← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16

Cảm ơn Chúa vì Nam tước Maupertuis”, Sherlock nói thì thầm một cách chân thành trong khi đóng sầm cánh cửa phòng ăn lại phía sau chúng. Cửa không khóa, vì vậy nó dùng hết sức đẩy mạnh cái tủ gỗ tếch ở bên cạnh cửa. Các chân tủ kêu rít lên trên sàn khi di chuyển.

“Tại sao?” Virginia vặn lại, cô bé dồn hết sức đẩy giúp nó. Cái tủ trượt ngang cánh cửa, ngăn nó mở ra. “Hắn có bao giờ làm gì cho chúng ta đâu?”

Những người hầu của Nam tước Maupertuis hẳn đã chạy đến chỗ cửa dẫn ra phòng khách, bởi vì cánh cửa bất ngờ mở hé ra và đụng sầm vào cái tủ. Bọn chúng lắc cửa vài cái, nhưng cái tủ không nhúc nhích.

“Hắn thích mọi chỗ hắn sống đều giống nhau. Vì thế mình sẽ biết chuồng ngựa ở chỗ nào. Đi thôi!”. Nó dẫn đường ra phía sau căn nhà đến một cánh cửa mở ra bên ngoài, và khi chắc là không có bất kỳ người hầu nào ở bên ngoài, nó và Virginia vội vã đi vòng quanh hông tòa nhà và tìm được chuồng ngựa. Dựa theo vị trí của mặt trời, giờ là giữa buổi sáng. Bọn nó đã bị đánh thuốc mê ít nhất là một đêm, có khi hơn.

Luôn thực tế, Virginia ngay lập tức bắt đầu thắng yên cương cho hai con ngựa. “Chúng ta sẽ làm gì Sherlock? Chúng mình đang ở một đất nước khác! Ngay cả tiếng cũng không biết!”

“Thật ra”, nó lúng túng, “mình biết”.

‘Biết cái gì?”

“Tiếng Pháp. Dù sao thì, chỉ một ít”.

Cô bé quay lại nhìn nó một cách lạ lùng. “Làm sao cậu biết?”

“Bên ngoại mình gốc Pháp. Mẹ cứ khăng khăng bảo bọn mình học tiếng Pháp. Mẹ nói đó là di sản của gia đình”.

Virginia vươn tới đụng vào tay nó. “Cậu không kể về mẹ”, cô bé nói. “Cậu nói về cha cậu và anh trai, nhưng không nhắc về mẹ”.

“Không”, Sherlock nói, họng như bị nghẹn lại. Nó quay sang nơi khác nên cô bé không thể nhìn vào mắt nó. “Mình không kể”.

Virginia siết chặt sợi dây đai cuối cùng trên những con ngựa. “Vậy cho là cậu có thể nói thứ tiếng này, chúng ta sẽ đi đâu? Chúng ta có phải nhờ giúp đỡ không?”

“Chúng ta đi về hướng bờ biển”, Sherlock nói. “Maupertuis đã ra lệnh thả đàn ong. Nếu chúng ta không chặn chúng lại, chúng sẽ giết người. Có thể là không nhiều như Maupertuis mong đợi, nhưng vài binh sĩ Anh vẫn sẽ chết. Chúng ta phải ngăn chúng thả đàn ong”.

“Nhưng -”

“Còn một việc nữa”, nó nói. “Hãy đi đến bờ biển. Từ đó chúng ta có thể gửi điện tín cho anh mình, hay làm gì đó. Bất cứ việc gì”.

Virginia gật đầu. “Lên ngựa thôi, kiếm sĩ bậc thầy”.

Nó cười toe. “Lúc ở đó cậu cũng khá thiện chiến mà”.

Virginia cũng cười hớn hở. “Mình là vậy mà, đúng không?”

Lên ngựa, chúng phóng khỏi tòa nhà ngay khi những tiếng la hét vang lên và chuông báo động bắt đầu rung lên. Chỉ trong tích tắc, Sherlock biết bọn nó đã chạy quá xa, không thể bị bắt.

