CHƯƠNG 14
Trong giấc mơ Sherlock đang vật lộn với một con rắn khổng lồ. Thân hình nó mập như một thùng bia tròn, ngút mắt toàn những cơ bắp và xương, và đầu nó là một hình tam giác bẹt viền hàng răng như lưỡi cưa. Con rắn và nó đánh nhau trong nước, nhưng trong giấc mơ nước đặc và tối như là mật đường. Con rắn từ từ cuộn mình quanh nó và siết chặt, cố gắng bẻ gãy xương sườn nó, nhưng nước cản trở cử động của con rắn và Sherlock có thể làm lỏng vòng siết bằng cách đẩy mạnh tay và chân. Nhưng rồi khi nó cố gắng thoát ra, nước khiến nó bơi chậm một cách kỳ lạ và con rắn một lần nữa lại cuốn người quanh nó và chậm rãi siết chặt. Và mọi thứ cứ tiếp diễn, nó thì không ngừng vùng vẫy để thoát ra và con rắn cũng không ngừng cố gắng siết chặt nó.
Cuối cùng khi thức giấc, nó thấy như thời gian đã trôi qua rất lâu. Miệng và cổ họng nó khô khốc, và khi nó chạm lưỡi lên vòm miệng thì nó dính lên đó. Nó cũng rất đói.
Sau một lúc, nó cảm thấy đủ mạnh để ngồi dậy mà không cảm thấy mệt. Và cái nó thấy đã xua tan đi mọi cảm giác khát, đói và mệt mỏi của tâm trí.
Nó đang nằm trên chiếc giường bốn cọc giường với một màn thêu bao phủ. Gối mềm mại, nhồi lông ngỗng, và tường căn phòng được ốp gỗ sồi. Sàn trơn bóng và được phủ bằng tấm thảm có những họa tiết trang nhã.
Đúng là căn phòng nó đã tỉnh dậy sau khi bị đánh gục ở trận đấu quyền Anh ở hội chợ – ở ngoại vi Farnham.
Nhưng làm sao có thể? Nam tước Maupertuis đã rời bỏ tòa nhà trang viên đó, mọi thứ trống trơn. Chắc chắn hắn không thể trở về nhanh đến thế? Vậy tại sao nó có thể nằm ở đây?
Sherlock lăn ra khỏi giường và đứng thẳng lên. Nó vuốt mặt và bất ngờ thấy có gì đó khô queo dính xung quanh miệng và mũi nó. Nó chà tay lên, gỡ thứ đó ra khỏi da, rồi nhìn lên đầu các ngón tay. Chúng được bao bởi những sợi màu đen. Nó vê các ngón tay, rồi ngạc nhiên nhận ra những sợi này hơi dính.
Nó nhớ lại tấm vải đã bịt miệng nó. Là một loại hóa chất nào đó? Một loại thuốc làm nó ngủ? Hình như là thế.
Và Virginia! Một cơn giận bùng lên xua tan đi toàn bộ cơn buồn ngủ và buồn nôn còn sót lại trong máu nó. Chuyện gì đã xảy ra với Virginia? Nếu ai đó làm hại cô bé, nó sẽ –
Nó sẽ làm gì? Giết chúng ư? Nó còn không biết chính xác nên làm gì lúc này.
Nó phải tập hợp thông tin. Tìm ra điều gì đang diễn ra và tại sao. Chỉ có như vậy nó mới có thể làm được điều gì đó.
Sherlock bước đến tấm rèm và kéo ra, mong là nhìn thấy mặt đất màu đỏ khô cằn và hàng trăm tổ ong đặt bên ngoài như lần cuối nó ở căn phòng này, nhưng điều nó thấy làm nó bước loạng choạng về phía sau vì kinh ngạc.
Không xa căn nhà là biển với bãi cát xám đang hứng những đợt sóng cuồn cuộn tung bọt trắng xóa trải ra đến tận đường chân trời thẳng tắp. Bầu trời xanh tươi. Sherlock có thể trông thấy những cánh buồm thấp thoáng xa xa.
