← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 4

Sherlock cảm thấy lạnh sống lưng. Những kẻ này đang sắp thủ tiêu cậu, như kiểu quăng đi một bịch vỏ khoai tây vậy! Cậu đảo mắt nhìn hai gã đàn ông, nghĩ cách nào đó để thoát thân, nhưng tên Ives đang đứng chắn ngay cửa và tên đầu hói thấp lùn lại đang đứng giữa Sherlock và cửa sổ. Và ngay cả khi cậu xoay xở thoát ra được bằng đường cửa sổ, cậu sẽ đi đâu được cơ chứ? Chúng chắc chắn sẽ chạy theo, dồn cậu vào một góc, đẩy cậu xuống, bắn bỏ hoặc chỉ việc đứng nhìn cậu ngã.

“Tôi xin các ông đấy, tôi không thấy gì cả,” cậu rên rỉ, cố gắng câu giờ.

“Đừng giả bộ ngây thơ với tao, thằng nhóc con,” Ives gầm gừ. Gã di chuyển ra hướng hành lang và ra hiệu để Sherlock đi theo. “Hướng này, nhanh lên.” Sherlock liếc nhìn tên lùn và hói - người mà cậu cho là có chút trình độ về y học, vì cứ mỗi khi có chuyện gì đụng đến vết thương hoặc bất thường về sức khỏe là Ives lại hỏi ý kiến gã. “Berle, mày phải chăm sóc cho thằng Booth khỏe và bình thường lại đấy, sau đó đi kiếm Gilfillan và chúng ta sẽ đi. Tao muốn chuồn khỏi chỗ này. Có quá người thấy chỗ này bất thường rồi. Tao dám cá là người bạn của chúng ta rình rập ở đây không phải chỉ vì kiếm trái banh nào đó, mà vì nó bạo gan, hay vì nó muốn quan sát xem chúng ta đang làm gì.”

Sherlock đi ra hướng sảnh. Cậu quay lại nhìn Berle nhưng gã né tránh ánh nhìn chằm chặp của cậu. “Làm ơn, thưa ông, đừng để ông ấy làm hại tôi,” Sherlock khẩn khoản, nhưng Berle lơ đi và quay lại với tên John Wilkes Booth đang bất tỉnh. “Xin lỗi, nhóc,” gã ta thì thào, “có quá nhiều mối đe dọa ở đây rồi. Nếu Ives nói mày phải chết, thì mày phải chết. Tao không muốn dính vô.”

Berle bất giác ngập ngừng khi nhìn vật gì đó trên tủ quần áo.

“Vậy cái này thì sao?” gã hỏi Ives.

“Cái gì?”

Berle với tay nhấc cái hũ lên. Cái hũ bằng thủy tinh, miệng hũ được bọc bằng một miếng vải mỏng có dây buộc chặt. Từ chỗ đứng của mình, Sherlock có thể thấy được cả những lỗ nhỏ bị chọt thủng bằng dao trên mặt vải. Kiểu như đồ chơi của những đứa trẻ khi chúng bắt bướm hay bọ bỏ vào và giữ cho chúng sống - miếng vải phủ lại để không cho những con côn trùng bay thoát và các lỗ thủng là để cho chúng thở - nhưng cậu lại không thấy bất cứ con côn trùng nào bên trong. Thứ duy nhất trong hũ là một nhúm gì đó màu đỏ óng, như một mẩu gan hay một cục máu thật to.

Ives liếc nhìn hậm hực. “Đem nó theo,” gã nói. “Ông chủ muốn nó. Ông ta cần nó như cần tên Booth đến đây vậy.”

Berle lắc cái hũ đầy ngờ vực. “Mày có chắc là nó còn sống không đó?”

“Tốt hơn hết là nó còn sống. Ông chủ nổi tiếng là không giữ được kiên nhẫn khi bị làm thất vọng đâu, chuyện này ở Borneo ai cũng biết rồi.” Khuôn mặt gã đột nhiên tỏ ra trầm trọng. “Có lần tao nghe nói một tên hầu làm rớt cái bình đựng rượu uýt-xki pha bạc hà xuống hành lang. Ông Duke chỉ nhìn hắn không nói lời nào. Tên kia bắt đầu run như cầy sấy, lui ngay ra sau vườn và đứng ngay bờ sông, vừa run rẩy vừa khóc. Sau đó hắn đi giật lui xuống dưới sông và biến mất, không ai còn thấy gì nữa. Hắn giống như bị thôi miên vậy. Chẳng ai gặp lại hắn nữa. Có lần Duke nói là có cá sấu dưới sông, nhưng tao không biết ông ta nói có thật hay không nữa.”

Berle có vẻ hồ nghi. “Tao lại nghĩ chắc Duke sẽ sử dụng một trong hai con ông ta đang có chứ. Không phải chúng được cho là sát thủ của ông ta sao?”

“Có thể ông ấy chỉ muốn thị uy thôi. Hoặc chúng không đói.” Ives lắc đầu. “Mà chẳng quan trọng gì. Cái hũ đó sẽ theo chúng ta về đến tận nhà.”