Ở làng gần nhất, bọn nó ngừng lại để hỏi xem chúng đang ở đâu. Cả hai đều đói, nhưng chúng không có tiền Pháp, và tất cả những gì chúng có thể làm là nhìn một cách tha thiết những cây xúc xích treo lủng lẳng trên các cửa sổ của cửa hàng và những ổ bánh mì, dài như cánh tay Sherlock, chất đầy trên các kệ. Một người nông dân nói với Sherlock là chúng còn vài dặm nữa là tới Cherbourg. Ông ta chỉ cho chúng hướng đi, và bọn chúng đi tiếp.

Virginia nhìn nó đánh giá. “Không tệ”, cô bé nói. “Cậu cưỡi ngựa như cưỡi xe đạp chứ không phải là một sinh vật, nhưng cũng không tệ”.

Một tiếng rưỡi sau, chúng dừng lại lần nữa cạnh một vườn lê, và nhét lê đầy các túi và ăn khi cưỡi ngựa, nước lê chảy thành giọt trên cằm chúng. Khung cảnh đồng quê dần lướt qua, thân thuộc tuy vẫn khác với những gì Sherlock đã quen nhìn ở Anh. Đầu nó làm việc nhịp nhàng theo tiếng vang của vó ngựa. Nó cần nghĩ ra việc phải làm khi đến được Cherbourg.

Vào lúc chúng đến đó, nó vẫn chưa có ý tưởng gì rõ ràng.

Thị trấn được xây dựng trên sườn đồi dẫn xuống mặt nước xanh lấp lánh của một bến cảng. Vó ngựa gõ giòn trên đá lát đường, và chúng buộc phải đi nước kiệu chậm lại để vượt qua những đám đông đang tụ tập xung quanh những quầy hàng và cửa hàng nằm dọc theo những con đường uốn khúc. Cảnh tượng này có thể nhìn thấy ở một nơi bất kỳ nào đó dọc bờ biển miền Nam nước Anh, ngoại trừ cách ăn mặc, và sự phong phú hơn của các loại phô-mai trên các quầy hàng.

Sherlock và Virginia xuống ngựa và miễn cưỡng cột chúng lại ở một hàng rào. Ai đó sẽ chăm sóc chúng. Nó kiểm tra giới hạn khả năng ngôn ngữ của mình bằng cách hỏi có sở điện tín nào ở quanh đây không, và sụp đổ khi biết là sở điện tín gần nhất là ở Paris. Bọn nó sẽ gửi tin cho Mycroft bằng cách nào bây giờ?

Phải tìm được một chiếc tàu và quay về Anh. Đó là hy vọng duy nhất của chúng.

Chúng tìm thấy một văn phòng quản lý cảng, và hỏi thăm về những chiếc tàu hay thuyền sẽ đi Anh. Người quản lý cảng cho chúng biết có vài chiếc. Ông ta chu đáo kể vài cái tên. Có bốn chiếc thuyền địa phương chở hàng đi bán - phô-mai, thịt, hành tây. Nó có thể nhắn tin qua các thuyền trưởng.

Chiếc thứ năm là một tàu đánh cá Anh vừa cập bến bất ngờ lúc sáng.

Tên của nó là Bà Eglantine .

Cái tên như một xô nước lạnh tạt thẳng vào mặt nó. Trong vài giây sững sờ, Sherlock đã tin rằng bà Eglantine - quản gia của chú thím nó - là đạo diễn đứng đằng sau tất cả mọi việc đã xảy ra, nhưng rồi những ý nghĩ tích cực hơn đã chiến thắng. Ai đó đang dùng cái tên này như một lá cờ để thu hút sự chú ý của nó. Và quả thế thật.

Bà Eglantine là một chiếc thuyền nhỏ, đang nép mình bên một cầu tàu ở rìa cảng. Amyus Crowe và Matty Arnatt đang đợi chúng cạnh ván cầu.

Virginia chạy ùa vào trong vòng tay của cha. Ông ấy bế bổng nó lên không rồi ôm thật chặt. Sherlock vỗ lưng Matty.