Nó nhắm mắt lại và suy nghĩ. Liệu nó có bị ảo giác? Có thể lắm, nó nghĩ, nhưng giấc mơ về con rắn và mặt nước trông như nước mật đường đã bị một cảm giác kỳ quái và phi lý làm hỏng. Nếu nhìn lại, cảm giác đó có nghĩa là nó ít nhiều biết mình đang mơ, trong khi cảm giác này quá rõ ràng và hợp lý.
Có khi nào quang cảnh bên ngoài cửa sổ chỉ là một bức vẽ hoàn hảo tạo ấn tượng về bờ biển, biển và bầu trời xanh trong khi nó chỉ là những sắc màu trên toan hoặc trên giấy bìa? Nó mở mắt ra lần nữa và nhìn. Ở phía xa, liệng vòng trên đỉnh các con sóng là những thân ảnh hình chữ “w”, chuyển động khi nó quan sát: những con chim biển đang cưỡi lên sóng. Cái này không thể giả trong bức vẽ được. Mọi thứ ngoài đó đều là thật.
Và vì không có biển ở gần Farnharm, kết luận logic là nó không còn ở gần Farnharm nữa, và có thể thậm chí không còn ở nước Anh. Tay quản lý cầu tàu nói chiếc tàu này sắp đi Pháp. Điều này có thể giải thích về các ngọn núi. Còn căn phòng? Điều này cũng bình thường như việc Nam tước Maupertuis là một kẻ bị lệ thuộc vào thói quen, và hắn thích mọi thứ quanh hắn càng quen thuộc càng tốt, cho dù hắn đang ở đâu. Giả sử tòa nhà trang viên ở bên ngoài Farnharm không phải là nhà của tổ tiên để lại, hắn chỉ cho sửa sang và thiết kế lại cho giống với một nơi nào đó hắn coi là nhà. Đây có phải là cái chateau Pháp đó không? Có phải từ đó có nghĩa là lâu đài trong tiếng Pháp không?
Cảm giác hài lòng một cách mơ hồ với chính mình vì đã phát hiện ra điều mà nó nghi ngờ đã làm nó bối rối và bất ổn, nó không quay đầu lại cả khi ổ khóa kêu lách cách và cánh cửa phòng ngủ mở ra vào trong. Nó đã biết là nó sẽ thấy gì ở đó – hai gã gia nhân mặc quần chẽn màu đen, vớ đen, áo gi-lê đen và áo khoác ngắn đen, mang mặt nạ màu đen có khoét hai lỗ trên mắt. Y như lần trước. Nó đếm trong đầu đến mười rồi xoay lại. Nó gần đúng – hai gã hầu đứng ngay ngưỡng cửa với trang phục như nó nhớ – nhưng còn gã thứ ba đang đứng ngay giữa cửa. Trên thực tế gã này gần như lấp đầy cửa ra, hắn quá to lớn. Cánh tay gã to như đùi của một người đàn ông bình thường trong khi chân gã to như thân cây. Bàn tay có kích cỡ và hình dáng như lưỡi xẻng, nhưng đầu gã lôi cuốn tất cả mọi sự chú ý hơn tất cả những thứ khác. Gã hói, nhưng da đầu được phủ đầy những vết sẹo màu nâu ngoằn ngoèo làm đầu gã, khi mới nhìn, giống như có đầy đủ tóc. Hắn mặc một áo khoác da dài màu nâu, bên ngoài một bộ đồ màu xám rộng thùng thình, và cách cắt của cái áo khoác kết hợp với thân hình hộ pháp làm gã nhìn càng to hơn.
“Nam tước muốn gặp mày”, gã nói, giọng giống như tiếng rít của cối xay đá.
“Thế nếu như tôi không muốn gặp Nam tước thì sao?” Sherlock nói với giọng không chút cảm xúc. Hai gã hầu liếc nhìn nhau, nhưng gã sẹo chỉ lắc nhẹ đầu. “Ý của Nam tước là ý Chúa. Không có ý muốn nào khác có nghĩa trừ ý của ông ta”.
“Nếu tôi từ chối không đi?”
“Thì tụi tao xách mày lên và mang đi”.
Sherlock biết nó đang hành động như một đứa trẻ, nhưng nó muốn bọn chúng biết là nó không phải là một người tù thụ động – và nó có ý kiến riêng của mình. “Thế điều gì xảy ra nếu tôi bám chặt khung cửa và không thả ra?”
