← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 5

Mycroft và ông Crowe bắt đầu thảo luận về thời gian biểu của tàu bè và các bến cảng tàu đi và đến. Sherlock nhanh chóng cảm thấy chán. Đầu óc cậu vẫn còn đang phân tích vấn đề, cố gắng tìm cho ra một lý do nào đó để thuyết phục ông Amyus và Virginia không phải rời khỏi nước Anh.

“Mọi người vẫn không biết bọn chúng mặt mũi như thế nào cả,” cậu lên tiếng sau vài phút im lặng. “Chú có thể lùng sục chúng, nhưng làm sao chú biết là tìm được chúng rồi? Trong trường hợp nếu chúng giấu gã bị phỏng mặt đi thì chúng chỉ còn ba người mà thôi. Không có dấu hiệu gì đặc biệt về chúng cả, trừ chất giọng, và cháu dám chắc rằng một khi chú đến bến cảng tìm một con tàu đi về hướng nước Mỹ thì sẽ có tá người có chất giọng Mỹ như thế xung quanh.”

“Cháu có thể cung cấp cho chú chi tiết bọn chúng nhìn như thế nào mà,” ông Crowe khẳng định. “Chú đã dạy cháu cách quan sát từng chi tiết nhỏ nhất để phân biệt được khuôn mặt từng người với nhau rồi - ví dụ như dáng dấp đôi tai, kiểu tóc, và đôi mắt. Chúng ta thậm chí còn có thể phác họa được chúng dựa trên mô tả của cháu nữa. Virginia vẽ bằng bút chì rất cừ đấy.”

“Tôi không nghĩ bấy nhiêu đó là đủ đâu.” Mycroft phân vân. “Sự hồi tưởng của một nhân chứng - cho dù quan sát tinh mắt như em trai tôi - cũng có thể nhầm lẫn, và bị ảnh hưởng bởi sự căng thẳng, lo lắng. Đó chính là điều từ lâu tôi đã để tâm tới - đầu óc con người có thể sáng tạo ra những chi tiết và thuyết phục chính nó rằng những điều đó là đúng. Tôi nghi là có rất nhiều người vô tội đã bị tống giam vào nhà tù Anh Quốc chỉ vì dựa trên những hồi tưởng không mấy chắc chắn của một người. Một khi người ta được ra lệnh đi kiếm một người đàn ông có râu quai nón, thì lập tức chúng ta thấy ông nào cũng có râu quai nón. Không, bất cứ điều gì Sherlock nhớ đều chỉ nên tin một nửa mà thôi.”

Sherlock định lên tiếng phản bác rằng cậu có một trí nhớ tuyệt vời về cả bốn tên, nhưng có điều gì đó kiềm cậu lại. Cậu cảm giác rằng cuộc tranh luận này bắt đầu theo hướng có lợi cho cậu và rồi Mycroft và ông Crowe sẽ nhận ra rằng vấn đề này nghiêm trọng hơn là họ tưởng. Cậu không muốn có động thái gì làm ảnh hưởng đến điều đó cả.

Nhưng đồng thời trái tim cậu lại khao khát muốn ngăn cản ông Amyus và Virginia Crowe ra đi, nó mách bảo với cậu rằng điều đó vô cùng quan trọng. Cả Mycroft và ông Crowe đang tỏ ra nghiêm trọng hơn bao giờ hết. Cậu không chắc là mình hiểu được hết sự phức tạp ẩn sau những gì đang xảy ra - bằng cách nào mà bốn gã đàn ông, một gã thì điên loạn rành rành rồi, lại có thể ảnh hưởng đến nền chính trị của cả một đất nước được? - nhưng cậu có thể thấy rõ tâm sự nhỏ nhoi của mình chẳng là gì so với hậu quả trước mắt của rắc rối này.

Đó là một suy nghĩ kỳ lạ của người lớn, và cậu không thích cái kiểu hàm ý ấy tí nào.

“Matty cũng thấy bọn chúng mà,” cậu đột ngột lên tiếng, không kịp cân nhắc suy nghĩ gì.

“Ý em là sao?” Mycroft hỏi, xoay đầu lại nhìn.

“Ý em là Matty cũng thấy mặt gã lôi em vào nhà - cái gã có thể là John Wilkes Booth đó - và sau đó khi giải cứu cho em, cậu ta cũng thấy ít nhất hai trong ba tên còn lại. Một tên thì bất tỉnh rồi - tụi em đều không nhìn rõ hắn. Nếu anh muốn có phác họa về chúng nhưng còn nghi ngờ trí nhớ của em, thì tại sao chúng ta không kêu Matty đến đây? Cả hai đứa em có thể sẽ tạo nên một bức phác họa chính xác hơn - đặc biệt nếu anh hỏi riêng từng đứa hơn là gộp chung lại. Chỉ có cách đó thì tụi em mới không vô tình bị ảnh hưởng từ lời mô tả của đối phương.”