Gã đẩy Sherlock đi dọc theo hành lang, xuống cầu thang, tay vẫn lăm lăm khẩu súng.

“Ông sẽ làm gì tôi?” Sherlock hỏi.

“Tao không thể bắn mày được,” Ives ngẫm nghĩ. “Trừ khi mày không cho tao sự lựa chọn nào. Nếu người ta tìm ra xác một thằng nhỏ cùng một trái banh thì lập tức sẽ có một cuộc điều tra. Và ngôi nhà với bốn tên nước ngoài sẽ là mục tiêu điều tra đầu tiên của tụi cảnh sát. Tao cũng có thể chích cho mày một mũi thuốc quá liều của Berle, nhưng mà vậy thì phí quá. Tụi tao cần số thuốc đó để giúp tên Booth vượt qua những cơn điên. Không, tao nghĩ tao sẽ làm mày chết ngạt bằng một miếng vải nhét vào họng vậy. Cách đó sẽ không để lại dấu tích bạo lực rõ ràng nào. Có cái mỏ đá cách đây chỉ mấy dặm. Tao sẽ cho mày vào một cái xe đẩy, phủ bao tải lại và kéo mày ra đó. Ở đó có rất nhiều hố đất để quẳng mày vào. Nếu người ta tìm ra mày thì họ sẽ cho là mày tự té vô và ngã đập đầu chết.”

“Chuyện đó thực sự quan trọng đến thế sao?”

“Chuyện gì quan trọng?”

“Tất cả những gì ông đang làm đó? Ông thật sự thấy việc giết tôi để không ai có thể tìm ra quan trọng thế sao?”

Ives cười to. “Ồ, chuyện người ta phát giác ra chẳng sao cả. Cả thế giới sẽ phát hiện ra đúng lúc thôi, nhưng đó phải là lúc mà tụi tao chọn.”

Sherlock đang đứng trên đầu cầu thang, và Ives thì đang ra dấu để cậu đi xuống tầng trệt. Sherlock lưỡng lự nghe theo. Cậu biết cậu phải kiếm được cách tẩu thoát vào lúc nào đó, nhưng nếu cậu liều lĩnh lúc này thì Ives sẽ bắn ngay và sẽ kiếm cách khác thủ tiêu cái xác để không ai có thể tìm ra. Ngoài việc tạm thời làm gã ta khó chịu, Sherlock dám chắc là chạy bây giờ chẳng được gì cả. Có thể cậu sẽ có cơ hội khi được đưa ra ngoài trời.

Trong lúc đang đi xuống cầu thang, cậu cảm thấy có gì đó dưới giày của mình; vật gì đó đang nằm trên thảm.

Trước khi kịp thấy nó là gì thì Ives đẩy cậu về phía trước. Cậu quay lại đầy tò mò, cũng là lúc kịp nhìn thấy có một sợi dây căng ngang qua từ thành cầu thang đến chân tường.

Cậu đúng là đã đạp ngay lên sợi dây đang nằm trên thảm.

Chân của Ives lúc này đang bị vướng vào sợi dây khi gã đang dợm bước tiếp theo đi xuống. Thân người gã vẫn di chuyển trong khi chân đứng yên, vì kẹt. Mắt gã mở to trông rất khôi hài khi bị chúi ngã về phía trước. Ives đưa tay quơ tựa vào tường và thành cầu thang, tay phải đang cầm súng đập mạnh vào tường trước khi khẩu súng bị rơi văng ra. Sherlock bước né sang một bên khi Ives ngã sõng xoài trước mặt. Gã ngã đập vai vào các bậc cầu thang và lộn nhào dữ dội nhiều vòng liên tiếp đến khi ập người xuống sàn tầng trệt rồi nằm ườn ra trên thảm.

Sherlock nhướng mắt nhìn qua thanh vịn nơi cậu vẫn còn đang đứng lưng chừng ở bậc cầu thang. Ngay bên dưới, trong góc tối của tầng một, cậu nhác thấy khuôn mặt tái xanh của Matty đang nhìn mình chằm chặp. Matty đang cầm một đầu sợi dây. Sherlock nhìn dò theo sợi dây chạy vắt qua tay vịn, qua cả các bậc cầu thang để dính chặt vào một cây đinh bị đóng nham nhở vào giữa một khe hở của rìa chân tường với bức tường. Sợi dây buộc chặt vào đầu cây đinh.

“Cậu may mắn đấy, cây đinh không bị bung ra khi sức nặng của hắn kéo sợi dây đó.” Sherlock quan sát khá bình tĩnh, mặc dù tim cậu đang đập cực nhanh và nặng nề trong lòng ngực.

“Không,” Matty chỉnh lại, “cậu mới là người may mắn khi hắn không kéo tung cây đinh văng đi ấy chứ. Tớ đâu có bị ảnh hưởng gì đâu. Hắn đâu có biết tớ ở đây.”