“Thì tụi tao bẻ gãy những ngón tay của mày rồi mang mày đi”. Gã đàn ông cười mỉm, nhưng không có vẻ gì là đùa trong câu nói. Chỉ có hai hàm răng nhe ra, giống như một con cọp chuẩn bị vồ mồi. “Tất cả những gì Nam tước cần là mày trả lời các câu hỏi. Nghĩa là cái đầu mày, để não mày có thể nghĩ và miệng mày có thể hoạt động; và ngực mày, để phổi mày có thể thở và giữ mày sống. Mọi thứ khác không cần để ý. Tùy mày chọn”.
Sherlock yên lặng một lúc, để chứng tỏ nó biết cần lựa chọn và đang cân nhắc, rồi nó đi về hướng cửa. Gã đàn ông không nhúc nhích cho đến khi Sherlock gần đụng vào ngực gã, rồi gã quay sang một bên, chỉ đủ để Sherlock có thể lách qua cánh cửa.
“Tên tao là Ông Surd”, gã nói khi gã và những gia nhân theo Sherlock xuống sảnh. “Tao là người hầu và người làm nhiều công việc cho Nam tước. Bất cứ việc gì ông ấy muốn, tao đều hoàn thành. Nếu ông ấy muốn uống một ly Madeira, tao sẽ rót nó. Nếu ông muốn cái đầu mày đặt trên đĩa, tao sẽ cắt nó và mang đến. Không phải thú vui, không phải nhiệm vụ khó khăn. Chỉ đơn thuần là công việc. Mày có hiểu tao không?”
“Hiểu rồi”, Sherlock nói. “Người cầm roi lần trước lúc tôi gặp Nam tước là ông, đúng không? Đứng trong bóng tối”.
“Chỉ là một công việc”, gã sẹo lặp lại. “Nhưng tao vui sướng khi hoàn thành tốt công việc”.
Sảnh trên lầu cũng giống như những gì nó nhớ trong căn nhà ở Farnharm, các cầu thang dẫn xuống sảnh chính cũng vậy. Sherlock phải ngăn mình không tìm kiếm vết vó ngựa của lần nó và Matty trốn thoát. Không phải là căn nhà này. Đó chỉ là căn nhà khác trông giống căn nhà này.
Virginia đang đứng bên ngoài căn phòng mà bên trong, như Sherlock còn nhớ, Nam tước Maupertuis có thể đang chờ chúng. Hai gã gia nhân đeo mặt nạ đứng cạnh cô, kế bên một tủ lớn bằng gỗ tếch.
“Cậu không sao chứ?” nó hỏi.
“Một giấc mơ kỳ lạ”, cô bé nói. “Mình cưỡi con Sadia, nhưng nó lồng lên và mình không thể khống chế được nó. Bọn mình cứ phóng đi và phong cảnh bên ngoài tan biến đi bất cứ khi nào mình nhìn”. Cô bé lắc đầu để thoát ra khỏi ký ức về giấc mơ. “Còn cậu?”
“Mấy con rắn”. nó nói ngắn gọn.
“Chúng dùng loại thuốc gì với chúng ta thế? Đầu mình còn mụ mẫm”.
“Mình nghĩ đó là cồn thuốc phiện – morphine hòa với cồn. Mẹ và cha mình thường sử dụng nó cho chị mình. Mình nhận ra mùi của nó. Nó làm từ cây thuốc phiện”.
“Cây thuốc phiện?” Cô bé cười lớn. “Mình chưa bao giờ thích cây này. Hoa của nó nhìn rất khiếp”.
Ông Surd chen qua chúng và đẩy mở cửa phòng nơi Nam tước đang chờ. Gã ra dấu bảo chúng vào.
Căn phòng chìm trong bóng tối như trước. Hai cái ghế được đặt ở cuối một cái bàn khổng lồ, phía bên kia bàn khuất trong bóng tối. Những tấm rèm dày màu đen được treo ở các cửa sổ, ngăn ánh nắng chiếu vào phòng, rải rác vài nơi trên tường Sherlock thấy treo đầy kiếm và những tấm khiên. Ở bức tường đối diện là một bộ áo giáp đầy đủ lệ bộ đang cầm kiếm, được tạo dáng như có một hiệp sĩ đang ở bên trong.