“Thằng bé nói có lý đó,” ông Crowe nói oang oang. “Hai cái đầu tốt hơn một. Có lẽ tôi sẽ nhờ Virginia đi đón cậu bé ấy. Nó biết chiếc xuồng được cột ở đâu.” Ông gật gù. “Bản phác họa mà dựa vào trí nhớ của hai đứa sẽ chính xác hơn nhiều so với việc dựa vào mô tả của một trong hai.”

Mycroft nhìn chằm chặp vào Sherlock, cân nhắc. “Anh hiểu là em không muốn ông Crowe và con gái ông ấy rời đi,” anh thì thào. “Và thế là em đưa ra một gợi ý có vẻ rất khả thi. Em đang suy nghĩ như một người đàn ông thực thụ, chứ không còn là một cậu bé con nữa. Anh rất tự hào về em, Sherlock. Và Cha cũng sẽ cảm thấy như vậy đấy.”

Sherlock quay mặt đi để Mycroft không thể thấy niềm vui đột nhiên ánh lên trong mắt cậu.

Hoàn toàn mù tịt về cuộc chuyện trò của hai anh em, ông Crowe rướn người đứng lên khỏi chiếc ghế chật cứng và di chuyển nặng nề về phía cửa. “Ginnie!” ông vừa la to vừa mở cửa. “Cha có chút việc cần con!” Ông đứng ngay cửa chốc lát để chắc chắn cô bé xuất hiện đi về hướng mình, rồi quay lại đứng sát bên chiếc ghế.

Virginia Crowe xuất hiện nơi cửa chính. Cô khẽ liếc nhìn Sherlock và mỉm cười. Như thường lệ, cậu ngẩn người trước những sắc màu trong trẻo của cô - màu đỏ của mái tóc, màu nâu giòn của làn da, những nốt tàn nhang li ti xung quanh đôi gò má và trên mũi, cùng sắc tím của đôi mắt. Cô làm cho tất thảy các cô gái khác trông như những bức tranh đen trắng.

“Dạ, Cha gọi con?”

“Có việc vặt cho con đây. Cha cần con đi đón Arnatt ở chiếc xuồng của cậu ấy. Nói rằng cha cần hỏi cậu ấy vài câu trong ngày hôm nay. Bảo là không phải cậu gặp rắc rối gì cả, chỉ là cha cần sự giúp đỡ.”

Cô gật đầu. “Cha muốn con đưa cậu ấy về chung trên con Sandia ạ?”

“Cách đó nhanh hơn. Con ngựa có thể chở được cả hai đứa. Cậu ấy cũng nhỏ con thôi.”

“Nhưng mà ngầu lắm đó,” Sherlock lên tiếng bênh vực Matty. “Chú không nghi ngờ gì về điều đó cả,” ông Crowe nói.

Ông quay sang nhìn Virginia. “Đi nhanh, ngay bây giờ đi con.”

Cô bé khẽ liếc nhìn Sherlock, như thể muốn nói điều gì, đại khái như cậu có muốn đi cùng cô không, nhưng cô lại quay người và bước đi. Chỉ ít phút sau Sherlock đã nghe thấy tiếng con ngựa hí vang đón chào Virginia, tiếng dây cương khua lanh canh và tiếng vó ngựa nện trên nền đất cứng xa dần.

Ông Crowe và Mycroft quay lại thảo luận với nhau các cách vượt qua Đại Tây Dương nhanh hơn bốn tên người Mỹ kia. Hầu như tất cả đều phụ thuộc vào chuyện chúng lên con tàu nào và xuất phát từ cảng nào. Có một vài loại tàu chạy nhanh hơn. Sherlock rút ra từ cuộc thảo luận rằng tàu loại mới không chỉ dựa vào gió và buồm để vượt đại dương mà chúng còn được hỗ trợ bởi động cơ hơi nước để lái các bánh xe khổng lồ, như cái guồng nước, với các mái chèo gỗ quanh chu vi. Nhờ động cơ hơi nước, các mái chèo sẽ chuyển động và tác động vào nước, giúp nó di chuyển ngược dòng và đẩy cả con tàu về phía trước, ngay cả khi trời không có gió. Liệu có nơi nào mà loại động cơ máy nước đó không đi tới được, có chuyện gì mà nó không giải quyết được cơ chứ? Không biết rồi sẽ có thêm điều kỳ diệu gì xảy ra, cậu tự hỏi - các loại xe chạy bằng hơi nước tràn ngập các con đường và đưa ta đi từ Anh đến Liverpool chỉ trong vài giờ đồng hồ? Và thậm chí còn xa hơn nữa - có khi nào con người một ngày nào đó chạm được tới mặt trăng nhờ sử dụng cơ chế hoạt động của máy hơi nước không?