Sherlock bước xuống tầng một và cúi gập người kiểm tra Ives. Gã này đã bất tỉnh với một vết thương đỏ tím nghiêm trọng ngay trán. Sherlock nhặt ngay khẩu súng lên. Không còn cơ hội khác nào nữa.

Matty tiến tới. “Chuyện gì xảy ra giữa cậu với mấy người khác trong nhà này vậy?” cậu hỏi.

“Ý cậu là sao?”

“Ý là tớ phải cố kéo cậu ra khỏi nguy hiểm đó.” Matty liếc lên tầng trên. “Chuyện gì xảy ra ở trên đó vậy? Tớ thấy thằng cha có khuôn mặt bị phỏng kéo tuột cậu vào nhà, sau đó có hai gã khác phóng xuống từ một chiếc xe ngựa. Việc tiếp theo tớ biết đó là ba người bọn cậu ở trên mái nhà. Tớ thấy có súng, thế là tớ nghĩ tốt hơn là mình nên vào và giải cứu cậu ra.” Cậu lắc lắc đầu. “Với một kẻ thông minh như cậu thì việc giam giữ này hơi lâu đấy. Chẳng lẽ cậu không biết nói gì để thoát ra được sao?”

“Tớ nghĩ,” Sherlock nói, “nhiều khi chính cách tớ nói lại làm tớ dính vào rắc rối đó chứ.” Cậu dừng lại, suy nghĩ. “Cậu lấy sợi dây ở đâu vậy?”

“Dĩ nhiên là trong túi của tớ rồi,” Matty đáp. “Cậu chẳng bao giờ biết được có lúc mình cần dùng sợi dây đâu nhỉ.”

“Thôi nhanh lên,” Sherlock thúc giục. “Chúng ta chuồn ra khỏi đây thôi.”

“Có một tên khác dưới này nè,” Matty chỉ, “nhưng hắn bị hạ gục rồi. Ít nhất là vậy khi tớ đi lên. Chúng ta tốt hơn nên cẩn thận trong trường hợp hắn tỉnh lại đó.”

Hai đứa rón rén đi xuống tầng trệt, ngang qua sảnh tiếp khách nơi Sherlock lần đầu tiên thấy gã đàn ông nằm bất tỉnh - Gilfillan, đó là tên mà Ives gọi hắn - giờ đang nằm trên ghế sô pha và ngáy. Hai đứa lẻn ra hướng cửa chính rồi ra vườn, đi dọc theo con đường dẫn tới nơi Matty đang buộc ngựa.

“Vậy cậu tìm thấy được cái cậu cần biết chưa?” Matty hỏi khi cả hai đã leo lên lưng ngựa.

“Tớ nghĩ là rồi,” Sherlock trả lời đăm chiêu. “Có bốn tên ở trong nhà, và chúng đều là người Mỹ. Ít nhất thì cũng là ba trong bốn chúng - vì tớ chưa nghe được tên kia nói. Một tên có vấn đề về thần kinh, và có một tên là bác sĩ chuyên chăm sóc cho hắn. Hai tên còn lại tớ nghĩ là vệ sĩ bảo vệ tên điên nhằm bảo đảm hắn không chạy thoát mất. Chúng chắc đã để một tên ở lại canh giữ khi hai tên kia đi ra ngoài - chắc mua thức ăn hay đại loại thế - và tên loạn trí tên John Wilkes Booth đã hạ gục gã canh gác. Hắn nghĩ tớ là một phần trong kế hoạch chống lại hắn nên hắn lôi tớ vào nhà.”

“Nhưng mà bọn họ định làm gì trên nước Anh chứ?” Matty hỏi.

“Tớ không biết nữa, chắc có âm mưu gì đó. Đây không đơn giản là nhà nghỉ cho những sát thủ điên loạn đâu.”

“Sát thủ điên loạn hả?”

“Tớ sẽ kể hết cho cậu nghe khi chúng ta về được đến gia trang Holmes nhé.”

Chuyến quay trở lại Farnham mất hơn một giờ đồng hồ và tâm trạng của Sherlock tụt dốc qua từng chặng đường họ đi qua. Làm sao mà cậu có thể giải thích cho Mycroft và Amyus Crowe rằng phi vụ điều tra lặng lẽ này đã mang lại thông tin về bốn người đàn ông trong nhà nhưng cũng đồng thời lại cảnh báo cho chúng biết là đã có người biết chúng đang mưu đồ chuyện gì đó? Nếu trước đó cậu suy nghĩ chín chắn hơn thì đã không bao giờ dám mon men lại gần ngôi nhà rồi.

Xe ngựa của Mycroft vẫn còn đậu bên ngoài trang viên Holmes khi bọn họ về đến nơi.

“Giờ thì,” Matty nói, “chúc may mắn nhé.”

“Chúc may mắn là sao chứ? Cậu không vào với tớ à?”

“Cậu đùa hả? Ông Crowe làm tớ sợ, và anh cậu thì làm tớ phát hoảng. Tớ lại lỉnh về chiếc xuồng thôi. Kể cho tớ vào ngày mai vậy nhé.” Nói rồi cậu ta quay đầu ngựa và phi mất hút.