“Làm thế nào hai người biết tìm chúng tôi ở đâu?” nó hỏi.

“Làm thế nào hai người thậm chí biết phải tìm ở nước nào?”

“Cậu nên nhớ, tôi là một người sống bằng nghề săn người”, Crowe nói. “Khi cậu không quay về khách sạn, và khi chúng tôi nhận ra là Ginny biến mất, chúng tôi đã cố lần theo bước cậu. Tôi nghe nói có đám cháy trong đường hầm Rotherhithe, và đặt vài câu hỏi là xác định được có một cậu bé trùng khớp với mô tả đã thoát ra. Trong lúc đó Matty theo dấu chiếc xe ngựa chở Ginny đến bến tàu. Khi chúng tôi đến đó, tàu của Maupertuis đã nhổ neo, nhưng chúng tôi gặp một quản lý bến, ông ấy đã trông thấy hai người bị đưa lên tàu. Bị kéo lê lên tàu, theo lời ông ấy. Chiếc tàu đã khởi hành, nhưng ông ấy nhớ có nghe một thủy thủ nói rằng đây là một chuyến đi ngắn băng qua Eo biển Anh [9] sang Cherbourg. Vì thế chúng tôi thuê một chiếc thuyền đánh cá và sang đây tìm hai người.

Chúng tôi đến đây sau khi tàu của Maupertuis đến một lúc. Hoặc là họ đi chậm, hoặc là họ đã dừng ở đâu đó trên đường đi. Không biết là điều nào đúng”. Giọng ông vẫn chắc chắn và sâu sắc như mọi khi, và những lời nói không tiết lộ trạng thái tinh thần, tuy nhiên Sherlock nghĩ rằng không biết sao trông ông có vẻ già nua và mệt mỏi hơn. Ông vẫn tiếp tục choàng tay quanh vai Virginia, siết chặt. Cô bé không có vẻ gì muốn thoát ra. “Tôi phát hiện Nam tước có một chỗ ở gần đây, và tôi đang nghĩ đến việc thuê vài người địa phương làm thành một nhóm vũ trang thì hai người xuất hiện. Một nơi gặp nhau tiện lợi mọi đường, tôi có thể nói thế”.

“Điều này thật ý nghĩa”, Sherlock nói. “Chúng cháu hướng đến bến cảng gần lâu đài của Nam tước Maupertuis nhất. Rõ ràng đó là nơi tàu của hắn có thể đậu, và hai người đã theo dấu chiếc tàu của hắn. Có vài lúc chúng cháu đã có nguy cơ bỏ xác ở Cherbourg”. Nó mỉm cười. “Điều ngạc nhiên duy nhất là ông đã tìm được một con tàu mang tên người quản gia của chú cháu. Có gì kỳ lạ không?”

“Tên trước đây của chiếc thuyền là Rosie Lee ”, Crowe nói, mỉm cười lại. “Tôi đã tính toán xem một cái tên quen thuộc hơn sẽ hấp dẫn cậu như thế nào, nếu cậu ở trong khu này và đang tìm cách quay về Anh. Tôi đã tính đặt là Mycroft Holmes , nhưng thuyền trưởng đã nhắc tôi một luật bất thành văn là tàu hay thuyền đều được đặt tên phụ nữ”.

“Ông trông đợi chúng cháu sẽ thoát khỏi Nam tước?”

Crowe gật đầu. “Tôi hẳn đã thất vọng nếu như hai người không thể thoát được. Cậu là học trò của tôi, và Ginny là con tôi. Tôi là loại thầy giáo kiểu gì nếu hai người cứ ngồi yên đó cam chịu làm tù nhân?” giọng ông có vẻ hài hước, và nở một nụ cười, nhưng Sherlock có thể cảm nhận sâu thẳm bên trong Crowe là một cảm giác bất an, có lẽ cả sự sợ hãi, mà sự xuất hiện của chúng chỉ bắt đầu làm cho vơi bớt. Ông giơ bàn tay to ra ôm vai Sherlock. “Cậu đã bảo vệ Ginny an toàn”, ông nói, lặng lẽ hơn. “Tôi cám ơn cậu vì điều đó”.