Ông Surd ra hiệu cho chúng ngồi xuống. Sherlock đang tính từ chối, nhưng nó thấy trong mắt Ông Surd niềm hy vọng nó từ chối, thậm chí thèm muốn nó từ chối, để gã có thể làm điều gì đó đau đớn và dứt điểm để đảm bảo Sherlock nghe theo. Vì thế nó ngồi xuống, với Virginia bên cạnh. Ông Surd và bốn gã hầu bước vào trong bóng tối ở phía bên kia phòng.
Căn phòng yên lặng một lúc, ngoại trừ tiếng kẽo kẹt yếu ớt của dây thừng và gỗ dưới sức nặng như là Sherlock đã nghe lần trước.
Rồi một giọng thì thầm, như tiếng lá khô bay trong gió: “Ngươi cứ khăng khăng ngáng trở các kế hoạch của ta, trong khi ngươi chỉ là một thằng nhóc. Ta đã phải từ bỏ một trong những căn nhà của ta vì ngươi”.
“Nhà của ông dường như được thiết kế và trang trí hệt nhau”, Sherlock nói. “Tại sao vậy? Ông thích mọi thứ giống nhau à?”
Im lặng trong chốc lát, và Sherlock sẵn sàng đón nhận khoảnh khắc đầu chiếc roi vút tới từ trong bóng tối, xẻ thịt nó ra, nhưng thay vào đó là giọng nói đáp lại.
“Một khi ta tìm thấy thứ gì đó ta thích”, giọng đó nói, “Ta không có lý do gì để chịu đựng những thứ khác. Cách bố trí và trang bị của căn nhà, một hệ thống cai trị… một khi ta phát hiện ra một thứ gì có hiệu quả, ta muốn nó lặp lại để mọi thứ giống hệt nhau ở bất kỳ nơi nào ta đến. Ta thấy điều đó… thoải mái”.
“Và đó là lý do tại sao ông cho gia nhân mặc đồ và đeo mặt nạ màu đen – bởi vì đó là cách ông có thể tin tưởng họ luôn là những người hầu đó – cho dù ông ở bất kỳ đâu”.
“Rất sáng suốt”.
“Và chúng ta đang ở nơi nào nhỉ, Pháp?”
“Ngươi nhận ra phong cảnh bên ngoài? Đúng, căn nhà này ở Pháp. Cả hai ngươi đã ngủ trên chiếc tàu mang các ngươi đến đây, và xe ngựa chở các ngươi đến chỗ này”.
“Nhưng còn Ông Surd?” Sherlock hỏi. “Chỉ có mình ông ta à?”
“Ông Surd không thể thay thế được. Ta đi đâu, anh ta đi đó”.
“Ông là Nam tước Maupertuis, có phải không?”
“Một lần nữa, ngươi làm ta ngạc nhiên. Ta không nghĩ tên ta được nhiều người biết”.
“Tôi… ráp những bằng chứng lại với nhau”.
“Rất thông minh. Thật sự rất thông minh. Ta khen ngợi ngươi về khả năng suy luận. Còn thứ gì khác mà ngươi ráp lại được?”