Hít một hơi thật dài, Sherlock bước vào sảnh, đi băng qua thư viện và gõ cửa.

“Vào đi,” giọng anh trai cậu vang lên.

Mycroft và Amyus Crowe đang ngồi tại bàn đọc sách kê ở một góc thư viện. Trước mặt họ là cả một núi sách bao gồm lịch sử, địa lý, triết học và ba tập bản đồ lớn đang được mở để lộ một hình bản đồ mà theo Sherlock trông giống nước Mỹ.

Mycroft ngước lên, dò xét Sherlock từ đầu tới chân.

“Em mới vừa bị tấn công à,” anh nói, “và không phải do một người đồng tuổi gây ra.”

“Hay cùng đất nước gây ra,” Amyus Crowe cất giọng rền vang.

“Thật ra,” Mycroft tiếp tục, liếc đôi giày của Sherlock, “có đến hai người tấn công em. Một trong hai người bị thiểu năng ở góc độ nào đó.”

“Và cả hai đều trang bị súng lục,” ông Crowe bồi thêm.

“Sao hai người biết được những chuyện này vậy?” Sherlock hỏi, há hốc mồm vì ngạc nhiên.

“Chỉ là chuyện vặt,” Mycroft khoát tay nói. “Giải thích chỉ tổ mất thời gian thôi. Chuyện quan trọng hơn là em đã đi đâu và tại sao em lại bị tấn công như vậy?”

Lưỡng lự một chút rồi Sherlock cũng kể hết cho hai người nghe, lúc kể xong cậu mới nhận ra là mình vẫn còn giữ khẩu súng lục của Ives ngay sau lưng quần. Cậu kéo nó ra đặt lên bàn trước mặt hai người.

“Mẫu súng Colt Army,” ông Crowe quan sát và ôn tồn nói. “Đường kính cỡ bốn-bốn, ổ sáu viên. Mười bốn inch tính từ cò đến cuối nòng. Được sử dụng thay thế mẫu Colt Dragoon như một thứ vũ khí được ưa chuộng nhất của quân đội Hoa Kỳ. Cực kỳ chính xác trong phạm vi một trăm thước.” Rồi ông ta đột nhiên đập tay xuống mặt bàn, làm khẩu súng nẩy lên. “Trời đất quỷ thần ơi, cháu nghĩ là mình đang làm gì vậy hả? Đi tới ngôi nhà đó sao?” ông la to. “Cháu đã báo hiệu cho Booth và đồng bọn của hắn là đang có người để ý đến chúng! Chúng sẽ biến mất trong chớp mắt cho xem.”

Sherlock cố cắn môi trên của mình để ngăn tiếng thốt. “Cháu chỉ muốn quan sát chút thôi,” cuối cùng cậu cũng nói. “Cháu nghĩ cháu có thể giúp.”

“Cháu chẳng những không giúp được gì, mà còn đang gây cản trở đấy,” ông Crowe bùng nổ. “Đây là chuyện của người lớn. Cháu không có kỹ năng hay kiến thức gì để làm việc ấy cho hợp lý cả.”

Trong tâm can Sherlock - đứng ở góc độ vô tư, khách quan - cảm thấy giọng của Amyus Crowe trở nên nặng nề khi ông ấy nổi giận, nhưng phần còn lại trong cậu dường như đổ sụp khi nhận ra rằng cậu đã làm hai trong ba người đàn ông, mà ý kiến của họ ảnh hưởng đến cậu nhất trên đời, thất vọng hoàn toàn. Cậu toan mở miệng nói “Xin lỗi”, nhưng môi lại khô khốc đến nổi không thốt được lời nào.

Biểu hiện trên khuôn mặt của Mycroft lúc này là sự thất vọng hơn là giận dữ. “Về phòng đi Sherlock,” anh nói. “Bọn anh sẽ gọi em khi” - anh liếc sang nhìn ông Crowe - “bọn anh thảo luận trong bình tĩnh hơn. Giờ thì đi đi.”

Cảm giác hai má đỏ bừng vì hổ thẹn, Sherlock xoay người và lặng lẽ bước ra khỏi thư viện.

Căn sảnh trở nên ngột ngạt trong sức nóng của buổi xế chiều. Cậu dừng lại trong giây lát, đầu rũ gục, để mặc cảm giác cạn kiệt bao trùm lấy mình và chờ đến lúc có thể đối mặt với quãng đường leo lên phòng dài dằng dặc của mình. Đầu cậu chợt nhói đau.

“Không còn là đứa trẻ được nuông chìu nữa à?” một giọng nói trong bóng tối vang lên.

Sherlock ngước nhìn lên vừa lúc bà Eglantine lướt ra từ cái hốc bên dưới cầu thang. Bà ta đang mỉm cười thật kinh tởm. Chiếc váy phồng màu đen đung đưa cứng đờ, và tiếng nó cọ xát xuống nền nhà nghe như tiếng thì thầm vọng tới từ xa xa.