“Cháu biết mọi việc ông làm để đến đây đều logic”, Sherlock nói, cũng lặng lẽ như vậy, “và những suy tính đó đã đúng, nhưng nếu nó không đúng thì sao? Điều gì xảy ra nếu chúng cháu không bao giờ thoát được, hay là chúng cháu đi theo hướng khác, hay là hai người ở đầu này cảng, chúng cháu ở đầu khác, lên một con thuyền khác? Sẽ ra sao?”

“Thì mọi việc sẽ xoay theo hướng khác”, Crowe nói. “Chúng ta ở nơi chúng ta đang ở bởi vì mọi việc xảy ra đúng theo cách nó phải thế. Suy luận có thể rút ngắn đáng kể đường đến lợi thế, nhưng luôn có những dịp ngẫu nhiên mà chúng ta phải đấu tranh. Lần này chúng ta gặp may. Còn lần tới - ai mà biết ra sao?”

“Cháu không mong sẽ có “lần tới””. Sherlock nói. “Nhưng chúng ta vẫn cần ngăn cản kế hoạch của Nam tước”.

“Kế hoạch đó là gì?” Crowe hỏi, mặt nhăn lại một cách bối rối. “Tôi đã ráp được vài chi tiết với nhau, nhưng chưa phải toàn bộ”.

Sherlock và Virginia nhanh chóng giải thích về chuyện đàn ong, đồng phục bị tẩm phấn ong và kế hoạch tiêu diệt phần lớn quân đội Anh khi họ đóng quân ở các doanh trại tại nước Anh. Crowe cũng hoài nghi như Sherlock về tính hiệu quả của kế hoạch, nhưng ông cũng đồng ý là có thể có vài người chết, và ngay cả một mạng người cũng là quá nhiều.

Những con ong cần bị chặn lại.

“Nhưng làm cách nào những con ong có thể tìm được đường băng qua biển để đến đất liền, và rồi lại tìm đường đến được những doanh trại?” Crowe hỏi.

“Cháu đã đọc về ong trong thư viện của chú cháu”, Sherlock đáp. “Ong là những sinh vật đáng kinh ngạc. Chúng có thể phân biệt hàng trăm mùi khác nhau, ở nồng độ nhẹ hơn rất rất nhiều so với mức độ con người cần để phân biệt, và chúng có thể bay hàng dặm để tìm ra nguồn của những mùi đó. Cháu sẽ không ngạc nhiên lắm nếu chúng có thể làm được”. Nó ngừng một chút, nhớ lại. “Hắn ta nói về một pháo đài. Hắn bảo với người của hắn - Ông Sud - là đàn ong nên được thả từ một pháo đài. Có pháo đài nào dọc theo bờ biển này hoặc dọc theo bờ biển nước Anh, mà hắn ta có thể sử dụng không?”

“Không phải loại pháo đài đó”, Matty Arnatt cắt ngang.

“Ý cậu là sao?”

“Có nhiều pháo đài được xây ở Eo biển Anh, quanh Southampton và Portsmouth và ở đảo Wight, như những hòn đảo nhỏ”, nó nói. “Chúng đã được bố trí ở đó để phòng trường hợp Napoleon xâm lược. Lúc này phần lớn chúng bị bỏ hoang bởi vì cuộc xâm lăng không hề diễn ra”.

“Làm sao cậu biết?” Virginia hỏi.

Matty cau có. “Cha mình đã đóng quân ở một trong những pháo đài đó, khi ông ở trong Hải quân. Ông kể hết cho mình nghe về những nơi đó”.

“Vậy điều gì làm cậu tin là Maupertuis sẽ sử dụng một trong những nơi đó?” Sherlock hỏi.

“Cậu đã kể chuyện hắn ta ghét nước Anh đến mức nào vì chuyện đã xảy ra cho hắn. Không có ý nghĩa sao nếu hắn sử dụng một trong những pháo đài chúng ta xây để tự vệ trước quân Pháp làm công cụ chống lại chúng ta?”