Virginia đặt tay cảnh báo nó, nhưng Sherlock cảm thấy hết sức hãnh diện về những cuộc điều tra nó đã thực hiện, những điều nó phát hiện được, âm mưu mà nó đang bắt đầu ráp lại được. Và, nó tự nhủ, điều quan trọng là Maupertuis biết kế hoạch của hắn không còn bí mật nữa. “Tôi biết ông nuôi ong, và tôi biết đó là giống ong nước ngoài hung dữ hơn bất cứ loài ong châu Âu nào. Nghĩa là ông không nuôi ong để lấy mật, mà để chúng chích người. Ông muốn dùng chúng để gây thương tích hoặc giết người”. Đầu nó lúc này đang chạy đua, sắp xếp các dữ kiện để tạo thành những mẫu hình nó chỉ mới nghi ngờ trước đây. Amyus Crowe muốn dạy nó, huấn luyện nó, nhưng Nam tước Maupertuis nhìn nhận nó một cách nghiêm túc. Nam tước lắng nghe những suy luận của nó như thể chúng thật sự có ý nghĩa, chứ không chỉ là những câu trả lời suy diễn để bịa ra vấn đề, như thỏ và cáo. “Ông điều hành một nhà máy sản xuất quần áo – quân phục, tôi nghĩ vậy”. Nó dừng một lúc. Có một điều gì đó ngoài tầm với của nó, một đích đến trọng yếu về mặt logic mà nó đã đi được gần hết quãng đường trừ bước cuối cùng, để vượt qua cần một bước nhảy vọt nhờ trực giác. “Người của ông – tôi nghĩ tên anh ta là Wint – ăn cắp một ít quần áo và cất ở nhà anh ta. Anh ta bị ong tấn công. Một người khác làm vườn cho chú tôi trước đây là thợ may ở Farnharm – làm việc cho ông, tôi nghĩ vậy. Anh ta cũng bị ong giết. Có khi nào anh ta đã giữ lại một ít quần áo để mặc? Lấy trộm của ông?” Lúc này màn sương mờ trong tâm trí che khuất cái đích đến cuối cùng về mặt logic đã được dẹp bỏ, và nó tiếp tục tiến về đích: “Vì vậy có gì đó ở quần áo làm cho lũ ong tấn công họ. Khi ở trong hộp hay thùng chúng vô hại, nhưng khi mọi người mặc nó… đàn ong sẽ bị cuốn hút bởi đám quần áo, và chích bất kỳ ai mặc chúng”.
Virginia nhéo mạnh nó, nhưng Sherlock làm lơ.
“Những người làm việc ở kho hàng ở Rotherhithe nói chuyện với nhau về việc vận chuyển hàng đến Ripon, Colchester và Aldershot. Những nơi đó toàn là căn cứ quân sự. Nếu quần áo được chuyển đến căn cứ quân sự thì đó có lẽ là quân phục. Ông đã làm gì – kiếm những hợp đồng với chính phủ để cung cấp quân phục cho quân đội Anh? Những binh sĩ mặc quân phục mới, có thể khi họ chuẩn bị lên tàu sang Ấn Độ, và rồi…”. Những ý nghĩ của Sherlock chạy nhanh hơn miệng nó, nhưng đột ngột cả hai bật ra cùng lúc. Cha của nó. Aldershot. Ấn Độ. Quân phục. “Và rồi khi ông thả đàn ong ra, và chúng sẽ tấn công từng binh nhì, trung úy, sĩ quan trong quân đội Anh”, nó thì thầm, kinh hoàng vì điều mà nó suy luận ra.
“Hàng ngàn người chết, tất cả đều bí ẩn và không thể tránh khỏi”, Nam tước thì thầm trong bóng tối ở cuối bàn. “Một cú đấm gây suy sụp thẳng vào trái tim của đế chế Anh, do những con ong nhỏ bé – những nhà cung cấp mật cho hàng ngàn buổi tiệc trà chiều chủ nhật. Sự trớ trêu thật là… thương tâm”.
“Nhưng tại sao?” Suy nghĩ của Sherlock đầy những viễn cảnh về cha mình, mặt sưng lên và bị bao phủ bởi những mụn nhọt, ngã xuống và nghẹt thở khi những con ong cứ chích ông hết lần này đến lần khác.
“Tại sao ư?”. Giọng của Nam tước không lớn hơn chút nào, nhưng nó bất ngờ chất đầy sự hằn thù không có lúc trước. “ Tại sao? Bởi vì cái đất nước hèn mọn đáng khinh của ngươi bị ảo tưởng về cái uy quyền đã dẫn nó tới chỗ chinh phục phân nửa thế giới. Thật khó để tìm ra được một nước nào nhỏ hơn nước Anh. Các ngươi chỉ bằng một cái đinh ghim trên bản đồ. Trên bất kỳ bản đồ thế giới nào, những người vẽ bản đồ cũng không thể viết từ “England” trong biên giới của cái đảo này, nó quá nhỏ. Tuy nhiên các ngươi vẫn ngạo mạn, liều lĩnh, tự huyễn hoặc bản thân để tin rằng thế giới được sắp đặt cho sự cai trị nhân từ của các ngươi. Và thế giới vẫn cứ quay và để mặc các người làm thế! Thật kinh hoàng. Nhưng có những người trên thế giới, những quân nhân, sẽ không cho phép cái bản năng chiếm đoạt và cướp bóc các ngươi đi xa hơn nữa. Biên giới của đế chế Anh phải bị đẩy lùi, chỉ như thế các nước khác mới có không gian để thở, có nơi để sống. Ta… đại diện cho… một nhóm người đó. Người Đức, Pháp, Mỹ, Nga – sát cánh bên nhau để kiềm chế những tham vọng về lãnh thổ của các ngươi. Các ngươi còn chưa chịu yên cho đến khi màu đỏ của đế chế Anh lan tràn khắp tấm bản đồ; chúng ta sẽ không để yên cho đến khi nó bị bôi đi ngoài cái đảo bé nhỏ của các ngươi”. Hắn ngừng lại. “Và có thể Honduras thuộc Anh, ở Nam Mỹ. Các ngươi có thể giữ lại Honduras thuộc Anh”.