“Tôi tự hỏi không biết làm sao mà bà sống sót được trong căn nhà này khi cư xử thô lỗ không chừa một ai như vậy?” cậu hỏi nhẹ nhàng, biết rằng mình cũng chẳng còn gì để mất nữa. Mọi việc xảy ra trong ngày hôm nay quả thật là không còn tệ hơn được nữa. “Tôi mà có quyền thì tôi đã đuổi bà đi từ lâu rồi”

Bà ta có vẻ bất ngờ với phản ứng của cậu. Nụ cười trên mặt vụt tắt. “Cậu không có quyền gì ở đây cả,” bà ta nạt lại. “Ta mới là người có quyền trong ngôi nhà này.”

“Cứ mơ cho tới lúc chú Sherrinford qua đời đi nhé,” Sherlock đáp trả. “Cả chú và thím Anna đều không có con nên quyền sở hữu căn nhà này sẽ thuộc về dòng họ cha tôi. Khi đó bà nhớ bước đi cho cẩn thận nhé, bà Eglantine.”

Trước khi bà ta kịp hở miệng đáp trả, cậu đã đi thẳng một mạch lên phòng mình. Khẽ liếc nhìn xuống tầng một, cậu vẫn có thể thấy dáng bà ta đang đứng chết trân ở đó.

Cậu nằm trên giường, vắt tay qua trán, và chìm đắm trong suy nghĩ. Cậu đã nghĩ cái quái gì không biết nữa? anh Mycroft và ông Crowe đều đã cảnh báo cậu không được nhúng vào rồi. Cậu muốn chứng minh điều gì cơ chứ?

Sau một hồi trôi vào giấc ngủ ngắn, ánh sáng trong phòng đột nhiên thay đổi, cậu cảm giác tay mình rần rần như bị kiến cắn trong tư thế vắt ngang mặt một cách ngờ nghệch. Cậu đứng dậy và chậm rãi đi xuống dưới nhà; mong tìm thứ gì đó lót dạ hơn bao giờ hết. Cậu đột nhiên thấy mình đang đói đến rã cả ruột.

Các người hầu đang dọn bàn cho buổi tối. Mycroft cũng vừa đi ra từ thư viện. Nhưng bóng dáng Amyus Crowe lại chẳng thấy đâu.

Mycroft gật đầu về hướng Sherlock. “Em thấy đỡ hơn chưa?” anh hỏi.

“Chưa hết hẳn ạ. Em đã làm chuyện quá ngu ngốc.”

“Đâu phải lần đầu tiên đâu, và có lẽ cũng không phải lần cuối cùng. Nhưng em phải rút ra được một bài học từ chuyện này. Mắc phải lỗi lầm lần đầu thì có thể bỏ qua. Nhưng các lỗi lầm sau đó sẽ trở nên chán ngắt.”

Một người hầu xuất hiện từ hướng phòng ăn với một cái cồng nhỏ trên tay. “Chúng ta vào chứ?” Mycroft hỏi.

Trong chốc lát hai anh em đã tham gia cùng ông bà Sherrinford và Anna Holmes. Mycroft dành hầu hết thời gian của bữa ăn tối để thảo luận về độ chính xác của bản dịch Cựu Ước từ tiếng Hy Lạp sang tiếng La tinh của Hebrew và Aramaic. Thím Anna chủ yếu hỏi chuyện Sherrinford và Amyus, mà không để ý là họ đang nói chuyện với nhau, bất chấp Mycroft theo phép lịch sự phải quay sang thím thường xuyên để trả lời những câu hỏi liên tục của bà. Sherlock thì từ đầu tới cuối chỉ ăn, và tránh ánh nhìn chằm chặp của bà Eglantine đang tóe ra từ một vị trí gần cửa sổ.

Sau bữa ăn tối, chú thím Sherrinford và Anna cùng tiễn Mycroft ra tận cửa để chào tạm biệt.

“Tiếng Hy Lạp của cháu rất trôi chảy, và tiếng La tinh thì đặc biệt bài bản.” Sherrinford dùng lời tán dương tốt nhất mà ông có thể nghĩ ra. “Và ta rất thích thú được chuyện trò cùng cháu. Kiến thức của cháu về Cựu Ước còn thiếu sót nhưng cháu đã có những suy diễn rất đáng ngạc nhiên như những gì ta vừa nói. Ta sẽ suy nghĩ kỹ gợi ý của cháu về những ngày sơ khai của Giáo hội. Nhớ đến thăm chúng ta thường nhé.”

Thím Anna làm mọi người ngạc nhiên khi đột nhiên bước lên đặt tay lên cánh tay của Mycroft. “Lúc nào nơi này cũng chào đón cháu,” thím nói. “Thím... rất tiếc... rằng sự hiềm khích đã chia rẽ gia đình chúng ta. Thím ước gì mọi việc đã khác đi.”