Crowe gật đầu. “Cậu bé có ý hay. Và mặc dù tàu của hắn rời khỏi London một thời gian trước khi Matty và tôi mướn được thuyền, chúng chỉ cập bến ở Cherbourg ngay trước lúc chúng tôi đến. Chúng phải dừng ở một pháo đài nào đó để bỏ những tổ ong”.

Nhưng có rất nhiều pháo đài”, Matty nói. “Chúng ta không có thời gian để tìm ở tất cả”.

“Hắn ta sẽ không muốn đàn ong phải bay quá xa”, Sherlock chỉ ra. “Chúng ta sẽ tìm ở pháo đài gần bờ biển nhất. Và hắn ta cũng muốn chỗ đó gần với doanh trại cỡ lớn của quân đội. Chúng ta cần bản đồ nước Anh và bờ biển. Chúng ta cần vẽ những đường thẳng nối mỗi pháo đài và một căn cứ của quân Anh. Chúng ta sẽ tìm đường ngắn nhất”. Nó liếc nhìn hai khuôn mặt đang kinh ngạc của Amyus Crowe và Virginia. “Đó đơn giản chỉ là môn hình học”, nó nói.

“Chúng ta sẽ làm gì nếu tìm được đúng cái pháo đài đó?” Matty hỏi.

“Chúng ta sẽ quay về bờ biển Anh, gửi điện tín cho Mycroft Holmes”, Crowe nói lớn. “Cậu ấy sẽ gửi một tàu hải quân đến pháo đài đó”.

“Mất quá nhiều thời gian”, Sherlock lắc đầu nói. “Chúng ta cần tự đến đó. Ngay bây giờ”.

Cuối cùng họ làm cả hai cách. Chiếc Bà Eglantine , chẳng bao lâu lại được đổi thành Rosie Lee , rời Cherbourg trong khi Crowe và Sherlock vẽ những đường trên bản đồ và nhận diện pháo đài có khả năng nhất. Vài tiếng sau đó, khi họ đến gần, mặt trời đã hiện ra ở chân trời và bờ biển nước Anh xuất hiện như một đường kẻ sậm trên đường chân trời tối.

“Chiếc thuyền đánh cá này sẽ bị để ý ngay lập tức”, Crowe chỉ ra. “Ngay cả khi buồm được hạ xuống thì cột buồm vẫn bị phát hiện, giả sử nếu chúng có bố phòng - và nếu tôi là chúng, tôi sẽ làm thế”.

“Có một chiếc thuyền chèo nhỏ buộc ở bên hông tàu cá”, Sherlock nói. “Cháu phát hiện ra nó khi vừa lên tàu. Cháu và Matty có thể chèo đến pháo đài. Bác tiếp tục đi về Anh. Để báo động”.

“Nếu tôi chèo đến pháo đài đó, còn cậu, Matthew và Ginnie về bờ biển thì sao?”

“Chúng cháu không biết lái thuyền”, Sherlock chỉ ra. Tim nó đập thình thịch trong ngực khi nghĩ về nhiệm vụ mà nó đã xung phong thực hiện, nhưng nó không có lựa chọn nào khác. “Hơn nữa, Bộ Hải Quân và Bộ Chiến tranh sẽ tin ông hơn là tin cháu”.

“Có lý”, Crowe miễn cưỡng đồng ý.

“Ở bất cứ nơi nào ông cập bến”, Sherlock nói tiếp, “nếu ông ở gần Xưởng đóng tàu Portsmouth, Xưởng đóng tàu Chatham, Deal, Sheerness, Great Yarmouth hay Plymouth, thì đều có những trạm truyền tin ở đó. Nếu ông đưa cho họ tin nhắn họ sẽ chuyển nó dọc theo đất nước nhờ một chuỗi các trạm với những tấm bảng sáu lỗ đặt trên mái, đến Bộ Hải quân. Sẽ nhanh hơn là đánh điện tín”.

Crowe gật đầu, mỉm cười, rồi đưa bàn tay khổng lồ, chai sần bắt tay Sherlock. “Chúng ta sẽ gặp lại”, ông nói.

