ông ấy sẽ đến đây. Hãy bảo ông ấy tôi muốn một cái đồng hồ, và đừng để ông ấy đi mà không mua một cái”.
Người chủ quầy mỉm cười, nhắc Sherlock nhớ đến loài giáp xác săn mồi nấp bên dưới tảng đá, chờ đợi con mồi cả tin đi ngang qua.
Sherlock nhìn chăm chú quanh rìa của đường hầm nhánh trở về phía giếng trời nó vừa đi qua, và nguyền rủa. Những kẻ đuổi theo nó đã tách ra. Một tên rượt theo nó theo hướng đường hầm bên trái, nhưng kẻ còn lại đang tiến theo đường hầm bên phải. Hắn đang chen qua đám đông, mắt liếc nhìn một cách nghi ngờ tất cả những thanh niên dưới hai mươi tuổi, để phòng xa. Bọn chúng biết rõ khu này hơn nó.
Nó quyết định chờ cho gã này đi qua khỏi lối vào của đoạn nhánh, rồi nó sẽ đi theo hướng ngược lại. Nhưng dự định của nó vỡ tan ngay bởi một sự hỗn loạn bất ngờ phía sau. Xoay lại, nó thấy người chủ quầy hàng đang cố ấn một chiếc đồng hồ báo thức nhỏ vào tay gã đang đuổi theo Sherlock ở đường hầm bên trái – gã hói với hai cái tai bắp cải[5] và cái mũi bẹp. Gã đẩy người kia ra, miệng chửi rủa, nhưng người chủ quầy hàng vẫn xáp lại, bên dưới cái mền trông anh ta càng lúc càng giống một loài giáp xác nào đó sống dưới đáy đại dương. Anh ta nhét lại vào tay gã cái đồng hồ, miệng la hét, “Mua cho con trai anh đi! Mua cho con trai anh!” Gã cựu võ sĩ quyền Anh đẩy anh ta ra xa lần nữa, lần này mạnh hơn, cùng lúc đó anh ta va phải cái đèn dầu và làm nó đập mạnh vào tường. Cái đèn vỡ và dầu chảy tràn ra trên tấm mền của chủ quầy hàng. Bấc đèn, vẫn còn ướt, cũng rớt xuống cái mền, làm nó bốc cháy.
Ngọn lửa lan nhanh khi người chủ quầy còn đứng yên đấy. Rồi, đập mạnh hai cánh tay xung quanh, anh ta nhảy bổ vào đường hầm chính bên trái. Mọi người lùi ra xa trong hoảng loạn. Người chủ quầy hàng đâm sầm vào một khách bộ hành, và ngọn lửa lan nhanh sang chiếc áo khoác ngắn của người đàn ông đó. Người đàn ông nghiêng người sang bên, phủi mạnh lên ngọn lửa, nhưng chỉ thành công trong việc làm ngọn lửa lan sang chiếc váy phồng nhiều tầng của một phụ nữ bên cạnh. Một con ngựa đang được dẫn đi trong hầm, lồng lên trước ánh lửa, kéo lê chủ của nó phía sau.
Trong vài giây căn hầm sôi sùng sục lên vì lửa. Quần áo bắt lửa nhanh chóng, tiếp theo là những tấm vải phủ trên các quầy hàng, và ngay cả gỗ quầy hàng cũng tự bắt lửa, dù đang ẩm. Khói và hơi bao phủ căn hầm thành một màn sương mù đặc nghẹt. Hoảng sợ, Sherlock chạy ngược ra khỏi nơi khói lửa và đi vào đường hầm chính bên phải, nơi may sao không có lửa.
Nhưng vẫn còn một kẻ đuổi theo trong đó.
Một bàn tay lông lá chụp lấy vai nó.
“Bắt được mày rồi, thằng lõi”. Gã đàn ông gầm gừ. Bên dưới cổ tay áo khoác của gã đen xì vì những vệt mồ hôi cũ đến mức chúng trở nên nhờn và cứng lại. Mùi bốc lên từ quần áo gã thật không thể diễn tả nổi.