“Sự tận tâm của thím chính là nguồn động lực giúp mọi người vượt qua được những bất hạnh,” Mycroft đáp nhẹ nhàng. “Và sự bao dung của thím khi rộng mở vòng tay đón Sherlock nhỏ bé về chăm sóc là một hành động cao đẹp cho tất cả mọi người noi theo. Chúng ta nên xóa bỏ mọi bất hòa, chứ không chỉ là sửa chữa nó thím à.” Anh ném một cái nhìn vào bóng tối của sảnh tiếp khách, nơi Sherlock có thể hình dung ra được một dáng người trong bộ váy đen, đang quan sát họ. Mycroft hạ giọng xuống. “Nhưng trong lúc một người nào đó vẫn còn có ảnh hưởng lớn đến ngôi nhà này thì cháu e rằng cháu sẽ không cảm thấy thoải mái theo cách mà thím mong muốn đâu ạ.”

Anna ngoảnh đầu đi. Sherlock nghĩ cậu có thể thấy được đôi mắt đang ngấn lệ của thím. “Chúng ta ở nơi chúng ta đang ở,” bà ta nói một cách khó hiểu. “Và làm điều chúng ta nên làm.”

Mycroft bước lui. “Giờ cháu phải đi đây,” anh nói, “và vô cùng cám ơn sự tốt bụng của thím lần nữa. Cháu xin phép cho Sherlock cùng đi tiễn đến sân ga. Sau đó người đánh xe sẽ đưa em nó về lại nhà.”

“Dĩ nhiên rồi,” ông Sherrinford đáp, khua tay đồng ý.

Khi chiếc xe chạy khỏi khu nhà và ra tới đường lớn, Sherlock quay lại nhìn. Có ba người đang đứng trên bậc thềm - thím, chú và bà Eglantine. Và dù có cố ý hay vô tình đi chăng nữa, bà Eglantine đang đứng trên bậc cao nhất, bóng bà tỏa xuống như nuốt chửng những người dưới mình.

“Anh vẫn muốn nói về chuyện xảy ra hôm nay phải không,” Sherlock đoán, vừa lúc chiếc xe nẩy lên khi chạy qua mấy ổ gà và đá đường.

“Tất nhiên. Chúng ta sẽ ghé qua nhà của ông Crowe. Có rất nhiều chuyện cần phải bàn bạc.”

Chiếc xe ngựa tiếp tục khua lạch cạch băng đi.

Sherlock vẫn còn cảm giác đau ê ẩm trên đầu, chỗ tên Booth đã túm tóc và lôi cậu xềnh xệch vào nhà. Cậu với tay lên và len lén nắm giật một lọn tóc để chắc là nó không bị tróc ra. Cảm giác đau thốn làm cậu chảy cả nước mắt, nhưng lọn tóc vẫn nằm yên tại chỗ. Tạ ơn Chúa.

Mười phút sau chiếc xe từ từ đi chậm lại, Sherlock có thể nhìn thấy được mái nhà tranh hình ổ bánh mì nhô cao sau bụi cây rậm rịt.

“Đi nào,” Mycroft thúc giục khi chiếc xe ngựa dừng lại bên ngoài cánh cổng trên bức tường lát đá. “Ông Crowe đang chờ chúng ta đó.”

Cửa căn nhà đang mở. Mycroft gõ vài tiếng và bước vào trước khi có người trả lời.

Amyus Crowe đang ngồi trên chiếc ghế để cạnh lò sưởi, dáng người cao lớn của ông như nuốt chửng khung ghế bằng gỗ. Ông đang rít xì-gà. “Chào anh Holmes,” ông thản nhiên nói và gật đầu chào.

“Chào ông Crowe,” Mycroft đáp lại. “Cám ơn đã đón tiếp chúng tôi.”

“Mời mọi người cứ tự nhiên ngồi.”

Mycroft chọn cái ghế tốt còn lại trong phòng. Còn Sherlock thì ngồi trên cái ghế đẩu đặt gần lò sưởi trống hoác và lạnh lẽo, vừa quan sát xung quanh. Căn nhà của Amyus vẫn bừa bộn như ngày nào. Một đống thư từ bị đè chặt xuống bệ lò sưởi bằng một con dao, và một chiếc dép đang nằm chỏng chơ bên cạnh lò sưởi chất đầy xì-gà, chỉa xọt vào nhau lộn xộn. Trên tường là một tấm bản đồ được đính chặt bằng đinh ghim với vô số các khoanh tròn, đường thẳng được vẽ lên theo một mô hình ngẫu hứng nào đó. Thậm chí có một vài đường thẳng được kéo dài ra tận ngoài tường.

Sherlock tự hỏi không biết Virginia, con gái của ông Crowe đang ở đâu. Chẳng thấy bóng dáng cô ở đâu trong nhà, và với tính cách mạnh mẽ của cô, cậu càng không nghĩ là cô đang ngoan ngoãn ở trong phòng lúc người lớn đang nói chuyện. Có thể cô đang cưỡi ngựa đi dạo ở đồng cỏ nào đó như thường lệ. Vì cậu cũng không thấy con ngựa Sandia được buộc bên ngoài.

Cậu mỉm cười tủm tỉm. Virgina rất ghét cảnh tù túng. Ở một góc nhìn nào đó, cô giống một động vật hoang dã hơn là một con người.