“Cháu đang mong tới khi đó đây”, Sherlock đáp lại.

Sherlock và Matty chuồi xuống chiếc thuyền rồi chèo thật nhanh đến chỗ pháo đài. Chiếc thuyền chèo có thể đến gần đó mà không bị phát hiện, trong khi một chiếc tàu đánh cá, dù trông có vẻ vô hại thế nào, cũng sẽ bị để ý. Như thỏa thuận, Crowe và Virginia tiếp tục đến bờ biển nước Anh, nơi họ có thể gửi tin báo động chính phủ.

Virginia đứng ở mạn Bà Eglantine khi nó dần xa khỏi chiếc thuyền chèo, nhìn chăm chăm Sherlock. Nó nhìn lại, tự nhủ không biết có còn gặp lại cô bé lần nữa không.

Mặt biển màu xanh lá xám và dập dềnh khi hai thằng bé khua mái chèo. Pháo đài là một đốm tròn tối ở tận chân trời dường như không bao giờ gần lại bất chấp mọi nỗ lực chèo của hai đứa. Sherlock cảm nhận vị mặn của muối trên môi. Nó tự hỏi làm sao mình lại vướng vào cuộc phiêu lưu lạ lùng này.

Sau một lúc, nó nhìn lên và thấy pháo đài chỉ còn cách vài chục mét: đó là một khối đá ướt bên ngoài bám đầy tảo trông như nhô lên từ mặt nước của Eo biển Anh. Không biết bằng cách nào, bọn nó đã xoay xở để vào được gần mà không bị để ý. Có vẻ như pháo trống rỗng và bị bỏ hoang. Nó nhìn một lượt hàng lỗ châu mai, nơi chỉ cách đó vài thập kỷ, binh sĩ Anh hẳn đang quan sát mặt biển canh chừng những chiếc tàu chiến Pháp đang đến gần. Nó không nhìn thấy ai.

Không một ai cả.

Chiếc thuyền men những mét cuối cùng đến cái khối pháo đài to đen ngòm. Thuyền cập vào bậc đầu tiên của những bậc thang đá dẫn lên phía trên.

Matty nhanh chóng cột dây thuyền vào một thanh sắt gỉ sét được gắn chặt bằng xi măng vào cái kẽ giữa những tảng đá. Hai đứa leo lên những bậc thang. Sherlock trượt chân, và Matty phải chụp lại để ngăn nó không rớt xuống nước. “Làm sao biết là chúng ta không quá trễ?” Matty hỏi.

“Giờ là buổi tối. Ong không hoạt động ban đêm. Những người hầu của Nam tước sẽ không mất nhiều thời gian hơn chúng ta để đến được đây. Đàn ong sẽ được thả vào buổi sáng”.

Lên đến đỉnh, bọn nó quỳ xuống sau bức tường đá thấp chạy quanh vành ngoài của pháo đài. Rêu mọc đầy trong những kẽ hở giữa các viên đá.

Sherlock nhìn kỹ tầng trên cùng của pháo đài – nó cho rằng về mặt kỹ thuật, đó giống như boong tàu, mặc dù “chiếc tàu” đặc biệt này sẽ không đi bất cứ đâu - nhưng các phiến đá lát chẳng có gì ngoại trừ những cuộn dây thừng, những mớ cỏ biển và vài mảnh thùng gỗ.

Ở phía bên kia pháo đài, nó nhìn thấy ánh sáng bất chợt lóe lên từ một que diêm soi rõ một khuôn mặt râu ria với một vết sẹo nằm vắt ngang. Người đang quản lý pháo đài này đã bố trí lính gác. Nó và Matty cần phải cẩn thận.

Người gác di chuyển ra xa hướng bọn nó, Sherlock thấy anh ta đi qua một cửa trên boong có hàng rào gỗ chạy quanh ba mặt cửa. Có lẽ đó là cầu thang dẫn xuống lòng pháo đài.

Khi người đàn ông đi tiếp, Sherlock giật áo Matty bảo nó nép sang một bên.

Nó đã đúng. Có một cầu thang đá dẫn xuống nơi tối tăm.