Sherlock cố vùng vẫy, nhưng vô dụng. Những ngón tay gã bấu chặt vào vai nó.
“Denny sẽ muốn nói vài câu với mày”, gã thì thầm, đưa mặt sát gần mặt nó. Hơi thở của gã có mùi như chuột chết.
“Và tao không tin là mày sẽ thích điều anh ta nói”.
Sherlock vừa muốn trả lời thì thấy sàn của đường hầm đang nhúc nhích dưới làn khói, nhấp nhô như thể nó đang cử động. Và rồi nó nhận ra sàn của đường hầm cử động thật. Cử động với những con chuột. Bị lửa lùa ra khỏi các hang hốc, bọn chúng đều đổ về một hướng để tìm sự an toàn. Một tấm thảm chuột sinh động với những bộ lông bờm xờm màu nâu và đen đang lướt nhanh dọc theo sàn của đường hầm. Người và ngựa hoảng hồn lùi xa ra khỏi đám lông, răng và đuôi. Một đứa bé bị ba mẹ kéo đi, trượt chân và ngã. Đám chuột bò qua, trùm lên trên mặt nó.
Gã đang túm chặt Sherlock buông lỏng tay khi đàn chuột cuồn cuộn ở mắt cá chân gã, cắn hắn bằng những cái răng nhỏ. Miệng chửi rủa, gã đập đàn chuột bằng hai bàn tay to như cái cuốc. Sherlock vùng thoát ra khỏi gã và lội vào trong đám sinh vật sống động, túm lấy đứa bé đang chìm dưới đám thủy triều sôi sục. Những cái vuốt tí hon cào rào rạo trên cánh tay, lưng, chân và da đầu nó. Sherlock ngửi thấy mùi khó chịu, khô khốc, như là mùi nước tiểu lâu ngày. Những ngón tay nó chụp được một cánh tay nhỏ, và nó kéo mạnh lên. Một cô bé nhỏ xuất hiện từ cơn lũ chuột, đôi mắt mở to và miệng đã há ra để gào thét. “Em an toàn rồi”, Sherlock nói, ấn mạnh bé vào cánh tay của cha mẹ cô, họ đang đánh và đá để ngăn những con chuột xáp lại gần. Họ chụp lấy cô bé từ nó và ôm chặt con.
Và rồi làn sóng chuột cũng đi qua, chỉ còn lại vài con yếu ớt và què quặt. Sherlock có thể thấy chúng chạy tán loạn theo cả hai hướng, tránh xa đám khói vẫn còn bốc ra từ hầm nhánh. Gã lúc nãy giữ chặt Sherlock vẫn đang phủi một cách tuyệt vọng vào quần áo của gã, bên dưới đó Sherlock thấy có những chỗ lồi lên đang di động, đó là những con chuột chạy tìm nơi an toàn và mắc kẹt trong đó. Sherlock xoay người và chuẩn bị chạy về bờ nam của con sông thì nó bỗng nhớ tới hai gã côn đồ còn lại. Bọn đó chắc chắn vẫn chờ ở bên trên giếng trời. Không, cơ hội tốt nhất của nó là đi về hướng còn lại. Nó chạy theo đường hầm, về bờ bắc của con sông. Nơi đó có những chiếc cầu bắc qua sông, và những người chèo thuyền. Nó có thể tìm được đường quay về. Cuối cùng là thế.
Sherlock đi dọc theo hầm, ngày càng rời xa đám cháy. Những người đàn ông mặc đồng phục và cầm những xô nước chạy ngang qua nó, một đội chữa cháy ô hợp được trả tiền để giữ an toàn cho đường hầm. Nó phớt lờ họ, tiếp tục đi.
Cuối cùng nó cũng tới bờ bắc sông Thames. Giếng trời ở đó, với đường cầu thang xoắn ốc, hệt như bản sao của cái giếng trời ở bờ nam. Nó lê bước lên các bậc đá, sức lực hầu như cạn kiệt. Nó phải dừng lại ở mọi chiếu nghỉ để lấy hơi.