“Tôi mời anh một cốc rượu sherry nhé?” Ông Crowe hỏi. “Bản thân tôi cũng không chịu nổi loại đó - vị của nó cứ như có con gì chui vào và chết kẹt bên trong vậy - nhưng tôi vẫn giữ lại một chai để tiếp khách.”

“Cám ơn ông, nhưng thôi,” Mycroft trả lời nhẹ nhàng.

“Sherlock không biết uống đâu, và tôi thì chỉ thích uống rượu mạnh một lần trong ngày.” Anh liếc sang Sherlock. “Nước Mỹ vẫn chưa tìm được cách phát triển một thức uống cho riêng mình nhỉ,” anh nói. “Nước Pháp thì có rượu nho và rượu mạnh, nước Ý thì có rượu nho Ý, Đức thì có bia lúa mạch, người Scot thì có rượu whisky, người Anh thì có bia, nhưng những người anh em họ phía bên kia Đại Tây Dương của tôi thì vẫn còn đang mày mò tìm cho họ bản sắc riêng.” Sherlock nghe chừng như Mycroft không hề nói về thức uống tí nào, anh ấy đang ám chỉ điều gì đó, trừu tượng hơn, mà cả đời cậu cũng không thể nào hiểu ra nổi.

“Người Mexico có một thức uống chưng cất từ cây xương rồng,” ông Crowe nói, pha chút hài hước. “Rượu Tequila, họ đặt tên nó là vậy. Có thể chúng tôi sẽ tiếp nhận nó.”

“Xương rồng là gì vậy ạ?” Sherlock hỏi.

“Nó là một loại thực vật thân đặc với lớp bì bên ngoài phủ đầy gai,” ông Crowe đáp. “Nó chịu được sức nóng và mọc trên cát ở những nơi nóng và khô cằn như Texas, Mexico, và California. Lớp vỏ dày bên ngoài giữ cho nước không bị bốc hơi và những gai nhọn giúp nó chống lại sự phàm ăn của bò, ngựa và những con vật khác khi chúng khát nước. Trong cả hai trường hợp, xương rồng là ví dụ điển hình nhất của tạo hóa khi đã tạo ra các sự vật khác nhau cho những môi trường khác nhau, để chúng có thể sống sót tốt nhất có thể. Hoặc nó là bằng chứng cho thấy có một động lực nào đó đã khiến vạn vật thay đổi và phát triển để có thể sống còn tốt nhất trong bất cứ nơi nào chúng được sinh ra, như ngài Charles Darwin đã nói. Như kiểu anh cứ việc cầm lấy tiền và có lựa chọn cho chính mình vậy.”

“Hãy quay lại vấn đề trước mắt của chúng ta, ông đã phát hiện ra được gì chưa?” Mycroft hỏi.

Ông Crowe nhún vai. “Tôi kiếm được ngôi nhà rồi. Nó trống rỗng. Nhìn như thể bọn họ chuồn đi vội vã. Tôi nói chuyện với một người nông dân dọc đường có thấy bọn chúng dọn đi. Ông ta nói có bốn người. Một trông có vẻ buồn ngủ, một đầu quấn đầy băng, còn hai tên còn lại thì cau có như sắp đối mặt với một chặng đường không mấy dễ chịu trước mắt.”

“Vậy là chim đã sổ lồng.” Mycroft suy nghĩ trong chốc lát. “Có bằng chứng nào khác cho thấy tên đang ngủ là John Wilkes Booth không?”

Ông Crowe nhún vai. “Ngoài những gì Sherlock kể lại thì không có gì khác cả. Khuôn mặt đầy sẹo do bỏng của hắn ta là bằng chứng xác thực nhất. Điều cuối cùng mà người ta nghe kể về John Wilkes Booth là khi hắn dính vào một vụ đấu súng với quân đội tại một trang trại ở Virginia. Quân đội đã dò ra được hắn và ra lệnh cho hắn đầu hàng, nhưng hắn đã nã súng chống trả. Có thể lúc đó có một ngọn đèn dầu bị rơi xuống. Tuy nhiên, khi đám lửa được dập tắt thì quân đội phát hiện có một cái xác trong đám hoang tàn. Cái xác bị cháy nặng đến nổi họ không thể xác định chính xác danh tính, nhưng họ vẫn cho rằng đó là Booth. Giờ thì trông như Booth đã thoát được nhưng có một tên đồng lõa nào đó bị kẹt trong đám cháy không kịp thoát thân.” Ông ngừng lại. “Booth lúc nào cũng căng thẳng. Dường như sự tàn ác của những việc hắn đã gây ra, cộng thêm sự trốn thoát khỏi đám cháy, đã làm đầu óc hắn phát rồ. Điều làm tôi chú ý là hắn rõ ràng đang được bảo vệ bởi một tổ chức nào đó và chúng rành rành là cần có hắn. Hắn sẽ chẳng thể cầm đầu được ai nữa, nếu căn cứ theo những điều cậu nhỏ này nói, vậy thì hắn làm được gì cho bọn chúng nhỉ?”