Lắc lắc đầu để đẩy những suy nghĩ lạ thường này ra khỏi tâm trí, cậu quay lại lắng nghe Mycroft và Amyus Crowe thảo luận về chính trị, giao thông và cách mạng.

Cuộc nói chuyện cứ tiếp diễn, và Sherlock chỉ nghe lõm bõm. Chính trị thì quá trừu tượng đối với cậu, mặc dù thỉnh thoảng ông Crowe cũng làm cho nó thực tế bằng cách đưa ra những ví dụ về số lượng thương vong ở đâu đó, hoặc bằng cách nào mà một thị trấn bị san bằng để phục vụ cho một ý đồ.

Cuối cùng cậu cũng nghe thấy tiếng vó ngựa đang phi đến. Cậu háo hức bước ngay ra cửa để đón Virginia và Matty.

Nhìn ra bên ngoài, trong ráng chiều, cậu có thể thấy Sandia - con ngựa của Viginia - đang phi nước kiệu trở về. Chấm đen trên lưng nó chắc hẳn phải là Virginia và Matty, và trong chốc lát Sherlock cảm thấy ghen tỵ với sự gần gũi của Matty với cô bé. Dù chỉ là thoáng qua thôi.

Khi con Sandia đến gần hơn thì cái chấm đen trên lưng nó hóa ra chỉ là một người chứ không phải hai. Chỉ có mỗi Virginia khi cô dừng Sandia lại ngay bên cạnh Sherlock. Cặp mắt của cô thật hoang dã, và mái tóc bị gió hất tung rối bồng lên.

“Matty đâu rồi?” Sherlock hỏi.

Cô nhảy xuống lưng ngựa và đẩy cậu qua một bên, chạy bắn vào trong nhà. Sherlock bám theo ngay.

“Chúng bắt Matty đi mất rồi!” cô la lên.

“Ý em là gì?” Mycroft thốt lên, đứng bật dậy khỏi cái bàn.

“Em đến chiếc xuồng và đón cậu ấy đi cùng,” cô nói nhanh. “Tụi em cùng nhau lên ngựa. Khi hai đứa vừa ra đến đường lớn thì có một cái cây bị đốn ngã ngang đường, chắn mất lối đi. Nó hoàn toàn không có ở đó lúc em đi qua, em thề đó. Em tính nhảy qua, nhưng nếu có Matty phía sau nữa thì em sợ là không nhảy được, vì thế em dừng lại để cùng Matty di chuyển cái cây sang một bên. Thế là có hai tên chạy ra từ trong rừng nhắm vào tụi em. Chúng chắc chắn đã phục kích trong một bụi cây nào đó. Một tên đánh Matty ngay vào đầu. Có lẽ cậu ấy bị xỉu ngay tại chỗ, vì cậu không đánh trả lại được tí nào. Một tên khác tấn công em. Hắn cố nắm lấy tóc em nhưng em cắn được vào tay hắn. Hắn giật người lại và thế là em chạy ngay đến con Sandia. Em chỉ kịp nhảy lên lưng nó và tháo chạy. Khi quay lại nhìn thì em thấy bọn chúng đang kéo Matty đi.” Khuôn mặt cô bé trắng bệch và đầy hoảng loạn. “Em đã để cậu ấy ở lại!” cô òa khóc, như thể cô ý thức được những gì mới vừa xảy ra. “Đáng lẽ em phải ở lại và giải cứu cho cậu ấy, hoặc quay lại với cậu ấy mới phải.”

“Nếu con làm thế, thì chắc chắn con cũng đã bị tóm luôn rồi,” ông Crowe khẳng định. Ông lướt nhanh qua căn phòng với tốc độ cực nhanh so với vóc dáng to lớn của mình và kéo cô bé vào lòng. “Tạ ơn Chúa là con đã an toàn.”

“Nhưng Matty thì sao!” Sherlock kêu lên.