Mùi của bóng tối và sự mục nát xộc vào mũi chúng.

“Nào”, Sherlock thì thào. “Đi thôi”.

Hai đứa nhanh chóng bước xuống những bậc thang dẫn sâu xuống pháo đài. Lúc đầu nơi đó có vẻ tối như đáy địa ngục, nhưng sau vài phút mắt Sherlock đã quen và nó nhìn thấy những chiếc đèn bão được gắn trên tường cách quãng đều nhau. Bọn nó đang ở một hành lang ngắn có vẻ như dẫn vào một căn phòng lớn hơn, tối hơn, nơi mà ánh sáng vàng vọt của những chiếc đèn khó soi tỏ.

Sherlock và Matty rón rén đi dọc hành lang đến nơi bức tường bất ngờ mở ra. Khoảng không gian tròn lộ ra có lẽ chiếm gần hết một tầng. Những chiếc cột đá cách nhau vài mét chống đỡ cái mái ở phía trên, nhưng thứ làm Sherlock thở gấp là những tổ ong, sắp thành hàng ngũ đều đặn trên những phiến đá lát. Hàng trăm tổ ong. Cứ mười ngàn con ong trong một tổ, nghĩa là có khoảng một triệu con ong hung dữ đang ở đây, chỉ cách nó vài mét. Da nó bỗng ngứa như một phản ứng vô thức đối với đám ong ở quá gần, như thể lũ ong bò ngang vai nó rồi xuống cột sống. Dù cho cái dự án lớn này của Maupertuis có hiệu quả ở khắp nước Anh hay không thì sự tập trung một chỗ của toàn bộ đám ong này rõ ràng sẽ gây nguy hiểm cho bất kỳ ai trong khu vực.

“Hãy nói với mình là chúng ta sẽ không xách những cái tổ này lên boong rồi quăng nó xuống nước”, Matty thì thầm.

“Chúng ta sẽ không xách những cái tổ này lên boong rồi quăng nó xuống nước”, Sherlock khẳng định.

“Vậy chúng ta sẽ làm gì?”

“Mình không chắc nữa”,

“Ý cậu là gì khi trả lời cậu không chắc?”

“Ý mình là, mình chưa nghĩ được tường tận. Mọi thứ ập đến nhanh quá”.

Matty khịt khịt mũi. “Cậu đã có nhiều thời gian để nghĩ trên thuyền đánh cá”.

“Lúc đó mình đang nghĩ chuyện khác”.

“À”, Matty nói, “Mình nhận thấy”. Nó yên lặng một lúc.

“Chúng ta có thể đốt chúng”, nó đưa ra ý kiến.

Sherlock lắc đầu. Hãy nhìn khoảng trống giữa các tổ. Chúng ta có thể đốt một hay hai tổ, nhưng ngọn lửa không lan ra được và bọn ong sẽ đuổi kịp chúng ta”.

Matty nhìn quanh. “Bọn chúng ăn cái gì?” nó hỏi.

“Ý cậu là sao?”

“Chúng ta đang ở Eo biển Anh. Ở đây không có hoa, và mình không nghĩ chúng ăn được rong biển. Vậy bầy ong ăn cái gì?”

Sherlock nghĩ một lúc. “Câu cậu hỏi hay quá. Mình không biết nữa”. Nó nhìn quanh. “Hãy xem xung quanh, may ra chúng ta tìm thấy thứ gì đó. Chia ra tìm, gặp lại nhau ở phía bên kia. Đừng để bị bắt”.

Matty theo hướng trái và Sherlock đi bên phải. Ngoái nhìn lại Sherlock thấy bóng tối âm u đã nuốt chửng Matty.

Những hàng tổ ong mà nó đi ngang qua tạo thành một đồ hình gần như thôi miên. Nó không thấy con ong nào - có lẽ bóng tối đã nhốt bọn chúng lại bên trong tổ - nhưng nó nghĩ là mình có thể nghe tiếng của chúng: cái tiếng vo vo chầm chậm gây buồn ngủ, gần như đến bên rìa sự tỉnh thức của nó. Nó để ý thấy có những khung gỗ được đặt ở những điểm khác nhau trong cái không gian giống như hang động này. Vài cái khung chứa những khay gỗ, những cái còn lại trống không. Sherlock tự hỏi mình đã thấy những cái khay giống như vậy ở đâu. Chúng có cái gì đó trông quen quen.