“Vì vậy ông sắp đặt để tàn phá quân đội Anh chỉ bằng một đòn tấn công”.
“Một đòn tấn công không nghiêm trọng bằng bệnh dịch bùng phát, vì nó chỉ tấn công binh sĩ chứ không tấn công ai khác. Lũ ong, như ngươi đã biết, hung dữ và bảo vệ lãnh thổ một cách bất thường. Bọn chúng được nuôi vì tính hung hãn – và những đàn ong của ta, chúng sinh sôi nhanh chóng. Phấn hoa mà chúng ta tẩm vào đồng phục sẽ thấm vào cơ thể những người lính, và sẽ theo mồ hôi thấm ra ngoài da. Nếu bọn ong nghe mùi, chúng sẽ tấn công ngay lập tức. Một khi đàn ong được thả từ những căn nhà mới của mình, chúng sẽ bay dọc theo nước Anh trong vài tháng, chích chết tất cả binh sĩ nơi chúng bay qua. Chúng ta sẽ nuôi nhiều hơn ở những địa điểm bí mật ở châu Âu vào giai đoạn tiếp theo của đợt tấn công. Sự kinh hoàng, sợ hãi, sự hoảng loạn sẽ là đồng minh tốt nhất của chúng ta. Một bệnh dịch bí ẩn làm những binh sĩ đau đớn. Nước Anh sẽ bị xếp xó ở vị trí nó đáng được hưởng: như một quốc gia hạng ba”.
“Nhưng còn hai người đàn ông chết – người của ông và người làm vườn của chú tôi? Bọn họ không phải là một phần trong kịch bản của ông, có phải không?”
Một tiếng sột soạt và tiếng kẹt phát ra từ bóng tối, như thể Nam tước Maupertuis đang nhún vai. Hay là bị buộc phải nhún vai. “Ta biết có vài công nhân trộm quân phục, nhưng ta vẫn để yên. Đó là lỗi của ta. Một trong những tổ ong bị ngựa đụng trúng, và bọn ong thoát ra. Chúng trở nên hung dữ, hoang dã và khi ngửi thấy mùi phấn hoa trên những bộ quân phục bị lấy cắp, chúng tấn công. Ông Surd đã thu lại được con ong chúa và nhử bọn ong còn sống quay về. Đó là một nhiệm vụ rất can đảm”.
“Chỉ là công việc thôi, thưa ông”. Ông Surd nói từ cuối phòng.
Dù là nó đã phát hiện ra mọi thứ, cái kịch bản quá vô liêm sỉ này làm cho Sherlock kinh ngạc. Và càng kinh khủng là nó không tìm thấy khe hở nào. Nếu những con ong hiếu chiến như Maupertuis nói, và nếu quân phục đã được phân phối hiệu quả như hắn dự định, thì cái kịch bản này sẽ hiệu quả. Nó sẽ hiệu quả.
“Anh của tôi sẽ ngăn ông lại”, Sherlock nói lặng lẽ. Đó là hy vọng cuối cùng của nó.
“Anh ngươi?”
“Anh của tôi”.
Sherlock nghe có tiếng thì thầm trong bóng tối. Một lần nữa nghe như là giọng giống như ngậm sỏi của Ông Surd.
“À”, Maupertuis nói với giọng mỏng như lá. “Tên ngươi là Sherlock Holmes. Vì thế nên anh ngươi phải là Mycroft Holmes. Một tên thông minh. Chúng ta đã ghi sổ hắn như một kẻ để ý đến nhóm của chúng ta. Có vẻ như ngươi giống tên đó”.