“Chúng ta sẽ cứu cậu ấy về,” Mycroft hứa, chống người đứng dậy khỏi ghế. “Rõ ràng là...“

Trước khi anh có thể nói dứt câu thì có tiếng kính vỡ vang lên, và có vật nặng nào bay vèo trong không trung từ hướng cửa sổ vỡ, rớt đánh thịch trên nền nhà. Ông Crowe chạy ngay đến cửa và mở tung ra. Từ bên ngoài, Sherlock có thể nghe thấy tiếng vó ngựa nện rền rã trên đất như thể ai đó đang tháo chạy trên lưng ngựa. Ông Crowe văng tục một cách bản năng. Có những từ mà Sherlock thậm chí chưa bao giờ nghe, mặc dù cậu có thể đoán được nghĩa của chúng.

Sherlock cúi xuống nhặt vật thể mới bị quăng vào từ ngoài cửa sổ. Nó là một cục đá to, cỡ hai nắm tay gộp lại. Có sợi dây cột quanh nó để giữ chặt một miếng giấy rách.

Mycroft lấy cục đá từ tay Sherlock và đặt lên bàn. Anh khéo léo cầm dao cắt sợi dây. “Tốt nhất là nên giữ lại mối thắt,” anh nói với Sherlock, không hề quay đầu lại. “Chúng có thể cho ta manh mối nào đó về kẻ đã thắt chúng. Thủy thủ, chẳng hạn, luôn có một loạt các kiểu thắt nút đặc biệt mà không phải ai cũng biết. Nếu em có thời gian rỗi vài ngày, anh rất muốn em học nghệ thuật thắt dây.”

Đẩy sợi dây sang một bên, dành nghiên cứu sau, anh tháo miếng giấy khỏi cục đá và trải nó phẳng phiu trên mặt bàn.

“Đó là một lời cảnh cáo,” anh nói với ông Crowe. “”Tụi tao đang giữ thằng nhóc của chúng mày. Hãy từ bỏ ý định bắt tụi tao đi. Cũng đừng cố bám theo nữa. Nếu chúng mày để tụi tao yên, thì thằng nhỏ sẽ được thả về trong vòng ba tháng - còn nguyên vẹn. Còn nếu chúng mày vẫn không tha tụi tao thì thằng nhỏ cũng sẽ được trả về - nhưng chỉ từng mảnh, trong suốt nhiều tuần. Chúng mày đã được cảnh cáo rồi đấy.””

Ông Crowe vẫn đang ôm Virginia trong vòng tay của mình. “Rõ ràng là chúng tưởng Matty là con tôi,” ông nói, “có thể vì chúng thấy cậu bé và Ginnie trên cùng một con ngựa. Chúng sẽ sớm nhận ra sự nhầm lẫn ngay khi chúng nghe cậu bé giải thích thôi.”

“Không hẳn thế,” Mycroft chỉ ra. “Chúng không thể biết ông đã ở Anh bao lâu rồi. Thật ra, chúng có thể không hề biết ông là người Mỹ. Tôi nghĩ cậu nhỏ Matthew sẽ an toàn trong thời điểm này. Giờ thì xem cái tờ giấy này cho ta manh mối gì không đã?”

“Quên cái miếng giấy đó đi - chúng ta phải đuổi theo chúng chứ!” Sherlock la to lên.

“Cậu bé nói đúng đó,” ông Crowe to tiếng. “Phải có lúc dành cho phân tích và lúc dành cho hành động. Lúc này phải dành cho điều thứ hai.” Ông đẩy nhẹ Virginia ra. “Con ở lại đây. Cha sẽ đuổi theo bọn chúng.”

“Cháu cũng vậy,” Sherlock mạnh mẽ nói. Khi ông Crowe định mở miệng phản đối thì cậu bồi thêm, “Matty là bạn cháu, cháu đã lôi cậu ấy vào vụ này. Và hơn nữa, hai người có thể hỗ trợ nhau tốt hơn.”

Ông Crowe liếc về phía Mycroft, anh chắc hẳn cũng đã gật đầu trong lặng lẽ, rồi lên tiếng. “Được, chú nhóc - chuẩn bị lên ngựa đi. Chúng ta đi ngay bây giờ.”

Ông Crowe tiến nhanh ra cửa và Sherlock nhanh chóng bám theo.

Bên ngoài, ông Crowe đã lên cương sẵn một con ngựa và đang chuẩn bị con thứ hai cho Sherlock. Cậu chỉ mới vừa leo lên yên thì ông đã phóng nước đại đi.

Sherlock thúc gót chân vào sườn ngựa, con vật lập tức lao đi.

Mặt trời lúc này đang hạ dần xuống đường chân trời, lấp ló sau đám mây mỏng làm Sherlock cứ ngỡ như một quả cầu đỏ phát sáng. Ông Crowe và con ngựa của ông đang phi trước mặt cậu. Cậu cố gắng bám theo. Tiếng vó ngựa nện thình thịch trên con đường đất lan tỏa lên tận xương sống, sự rung lắc liên hồi làm cậu không thể nào hít thở đều được.