Từ nơi tối tăm đi lên ánh nắng ban trưa cũng giống như từ địa ngục được lên thiên đàng. Mùi không khí ngọt ngào, và làn gió thổi nhẹ làm dịu mát làn da nó. Nó ngừng lại một lúc, mắt nhắm chặt, tận hưởng những cảm giác. Thật đơn giản, và thật hoàn hảo.
Khu vực phía bắc của đường hầm có vẻ sầm uất hơn phía nam. Các cầu tàu tấp nập đủ cỡ tàu, hàng hóa được bốc lên và xuống các ván cầu bởi những người phu khuân vác vạm vỡ. Sherlock đi dọc theo bờ sông Thames, vượt qua những chiếc tàu, tìm kiếm một cây cầu để có thể đi ngược về hướng bên kia. Nó biết có những cây cầu bắc qua sông Thames, nó chỉ không chắc là những cây cầu đó ở đâu so với Rotherhithe và đường hầm. Tuy nhiên xét về logic thì nếu đi bộ đủ lâu, nó sẽ tìm thấy một cây cầu thôi. Giả sử nó đang đi đúng hướng – tất nhiên là về phía trung tâm thành phố hơn là ra khỏi trung tâm – nhưng nó biết rằng nếu đường hầm ở khu Đông London, thực sự là như vậy, và nếu nó vượt qua đường hầm từ nam lên bắc, như nó đang làm, rồi quẹo trái ở cổng đường hầm, nó có thể đi đúng hướng. Khách sạn Sarbonnier, nơi Amyus Crowe đặt phòng, nằm khoảng gần sông Thames, và cũng ở bờ bắc, vậy nếu nó đi bộ đủ xa thì nó sẽ gặp khách sạn, nhưng điều nó thật sự muốn là đi băng qua sông quay trở lại tìm Amyus Crowe và Matty Arnatt.
Sau khoảng nửa giờ nó tìm thấy một cây cầu: khá lớn, với hai tòa tháp đôi bằng đá xám nối với nhau bằng một đường vượt có mái che với nhiều cửa hàng và quầy hàng. Nó mệt mỏi đi qua, phớt lờ những lời kèo nài của những người bán hàng cố bán cho nó mọi thứ từ cả một con bò mộng đến một cây súng lục. Đối với nó, dường như mọi thứ đều có thể ở London, nếu bạn sẵn sàng trả tiền.
Ở bờ nam của cây cầu tháp nó quẹo trái lần nữa, đi bộ dọc theo các đường, phố, ngõ, hẻm và trong vài trường hợp là trên bờ vài bức tường dày để tìm đường quay về căn nhà kho ở Rotherhithe nơi nó bị lạc mất Amyus Crowe và Matty. Những cây cột buồm vươn lên không trung dọc theo bờ sông, làm nên một rừng cây thanh mảnh. Mùi của sông Thames là mùi thường trực của phân người. Nếu Mycroft làm việc mỗi ngày ở nơi này thì anh ấy xứng đáng được thưởng huân chương vì đã sống sót.
Khoảng một dặm từ cầu tháp, Sherlock đi ngang qua một chiếc tàu đang được một nhóm bốc vác chất hàng. Đẫm mồ hôi và đang chửi rủa, họ cố khiêng những cái thùng to đùng lên cầu tàu mà không làm rớt nó xuống sông. Một điều gì đó về kích cỡ và hình dáng của những cái thùng lôi cuốn sự chú ý của nó, nó đến gần hơn, núp trong góc khuất của một tòa nhà gần đó.
Một gã vạm vỡ trong chiếc áo khoác màu xanh lính thủy đang đứng một bên, quan sát một xấp giấy được ghim trên bảng. Thỉnh thoảng gã dùng viết chì ghi chú, sau khi liếm đầu bút.
Những cái thùng này giống như những cái Sherlock đã thấy trong vườn của tòa nhà trang trại nơi nó bị bắt – những tổ ong với các mặt hông lởm chởm và lát bằng những thanh gỗ mỏng. Và ở gần đó là hàng chồng, hàng chồng khay gỗ mà nó từng thấy được đút vào bên dưới tổ. Hiện chúng được bọc bằng giấy sáp, nhưng hình dáng của chúng không thể nhầm được.