“Hắn chỉ là bù nhìn mà thôi,” Mycroft chỉ ra. “Có thể hắn là phần tử ủng hộ miền Nam nổi tiếng nhất nếu không tính Tướng Lee và Jefferson Davis. Ngay cả khi một nhóm nào đó ủng hộ phe miền Nam còn sót lại ở Mỹ, vẫn còn chút ít ý định lật đổ Tổng thống mới để ủng hộ lý tưởng của mình, thì John Wilkes Booth lúc đó có thể là người lý tưởng nhất được đưa ra để sử dụng cho việc tập hợp lực lượng. Việc họ cần làm là đẩy hắn ra một số địa điểm tụ tập bí mật và tìm mọi cách cho đám đông tưởng là hắn có đủ dũng cảm để lật đổ phe miền Bắc bằng cách ít tốn súng đạn nhất và rồi làm đám đông phát cuồng lên.”

“Đó chính là điều tôi đang lo,” ông Crowe nói, gật gù tán thành. “Việc đầu óc hắn điên loạn cũng không thành vấn đề - chúng chỉ việc thuốc hắn ta đủ để hắn đứng vững trên bục và chúng sẽ ngụy tạo đủ loại diễn văn quanh hắn.” Ông ngừng lại giây lát. “Vai trò của chính quyền Anh Quốc trong chuyện này như thế nào nhỉ?”

“Tôi không thể có phát ngôn gì thay cho chính quyền Anh Quốc được.” Mycroft nói một cách thận trọng, “nhưng tôi có thể thấy rằng Bộ Ngoại giao ủng hộ chính quyền hiện tại, và không thích thấy một cuộc nổi loạn nào của phe miền Nam cả. Nô lệ là một tục lệ đáng ghê tởm và cần được xóa bỏ. Điều đầu tiên mà một Tổng thống phe miền Nam làm là đảo ngược tất cả các thành tựu của Tổng thống Lincoln và người kế nhiệm. Điều đó không thể xảy ra.”

Ông Crowe thở dài. “Chúng đang quay trở lại Mỹ đúng không?”

Mycroft gật đầu.

“Vậy là tôi phải theo chúng rồi.”

“Chúng tôi sẽ gửi điện tín,” Mycroft đề nghị. “Nó sẽ đến bên kia Đại Tây Dương nhanh hơn chúng.”

Ông Crowe lắc đầu. “Chúng ta đâu có biết chúng lên con tàu nào đâu chứ.”

“Chúng ta có thể kiểm tra danh sách kê khai trên tàu.” Mycroft đáp. “Cứ cho là chúng sẽ dùng tên giả để di chuyển đi, nhưng chúng ta vẫn có thể tìm bốn người đàn ông đi cùng nhau, và một trong bọn họ có biểu hiện bệnh rất rõ.”

“Chúng sẽ không đi cùng nhau đâu,” ông Crowe nói chắc nịch. “Chúng sẽ đặt vé riêng biệt đấy, và có khả năng sẽ thuê y tá dịch vụ để chăm sóc Booth. Không, chúng ta đang cố lần tìm ra bốn tên mà mô tả nhận diện rất mơ hồ với những cái tên ta không hề biết.” Đột nhiên ông siết nắm đấm và đập mạnh lên thành ghế đang ngồi, làm Sherlock giật nẩy cả mình. “Tôi là chuyên gia săn người. Tôi phải lùng cho ra chúng. Đơn giản chỉ có thế thôi. Cứ cho là chúng sẽ đến New York và tôi sẽ bắt đầu ở đó.”

“Cháu có thể giúp,” Sherlock nói, tự ngạc nhiên với chính mình. “Cháu là người duy nhất thấy chúng. Cháu có thể đến bến tàu và quan sát xem ai là người xuống thuyền.”

“Chúng ta đâu có biết chúng sẽ xuống ở đâu,” ông Crowe nói rõ.

“Có thể là Southampton, hoặc Liverpool, hoặc Queenstown,” Mycroft nhẹ nhàng tiếp lời. “Một cậu bé thì không thể nào quản hết cả ba cảng, cho dù cậu ấy có thông minh đến đâu đi nữa.”

“Nhưng...” Sherlock định nói nhưng chùn lại. Điều cậu định nói là ông Crowe không thể rời nước Anh được, vì Sherlock chỉ mới bắt đầu hiểu được những bài học của ông. Và nếu ông ta thực sự phải đi, ông không thể dẫn Virgina, con gái của ông, cùng đi được. Sherlock đang nảy sinh một thứ tình cảm với cô bé mà chính cậu cũng không hiểu rõ và cậu muốn xem cảm giác này sẽ đưa đẩy cậu đến đâu, mặc dù chúng làm cậu rất sợ. Nhưng cậu biết là chẳng có lý do nào đủ lớn so với một âm mưu tuy mơ hồ nhưng lại cực kỳ nghiêm trọng, có nguy cơ chống lại sự bền vững của cả một đất nước như thế.

Cuộc sống của cậu dường như sắp bị đảo lộn hoàn toàn.

Một lần nữa.