“Tôi đã gửi điện tín cho anh tôi và nói với anh ấy mọi việc đang xảy ra”, Sherlock nói, cố trầm tĩnh hết mức có thể.
“Không”, Nam tước chỉnh lại, “ngươi chưa gửi. Nếu ngươi đã làm, ngươi đã không cần điều tra chiếc tàu của ta. Bởi vì Mycroft Holmes đã cử người của hắn làm điều đó”.
Người của hắn ? Sherlock nhận ra phạm vi quyền lực của anh nó một cách đột ngột và sáng rõ.
Thêm nhiều tiếng thì thầm ở cuối phòng.
“Dù sao đi nữa, chúng ta sẽ giải quyết anh ngươi”, Nam tước Maupertuis thì thầm. “Nếu sự thông minh của ngươi là một dấu hiệu của hắn thì hắn rất có thể phát hiện ra dự định của chúng ta và cố dừng nó lại. Ngươi và anh mình sẽ chết trong cùng một tuần, thậm chí có thể cùng một ngày. Cùng một giờ, nếu ta có thể sắp xếp được, vì ta là một người yêu thích sự gọn gàng. Và điều đó sẽ giúp cha mẹ các ngươi không phải tốn chi phí lo hai đám tang”.
Toàn bộ cái giá phải trả cho sự ngạo mạn của Sherlock bất thình lình đổ ập lên nó. Do hãnh diện vì tìm ra toàn bộ kịch bản kinh hoàng và khoe ra sự thông minh của nó trước Nam tước Maupertuis và rồi, tệ hơn là, với việc khoe khoang ảnh hưởng của anh trai, Sherlock đã kết án tử hình cả hai.
“Ta tin là ngươi đã nói cho ta mọi thứ ngươi biết”, Maupertuis tiếp tục, “và ta ngạc nhiên vì lượng thông tin các ngươi xác định được. Rõ ràng là chúng ta cần bí mật hơn trong tương lai. Dù sao đi nữa, cũng cám ơn ngươi vì việc đó”.
“Tại sao lại là London?” Sherlock hỏi nhanh, ý thức được rằng mọi việc đã đến hồi kết thúc và vì thế mạng sống của nó – và Virginia – có thể kết thúc trong thời gian ngắn. “Tại sao ông lại di chuyển tổ ong đến London trước khi chở chúng đến đây mà không phải là, ví dụ Portsmouth hay Southampton?”
“Vụ trốn thoát của ngươi đã làm chúng ta phải thúc đẩy mọi việc nhanh hơn dự tính”, Maupertuis thì thầm. “Không có chỗ để tàu buông neo ở Portsmouth hay Southampton, và tàu phải chờ ở London để chờ hướng dẫn di chuyển của chúng ta. Thật bất tiện khi phải vận chuyển tổ ong đến
London, nhưng không còn cách nào khác. À còn điều này, ngươi không còn giá trị đối với ta – ngươi, và con bé ngồi bên cạnh ngươi. Ta định đe dọa mạng sống của con bé để bắt ngươi nói, nhưng không cần áp dụng biện pháp mạnh nào. Nếu có thì chỉ là chuyện làm ngươi câm họng mãi mãi”.
Sherlock quay qua Virginia, mặt nó đỏ lên vì xấu hổ, nhưng cô bé mỉm cười với nó. “Cậu đã cứu mình khỏi bị tra tấn”, cô bé thì thầm. “Cám ơn cậu”.
“Không có gì”, Sherlock trả lời một cách máy móc, nó không chắc lắm là nó có nên thật sự nhận lời cảm ơn hay không.
“Ông Surd”, giọng của Nam tước Maupertuis vang lên trong bóng tối. Mặc dù thì thầm, giọng hắn vẫn vang lên đến tận các góc phòng. Đó là giọng quen ra lệnh. “Chúng ta cần đẩy nhanh công việc. Hãy ra lệnh. Thả ong từ Pháo đài ra. Vào lúc chúng tìm được hướng bay vào lục địa và băng qua đất nước này, quân phục sẽ được phân phối. Và rồi sự hỗn loạn sẽ ngự trị!”