Nó đã tình cờ xen vào hoạt động của Nam tước Maupertuis.
Đây chính là lý do vì sao Denny và băng của hắn đang ở đây!
Sherlock nhích đến gần hơn, quan sát. Vài tổ ong đang được chất lên một tấm pa-lét, sau đó khối hàng này sẽ được những người bốc vác nhễ nhại mồ hôi kéo lên bằng dây và thả xuống hầm tàu. Có Chúa mới biết bằng cách nào những con ong được giữ không tấn công những người này như hai người bất hạnh ở Farnham. Có lẽ gã Nam tước có một phương pháp nào đó để làm dịu chúng.
Trong khi Sherlock quan sát, sợi dây nâng một góc cái pa-lét đang lắc về phía mạn tàu bỗng dưng đứt phựt. Tấm pa-lét bị đổ nghiêng, và bốn tổ ong trượt ra. Những tổ ong rơi, quay chầm chậm, và vỡ thành nhiều mảnh gỗ vụn khi va vào những phiến đá bên dưới.
Những gã đàn ông từ bên hông tàu chạy ra mang theo những chiếc xô bằng thiếc có vòi. Thứ gì đó bên trong xô tạo ra khói, và làn khói dường như đang ru ngủ bọn ong. Một vài con thoát ra, nhưng phần lớn ở lại gần cái tổ bị bể, bay loạng choạng như những kẻ say. Những tấm bạt được ném lên phần còn lại của tổ ong, và mọi thứ được kéo lê trên đá cuội và thả xuống dòng nước xiết ngầu bọt của con sông Thames. Sherlock cho là hầu như không thể dựng lại tổ ong sau khi nó đã bị vỡ thành nhiều mảnh.
“Sherlock?”
Một giọng nói khẽ gọi tên nó. Nó liếc quanh từ chỗ nấp.
Không phải là giọng của Amyus Crowe hay Matty Arnatt.
“ Sherlock? ” Giọng nói giờ đây gấp gáp hơn. Mắt nó quét cả khu vực, và bất thình lình nhận ra một bóng người khác, đang giấu mình như nó phía sau một chồng kiện gỗ. Bóng của một đứa con gái.
“Virginia?”
Cô bé đang mặc cái quần chẽn để cưỡi ngựa, và một cái áo gi-lê khoác bên ngoài cái áo cánh trắng bằng vải lanh.
Cô liếc nó, mắt mở to. “Cậu đang làm gì ở đây?” cô rít lên.
Sherlock luồn qua chỗ cô bé. “Phải mất nhiều thời gian mới giải thích được hết”, nó nói.
Cô bé nhìn nó từ đầu xuống chân. “Cậu đã làm gì?”
Nó cân nhắc một chút. “Bơi trong đám chuột cống”, sau cùng nó nói. “Cùng những thứ khác. Còn chuyện của cậu?”
Cô bé nhìn tránh sang hướng khác, lúng túng một cách không ngờ. “Mình không muốn bị bỏ lại đằng sau khi cánh đàn ông đang vui vẻ”, cô thì thầm, “vì vậy mình thay bộ đồ cưỡi ngựa và đi theo mọi người”.
“Bọn mình đi xuôi dòng. Trên một chiếc thuyền . Làm thế nào cậu theo bọn mình được?”
Cô bé nhìn nó một cách lạ lùng. “Trên một chiếc thuyền khác, tất nhiên rồi. Mình chỉ bảo người lái thuyền đi theo các cậu. Anh ta hơi buồn cười vì chuyện đó, nhưng mình có tiền của cha cho, và tiền đó làm anh ta bình tĩnh lại. Trong khi cậu đang quan sát nhà kho, mình quan sát cậu. Rồi mình thấy vài gã đàn ông đi lối này, và cha và các cậu dường như ở cùng chỗ, vì vậy nên mình theo chúng đến đây”.