Làm sao mà ông Crowe biết đi hướng nào nhỉ, cậu tự hỏi. Sherlock cũng cân nhắc một số giả định về những lối thoát khỏi Farnham, nếu đúng là bọn người kia đang hướng ra bờ biển thì Southampton có lẽ là nơi tốt nhất để chúng rời khỏi nước Mỹ. Nhưng ông Crowe cũng có thể nhầm - bọn chúng cũng có thể sẽ rời đi tại Liverpool, bằng cách đi tàu lửa từ London, điều đó có nghĩa là chúng có thể rời khỏi Farnham bằng rất nhiều hướng khác nhau. Lần đầu tiên Sherlock nhận ra sự phân tích cũng có giới hạn của nó, và việc rút ra được một đáp án sao mà khó vô cùng. Thường thì suy luận phân tích đem lại nhiều lựa chọn, và điều chúng ta phải làm là tìm cách chọn đúng mà thôi. Có thể gọi nó là giác quan, hoặc phỏng đoán, nhưng đó không phải là lý luận khoa học.

Nhà cửa băng băng lướt ngang làm cậu không tài nào nhận ra được. Từ xa Sherlock có thể nhìn thấy một tòa nhà đá nằm trên đồi: có lẽ là Lâu đài Farnham? Gió rít ngang làm tai cậu lạnh cóng bất chấp sức nóng của ban ngày được mặt đất hấp thụ và đang phả ngược lên. Dường như cậu nghe tiếng vọng của vó ngựa, nhưng ở đây không có gì để âm thanh có thể vọng lại được. Cậu ngoảnh lại sau lưng và kinh ngạc thấy Virginia đang rượt theo sau, bám chặt cổ con Sandia. Cô đáp lại cậu bằng một nụ cười. Cậu cười trả lại. Đáng lẽ cậu phải biết rằng không đời nào cô chịu tránh xa phiêu lưu. Cô bé thật sự không giống bất cứ cô gái nào mà cậu từng gặp.

Ba người cưỡi ngựa băng qua những căn nhà nằm theo cụm rải rác khắp ngôi làng nhỏ. Người đi lại lác đác trên đường. Sherlock có thể nghe những tiếng kêu vang lên sau lưng khi họ phóng qua. Trước mắt họ là con đường hoàn toàn vắng vẻ đến khi nó ngoặt đi khuất mất tầm nhìn. Ông Crowe sẽ tiếp tục chạy như thế này đến chừng nào mới nhận ra là họ đã đi lạc nhỉ?

Virginia bắt kịp Sherlock. Cô liếc sang bên đường, ánh mắt ánh lên. Sherlock nghĩ cô bé chắc đang rất thích thú, bất chấp tính cấp bách của nhiệm vụ mà họ đang theo đuổi. Cô yêu thích cưỡi ngựa và đây chính là cơ hội để cô cưỡi như chưa từng có dịp trước đó.

Trên kia, phía trước thân hình đồ sộ của Amyus Crowe và chiếc mũ trắng không biết bằng cách nào vẫn còn nguyên trên đầu ông bất chấp vận tốc mà ông đang cưỡi, Sherlock đột nhiên thấy một chiếc xe ngựa. Nó đang chao đảo dữ dội khi lao đi trên đường, bánh xe ở một bên cứ bật lên mỗi khi quay tròn một vòng. Sherlock nghĩ cậu có thể thấy được sợi dây roi đang vun vút trên tay người đánh xe khi hắn liên tiếp quất vào mông ngựa để chúng chạy nhanh hơn. Matty có trong xe ngựa không nhỉ? Tên đánh xe rõ ràng là đang cố hết sức để đua trên đường. Nếu không có những gã người Mỹ bên trong thì chắc chắn đây phải là một sự trùng hợp quá lớn khi có ai đó cũng tuyệt vọng muốn rời khỏi Farnham đến nỗi bất chấp cả mạng sống của mình để đánh xe kiểu như thế.

Sherlock thúc ngựa chạy nhanh hơn và con vật tuân theo. Khoảng cách giữa Sherlock và ông Crowe được thu hẹp lại, và cậu có thể nhìn chiếc xe ngựa kia rõ hơn. Chiếc xe có bốn bánh, được kéo bằng hai con ngựa, và cả chiếc xe đang lồng lộn nẩy lên khi những bánh xe băng ngang qua những ổ gà trên mặt đường.