Một hình thù kỳ lạ xuất hiện trong bóng tối: một người đàn ông trong bộ đồ kín mít bằng vải bạt, đầu được bao trong chiếc mũ trùm bằng vải muslin được giữ cách xa mặt bằng một cái đai bằng tre. Hắn ta cúi xuống một cái thùng lớn - một trong nhiều cái thùng dựng sát phần tường cong bao quanh khoảng không gian. Hắn ta đứng thẳng lên, tay cầm một cái khay giống như những cái được gắn vào các khung giống như giá vẽ rải rác chung quanh, rồi tiến về phía những tổ ong. Một làn bụi mịn dường như bay lên từ cái khay khi Sherlock thấy hắn ta đi khỏi.

Nó đã nhớ ra, ngay khi người đàn ông trong bộ đồ người nuôi ong tiến đến một cái khung và đẩy cái khay vào khe. Nó đã nhìn thấy người nuôi ong này mặc bộ đồ này ở căn nhà trang viên của Nam tước Maupertuis ở ngay ngoại vi Farnharm, rút ra những cái khay tương tự từ bên dưới tổ ong. Rồi bất chợt mọi thứ khớp với nhau - những cái khay, làn bụi bốc lên từ khay, những viên đá lạnh mà nó thấy gã Denny dỡ từ chiếc tàu ở Farnham xuống và câu hỏi của Matty về chuyện lũ ong ở đây ăn gì khi không có hoa. Tất cả hợp lý đến mức hoàn hảo! Những con ong hút mật từ hoa, giữ chúng trên những sợi lông nhỏ ở chân cho đến khi chúng về tổ và dùng mật làm thức ăn. Đặt khay bên dưới tổ ong, rồi chế ra một loại “cửa” mà ong phải đi qua để vào tổ, rồi chải phấn hoa từ chân chúng rớt vào trong những cái khay được đặt ở vị trí đặc biệt. Khi đặt những khay đó lên đá lạnh người ta sẽ trữ được phấn hoa để dùng khi cần thiết - ví dụ như khi bọn ong ở những nơi không có hoa. Đặt những cái khay rải rác chung quanh, và bọn ong sẽ thu được phấn hoa từ đó, mà thậm chí không nhận ra đây là lần thứ hai bọn chúng thu thập loại phấn hoa này.

Khi nhớ về Farnharm, về nhà ga, một ký ức khác bỗng dậy lên trong Sherlock: một điều gì đó Matty đã kể với nó. Điều gì đó về bột. Về những người nướng bánh. Sherlock rà lại mớ ký ức lộn xộn trong đầu nó, cố nhớ lại điều đó.

Đúng rồi. Bột. Bột mì. Matty đã kể về một trận cháy xảy ra ở một lò bánh mà nó đã từng làm việc. Nó đã kể là những thứ bột, như bột mì, rất dễ cháy khi bay trong không khí. Nếu một hạt bột bắt lửa thì nó có thể lan từ nơi này đến nơi khác nhanh hơn tốc độ chạy của một người.

Và nếu bột mì cháy, thì phấn hoa cũng cháy.

“Tao sẽ trả một xu để biết mày đang nghĩ gì”, một giọng nói vang lên sau lưng nó.

Sherlock quay lại, biết là mình sẽ thấy cái gì.

Ông Surd, người hầu tận tụy của Nam tước Maupertuis, đang đứng trong bóng tối. Phần dây da của cái roi từ tay hắn tràn ra và uốn quanh bàn chân hắn.

“Đừng ngại”, Surd nói, tiến đến Sherlock. “Nếu Nam tước muốn biết cái gì ở trong đầu mày, tao sẽ đưa cho ông ấy cái đầu của mày và ông ấy có thể tự lấy nó ra”.