“Mình không hề trông thấy cậu”, Sherlock nói, không tự tin lắm.
“Cha đã dạy mình tất cả mánh theo dõi của ông ấy”, cô bé nói một cách hãnh diện. “Nếu mình theo dõi cậu, thì “không hề” sẽ là điều cậu có thể thấy được”. Cô bé ngừng lại, vươn tay ra chạm nhanh vào cánh tay nó.
“Chuyện cậu làm nguy hiểm đến kinh ngạc”, Sherlock nói, “nhưng mình vui khi trông thấy cậu”.
Cô bé nhún vai. “Tốt hơn việc ở lại khách sạn chờ mọi người quay lại”.
“Nhưng sao lại theo dõi mình? Sao cậu không đi tìm cha cậu và kể cho ông nghe việc gì đã xảy ra?”
“Mình theo dõi cậu”, cô bé nói một cách đơn giản, “chứ không phải theo cha mình. Mình bị mất dấu ông”.
“Nhưng một cô gái… một mình… ở đầu phía đông của London…” Nó bỏ lửng, không chắc sẽ kết thúc như thế nào. “Có vài kẻ rất xấu quanh đây…” cuối cùng nó bắt đầu, và rồi tuôn ra chính xác mọi thứ xảy ra trưa hôm đó, bao gồm cả vụ đâm người và đám cháy trong đường hầm. Nói về chuyện đó làm nó thấy khuây khỏa, nhưng cũng cùng lúc đó Sherlock biết là cuộc sống của nó đang ở trong tình trạng nguy hiểm chết người, và nó vẫn không biết tại sao lại như thế.
“Bọn chúng sẽ không được phép cho qua chuyện này”, Virginia nói khi nó chấm dứt câu chuyện. “Cậu chỉ là một đứa trẻ. Bọn chúng có thể giết cậu”.
“Cậu cũng là một đứa trẻ”, Sherlock phản đối yếu ớt.
Virginia mỉm cười. “Mình không nói theo ý đó”, cô bé nói. “Ý mình là chúng ta không nên bị vướng vào những chuyện như thế này”.
“Nhưng chúng ta đã dính vào rồi”, Sherlock lưu ý. “Và dù bất cứ điều gì xảy ra, chúng ta cũng phải ngừng nó lại”.
“Ừ, Mình đã chuẩn bị. mình cải trang giống một thằng bé. Mình tìm được một cái mũ”, Virginia nói một cách hãnh diện, kéo nó ra từ bên dưới nơi cô núp. Nó là một cái mũ vải có lưỡi trai. Cô bé vuốt tóc lên phía sau đầu bằng một tay và đội cái mũ lên đầu bằng tay khác. Với mái tóc được giấu kín và chiếc áo khoác kín đáo, Sherlock có thể hiểu làm cách nào cô bé có thể bị nhìn lầm là một thằng bé. Và tất nhiên là cô bé đang mặc cái quần chẽn. Các cô bé mặc váy đầm chứ không mặc quần chẽn. Những người chưa biết cô từ trước không có lý do nào để nghi ngờ cô.
“Do cả hai chúng ta đều ở đây”, nó nói, “chúng ta phải nhân cơ hội để khám phá xem chiếc tàu ấy sẽ đi đến đâu”. Nó nhìn quanh tìm người đàn ông đã thấy lúc nãy – gã cầm một xấp giấy tờ. “Mình nghĩ gã đó là quản lý ụ tàu, quản lý bến tàu, hay gì đó. Chúng ta có thể hỏi gã”.
“Hỏi thế nào?”
“Cha cậu có chỉ cho mình vài mẹo hay để hỏi”.