Virginia cũng bám sát theo bên trái của Sherlock. Cậu quay sang liếc nhìn cô lần nữa. Răng cô nhe ra trông như đang cười nhưng Sherlock lại nghĩ nó giống như cô đang hằm hè thì đúng hơn.

Sherlock liếc sang phải nhìn cha của Virginia. Ông đang nhìn chằm chặp cái xe trước mặt với đôi mắt tóe lửa làm Sherlock lạnh cả người trong phút chốc. Cậu luôn luôn nghĩ về ông Crowe như một quí ông của lập luận khoa học và các dẫn chứng thực tế đối với ông quan trọng hơn bất cứ thứ gì, nhưng Virginia đã từng nói với cậu rằng cha mình trước kia từng là kẻ săn người ở Mỹ, và thường thì ông không để ai sống sót cả. Sherlock đã tin vào điều đó. Với một người đàn ông có một ánh nhìn như thế thì không có gì mà ông không dám làm trên cuộc đời này.

Ngựa của Crowe đang sủi cả bọt mép khi ông thúc nó dữ dội. Những tia bọt bị cuốn tung theo gió bay ngược lại phía sau cả một quãng xa.

Con đường bắt đầu rẽ phải, và chiếc xe ngựa lao vào khúc cua mà không có dấu hiệu giảm tốc tí nào. Hai bánh xe một bên bị nhấc hổng cả lên không và cả đoàn xe trông như muốn lật nhào và sắp bị những con ngựa kéo trượt trên mặt đường. Nhưng những người ngồi bên trong có lẽ đã lao người hết sang bên trái vì chiếc xe đột nhiên đảo ngược lại và các bánh xe đập trở lại mặt đường.

Sherlock, ông Crowe và Virginia cũng ôm cua, ngựa của họ nghiêng hẳn sang một bên để vó có thể bám chặt lên mặt đường. Phía trước mặt, ngay khi ba người vừa vượt qua được khúc cua thì Sherlock bất ngờ thấy một chiếc xe ngựa khác chạy ngược chiều chiếc xe mà họ đang đuổi theo. Chiếc xe này chất đầy cỏ khô mới cắt. Người đánh xe đang điên cuồng ra dấu để chiếc xe kia tránh đường, nhưng lẽ ra anh phải biết là đã quá muộn khi đúng lúc đó xe của anh chệch sang một bên, lật xuống hào. Chiếc xe ngựa mà họ đang đuổi theo lao qua, suýt va vào phần cuối của thùng xe đang ngã trong gang tấc. Chỉ giây sau là Sherlock, ông Crowe và Virginia cũng phóng qua. Sherlock khẽ liếc lại xem người đánh xe có sao không. Anh ta đang đứng trước thùng xe, khua tay với vẻ tức giận tột độ. Và rồi họ phóng vượt qua, người đánh xe khuất tầm mắt mọi người như thể một tia xẹt của ký ức.

Có gì đó chuyển động bên hông chiếc xe chợt làm Sherlock chú ý. Một tên ló đầu ra ngoài, trên tay lăm lăm thứ gì như một cái cây. Sherlock nghĩ có thể là một tên trong căn nhà ở Godalming nhưng cậu không chắc lắm. Hắn nhắm thứ ấy về hướng ba người, và đột nhiên có một tia lửa lóe lên từ đó.

Hắn đang cầm một khẩu súng trường!

Sherlock không thể biết là viên đạn bay đi đâu. Chiếc xe xốc nảy dữ dội khi nó lao chạy trong đêm đến nỗi tên cầm súng không cách nào nhắm chính xác được, nhưng điều đó không có nghĩa là hắn ta không thể hạ gục được ai hoặc con ngựa nào một cách ngẫu nhiên.

Gã đàn ông nã súng lần nữa, và lần này Sherlock nghĩ là cậu có thể nghe được tiếng rít của nó sượt qua mình: một âm thanh xé tai, như tiếng một con ong vò vẽ đang rít lên giận dữ.

Ông Crowe thúc ngựa phi nhanh, và trong giây lát đã tiến lại gần hơn chiếc xe ngựa. Một tay ông nắm chặt cương ngựa, tay kia lần chỗ thắt lưng. Ông rút ra một khẩu súng ngắn, chĩa về hướng tên đang thò đầu ra ngoài. Crowe nã đạn, tiếng nổ làm tay ông giật nảy lại phía sau và thân người oằn lại trên yên ngựa. Gã đàn ông với khẩu súng trường lập tức thụt vào trong chiếc xe. Sherlock không thể nói được là hắn đã bị thương hay chỉ là thận trọng.

Họ đang đua dọc theo một con sông. Mặt nước sông phản chiếu những tia sáng bạc loang loáng.

Tên cầm khẩu súng trường lại xuất hiện lần nữa, hắn cũng tựa lên thành xe nhưng lần này lại quay mặt ra trước. Hắn chĩa súng về phía trước và bóp cò. Lần nữa, lửa phụt lên như một bông hoa đẹp lạ kỳ trong ánh chạng vạng. Trong giây lát hơi hoang mang, Sherlock nghĩ hắn ta đang bắn vào mấy con ngựa đang kéo xe, nhưng không, hắn bắn lên phía trên đầu chúng! Sherlock nhanh chóng nhận ra hắn đang cố làm cho mấy con ngựa hoảng sợ mà phóng nhanh hơn và mọi việc có vẻ đang diễn ra đúng như thế. Khoảng cách giữa chiếc xe ngựa và những con ngựa đang đuổi theo sau dường như tăng lên nhanh khi chiếc xe tiếp tục lao về phía trước. Chúng không thể giữ vận tốc đó được lâu - vì những con ngựa sẽ sớm kiệt sức - nhưng hắn rõ ràng đã có ý gì khác.

Tên cầm súng biến mất vào bên trong xe lần nữa, nhưng chỉ trong chốc lát. Rồi đột nhiên cánh cửa xe bật mở tung và hắn quăng người ra ngoài. Hắn canh cú nhảy thật đúng lúc và ngã ập vào thảm lau sậy cùng cây cỏ trải dọc theo bờ sông. Ngay lập tức hắn biến mất tăm nhưng Sherlock có thể đuổi theo dấu vết của những mảng sậy bị hắn đạp dập khi cố chạy băng qua.

Ông Crowe kéo ngựa chạy chậm lại, phân vân không biết nên làm gì, rồi lại thúc ngựa chạy tiếp, quyết định đuổi theo chiếc xe ngựa, nhưng Sherlock đã không bỏ qua lúc hắn ngoi lên khỏi đám sậy rậm rạp. Hắn ướt tèm nhẹp và mặt mày bị rạch sướt khắp nơi vì bị lau sậy cứa vào.

Hắn cầm khẩu súng trường trên hai tay, chĩa súng vào ông Crowe đang phi nước đại đến, ngắm cẩn thận và bóp cò.

Ngay lúc phát súng vang lên, ông Crowe vung hai tay lên che mặt và ngã ra sau, rớt xuống khỏi yên ngựa. Ông ngã đập xuống đường, vai phải nện xuống trước, lộn tròn liên tục trên nền đất đến khi nằm bất động như chết. Con ngựa của ông vẫn tiếp tục lao đi, nhưng vì không còn sự thúc giục của ông Crowe, nó bắt đầu chạy chậm lại, sau đó rải bước đều đều và dừng hẳn. Nó đứng đó, nhìn sững theo chiếc xe ngựa đang lao về trước như thể ngạc nhiên tại sao mọi thứ lại khẩn trương như thế để làm gì.

Virginia hét lên, “Cha ơi!” và kéo ngựa dừng gấp lại rồi phóng ra khỏi yên. Cô chạy lao trên đường về phía cha mình, bất chấp gã đàn ông cầm khẩu súng trường đang quan sát cô chăm chú.

Và hắn lại giương súng lên.

Tất cả chỉ diễn ra trong vòng vài giây. Sherlock thúc mạnh hai gót chân vào sườn ngựa. Con vật vọt lên trước.

“Nằm xuống!” cậu hét lên.

Virginia ngoảnh đầu liếc ra sau, thấy bóng cậu đang lao về phía mình, cô lập tức thụp đầu xuống. Khi cô vừa lăn được sang một bên thì cũng là lúc Sherlock giật ngược dây cương lên. Con ngựa của cậu nhảy vọt vượt qua cô bé, bay lên không trung bất chấp sức nặng của nó.

Vó trước của con ngựa đập mạnh xuống nền đất, và trượt đi, đúng lúc tên cầm súng bóp cò lần nữa. Sherlock thậm chí không nghe được tiếng súng. Cậu bị hất bay vọt qua yên và qua cả đầu con ngựa. Trong trí cậu chỉ nghĩ mỗi việc tiếp đất đầy sát thương khi cả người cậu đang lao đập xuống nó. Thời gian như giãn dài ra và cậu tự hỏi không biết là sọ đầu sẽ vỡ trước hay hai chân mình sẽ gãy trước. Nhưng có gì đó mách bảo khiến cậu cuộn tròn người lại, đầu thu vào ngực và vòng hai tay ôm lấy nó trong khi gập gối lại đến tận bụng. Cậu tiếp đất và lăn tròn, cảm giác đá đang xé toạc da thịt bên dưới sườn, lưng và hai chân. Cả thế giới như vụt qua, lộn nhào, lộn tiếp; tối, rồi sáng, rồi lại tối. Cậu không còn biết trời trăng gì nữa.