Nhìn quanh, canh lúc không ai quay mặt về phía chúng, Sherlock dẫn Virginia ra khỏi chỗ trốn và đi băng qua bến cảng đến một nơi mà chúng có thể ngồi lên bức tường đá nhìn ra sông Thames. Nó có cảm giác gáy nhồn nhột, cho thấy có ai đó đang quan sát nó, nhưng nó dằn cảm giác đó xuống. Denny bây giờ có lẽ đang ở chỗ bác sĩ hoặc nhà giải phẫu, nó giả thiết là hắn bị vỡ hàm, và có cơ hội là những gã khác không đủ thời gian nhìn kỹ nó để phân biệt nó với những đứa khác – đặc biệt là lúc này, khi cả người nó bám đầy bụi bẩn, khói, lông chuột và có thể là những thứ khác nữa mà nó không muốn xem là gì. Bọn nó ngồi đó, trên bức tường, gần nửa tiếng, nói linh tinh và hầu như trở thành một phần của quang cảnh xung quanh. Tay quản lý ụ tàu, hay quản lý bến tàu, hay gì đó cuối cùng cũng xong việc với chiếc tàu và bắt đầu đi bộ về hướng chúng. Ngay khi anh ta đi ngang, Sherlock nhìn lên và nói: “Chào ông chủ. Có việc gì làm trên ụ tàu không?”
Người đàn ông nhìn thân hình mảnh khảnh của Sherlock một cách khinh miệt. “Năm năm nữa quay lại đây, con trai”, ông ta nói với giọng không thân thiện. “Gắn thêm cơ bắp vào mấy cái xương đó đi”.
“Nhưng tôi phải đi khỏi London”, Sherlock tiếp tục nói với giọng van nài. “Tôi có thể làm việc chăm chỉ, thật sự là như vậy”. Nó chỉ về hướng chiếc tàu gần đó. “Còn bọn họ – có vẻ như họ thiếu người làm”.
“Bọn họ hả”, người đàn ông nói. “Trưa nay có ba người đàn ông xuống tàu. Nhưng tao không nghĩ mày có thể thay bất cứ ai trong họ, hơn nữa, chiếc tàu này không đi xa khỏi London”.
“Tại sao?” Sherlock hỏi.
“Nó chỉ đi Pháp rồi quay lại. Quay đầu nhanh, không ngừng lại cho thủy thủ xuống đâu”. Ông ta cười lớn. “Mày muốn đi xa một thời gian, hãy gia nhập Hải quân. Hay là cứ loanh quanh đây đủ lâu, rồi họ sẽ đến và nhận mày”.
Ông ta bỏ đi, vẫn còn cười.
“Pháp ư”, Sherlock nói, ngạc nhiên. “Hấp dẫn đây”.
“Nghe nói mày muốn gia nhập thủy thủ đoàn của chúng tao”, một giọng vang lên từ mũi tàu. Sherlock nhăn mặt và nhìn ra chỗ khác, nhưng giọng nói vẫn tiếp tục: “Tại sao mày và đứa con gái không lên tàu? À, tụi tao biết nó là con gái. Tụi tao quan sát tụi mày từ lúc tụi mày xuất hiện. Cái gì, tụi mày nghĩ tụi mày vô hình hả?”
Sherlock liếc dọc theo bến tàu nơi người quản lý ụ tàu dừng lại và đang nhìn lại hướng bọn nó. Mặt ông ta lộ ra sự thông cảm nhưng lạnh lùng. Ông ta sẽ không làm gì để giúp đỡ.
Sherlock nắm tay Virginia và kéo lên. “Đến lúc phải đi”, nó nói, nhưng khi xoay lại nó nhận ra một nửa vòng tròn lỏng lẻo gồm thủy thủ và bốc xếp đang bao quanh nó, chúng xuất hiện như từ dưới đất chui lên. Kéo Virginia, nó cố chạy, nhưng những cánh tay to khỏe đã bắt lấy nó và kéo nó ra khỏi cô bé. Nó chống trả lại, nhưng những cánh tay giữ nó quá chắc. Nó thấy Virginia cũng đang chống cự, nhưng rồi một bàn tay ép chặt một miếng vải lên mặt nó. Miếng vải có mùi thuốc, đắng và nặng. Nó gần như ngợp thở. Và nó bỗng thấy mình ngã vào một cái hố không đáy có màu đúng màu mắt Virginia, và nó nhanh chóng ngủ thiếp đi, và mơ thấy những chuyện kinh khủng.