Sau một hồi dường như vô tận, Sherlock dừng lại. Ngước đầu lên nhìn một cách cẩn trọng, cậu cố xem mình cuối cùng đang ở đâu. Mọi thứ cứ mờ ảo, một phần trong cậu dường như vẫn tiếp tục đảo lộn bất chấp cảm giác của đá sỏi bên dưới hai tay và hai gối cho cậu biết rằng đã dừng hẳn. Bụng quặn thắt, và phải cố lắm cậu mới gắng kìm để không bị nôn thốc ra. Cả người cậu nóng bừng cảm giác bị cào sướt khắp nơi.

Xa xa, chiếc xe đang bắt giữ Matty dần biến mất sau đám mây bụi mờ mịt.

Một bóng người đang phủ lên Sherlock. Cậu ngước lên. Tên cầm khẩu súng trường đang đứng chễm chệ trước mặt. Cậu không chắc lắm, nhưng có lẽ đó là tên đã từng bị John Wilkes Booth đánh ngất. Hai tên còn lại gọi hắn là Gilfillan. Đầu hắn bị quấn đầy băng còn mắt ánh lên vẻ căm hận hung tợn.

“Tụi mày bị gì vậy đồ nhãi nhép?” hắn hỏi, giương cây súng lên. “Tao thề là tụi tao gặp nhiều rắc rối với tụi mày từ hôm qua tới giờ hơn cả những gì mà tụi tao phải đối mặt với cả một đội quân từ lúc chiến tranh kết thúc đấy!”

“Trả bạn tôi lại đây,” Sherlock gầm gừ, gượng chân cố đứng dậy.

“Đúng là những lời rắn rỏi của đứa sẽ không còn được sống trong ít phút nữa đây mà,” hắn nói, cười đắc thắng. “Tụi tao bắt thằng kia để ngăn chúng mày lại, rồi cái thằng đội mũ trắng vẫn cứ đuổi bắt, nhưng mọi thứ diễn ra không như chúng ta tưởng nhỉ. Giờ tao sẽ giết hết tất cả chúng mày, và sẽ tiếp tục kêu thằng Ives giết thằng nhãi còn lại vì giờ tụi tao không còn cần nó nữa.” Hắn buông ngón tay khỏi cò súng và giơ mặt sau của bàn tay cho Sherlock xem. Trên tay hắn có dấu máu, giữa ngón cái và ngón trỏ có dấu vết của hàm răng. “Con bé kia nó đã cắn tao!” hắn kêu lên như không thể tin được.

“Phải lắm,” Sherlock đáp “Tôi cá là ông đã đau lắm,” và tay cậu vung lên từ phía sau, bung ra một nắm đá lượm từ đất. Những hòn đá bay lên không trung mờ mịt, đập vào má, vào cả trán và mắt trái của Gilfillan. Hắn đưa hai tay lên ôm mặt, làm rớt khẩu súng. Khẩu súng văng ra, nảy một, hai lần trên nền đất. Sherlock lao người đến để chụp lấy, nhưng tên người Mỹ kịp đá nó văng ra xa. Tay hắn chộp lấy tóc của Sherlock và xoắn lại. Sherlock hét lên trong sự giận dữ và đau đớn, chân vung mạnh ra. Đôi giày của cậu đập vào ống quyển của tên Gilfillan, và tóc của cậu ngay lập tức được thả ra. Nhảy ngược trở lại, Sherlock quay lại kiếm khẩu súng trường. Cậu trông thấy nó cùng lúc với tên người Mỹ kia, và cả hai cùng lao vào. Sherlock lao đến trước, tay cậu chụp chặt lấy thân súng và cậu xoay người lăn đi ngay trong khi tên kia rống lên chửi đổng.

Họ đứng đó trong ít giây, thở hồng hộc. Tên người Mỹ đưa tay lên quệt ngang miệng mình.

“Mày không có can đảm đâu,” hắn nói. “Tao sẽ đến lấy khẩu súng, quàng nó quanh cổ mày và tước đoạt sự sống khỏi cái thân gầy trơ xương của mày!”

Hắn tiến đến gần hơn, và Sherlock giương khẩu súng lên cao đầy hăm dọa.

“Không,” cậu la lên.

Gilfillan vẫn bước tới nhoẻn cười và giơ tay ra tính chụp lấy Sherlock.