← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6

Biết rằng mình không còn sự lựa chọn nào khác, Sherlock chĩa nòng súng vào ngực Gilfillan và bóp cò, căng sức để đón nhận kết quả sắp xảy ra.

Chẳng có gì xảy ra cả. Khẩu súng bị điếc tịt.

Gilfillan cười đắc thắng. “Bị kẹt đạn hử. Đáng lẽ tao phải xem nó là loại cũ xì mới đúng. Một hạt bụi cũng làm nó tắt tịt thế đấy”. Hắn thò tay vào túi quần và kéo ra một vật gì đó nhỏ và đen. Hắn phất tay và lập tức một mũi dao bật ra, cong nhọn đầy sát khí. “Không phải dao đâu nhóc ạ. Dao thì xài lúc nào cũng được. Nhưng thứ này tuy chậm thua súng trường, nhưng bảo đảm vui hơn nhiều.”

Hắn bước lên trước và vung con dao hai bên, nhắm vào đôi mắt của Sherlock. Cậu nhảy né ra sau, cảm nhận được luồng gió lạnh theo tiếng vun vút của lưỡi dao khi nó sượt qua lông mi của mình. Những tia nắng cuối cùng của mặt trời phản chiếu lại trên lưỡi dao sắc bóng loáng, tạo thành một vệt đỏ trước mắt Sherlock và vẫn còn ánh lên loang loáng mặc dù nó đã được hướng sang chỗ khác.

Gilfillan bước tới, xỉa con dao về phía trước, cố đâm vào bụng Sherlock, nhưng cậu đã kịp dùng nòng khẩu súng trường cản phá. Lực cản làm nó bị hất ngược ra sau, nhưng Gilfillan vẫn lăm lăm tay và văng tục.

“Đúng thế,” hắn gầm gừ. “Tao sẽ không xem mày ngang hàng nữa đâu. Tao sẽ xẻ thịt mày như làm thịt một súc vật nhóc ạ.”

Hắn vươn tay chụp được vành tai của Sherlock trước khi cậu kịp né ra, kéo lại gần và đưa con dao lên cổ họng của cậu. Một cách bản năng, Sherlock đưa khẩu súng chắn lưỡi dao lại, nhưng khi đưa nòng súng ngang mặt mình cậu đột nhiên nảy ra một ý và tống mạnh nó lên mắt phải của Gilfillan.

Tên người Mỹ gào lên và loạng choạng lùi lại, ôm lấy mặt. Máu tuôn ra giữa những ngón tay của hắn. Sherlock tin chắc là hắn sẽ ngã nhoài xuống đất bất lực, nhưng con mắt còn nguyên của hắn vẫn dán chặt vào Sherlock và tên người Mỹ hét lên lần nữa, một tiếng gào giận dữ tột cùng vang dội cả khu rừng, làm những con chim đang đậu trên cây bay tán loạn. Nhào người về phía trước, hắn hướng con dao về phía Sherlock. Vẫn còn lăm lăm khẩu súng trong tay, Sherlock vung nó đánh mạnh vào đầu đối phương. Với tất cả sức lực của tay và vai, cú đánh của Sherlock đập ngay vào dải băng quấn đầu của hắn, một đòn chí mạng. Tên người Mỹ ngã xuống, mềm nhũn như một bịch bắp bị ném oạch xuống đất.

Sherlock đứng quan sát đối phương ít phút, bán tín bán nghi rằng gã này có thể sẽ bò dậy và tiếp tục trận đánh, nhưng Gilfillan vẫn cứ nằm xoãi ra bất động trừ phần ngực vẫn còn nhấp nhô hít thở. Mắt phải của hắn, theo như Sherlock thấy, là một cục bầy hầy đầy thịt và máu, miếng băng quấn đầu của hắn bắt đầu thấm đẫm máu rịn ra từ vết thương đang sưng phồng lên ở bên dưới.

Tên người Mỹ này như có sức mạnh siêu nhiên nào đó, cứ trơ trơ với sự đau đớn và thương tích mà không phải người bình thường nào cũng có thể chịu nổi. Sherlock cảm giác hơi thở của mình như đang thiêu như đốt trong lồng ngực khi đứng đợi Gilfillan gượng dậy. Tên người Mỹ nào cũng như vậy sao nhỉ, cậu tự hỏi. Đây có phải là tinh thần chiến đấu quên mình mà cậu đã từng được nghe nhiều lần không? Cậu nửa muốn bước tới, chĩa mũi súng vào đầu gã đàn ông đó để chắn chắn là hắn ta không thể nhúc nhích được nữa. Nhưng nữa khác lại phân vân không chắc mình đang lo tên Gilfillan sẽ tỉnh dậy hay đang muốn trả thù cho những điều hắn đã gây ra cho Amyus Crowe và bản thân. Sau một lúc thì cậu hạ thấp họng súng xuống. Cậu không phải là một sát thủ. Ít nhất thì cũng không phải là kẻ cố ý giết người.

Khi đã chắn chắn rằng Gilfillan không thể nhúc nhích được nữa, cậu mới bỏ đi, nhưng vẫn ngó chừng, đến khi nghe được tiếng ngựa của ông Amyus Crow đang hí phía sau lưng, cậu mới thật sự quay lưng đi.

Amyus Crowe đang nằm trên nền đất đầy bụi. Trong ánh chiều tà đỏ rực, vết máu tuôn ra trên đầu ông ánh lên loang loáng.

“Ông ấy...?” Cậu mở miệng hỏi, nhưng không cách nào bật lên thành lời.

“Cha mình vẫn còn thở,” Virginia đáp vẻ hụt hơi. Giọng lơ lớ của cô nghe càng rõ rệt hơn.

Cô thọc tay vào túi và kéo ra một miếng vải - đó là một chiếc khăn tay, Sherlock nghĩ vậy. Cô tính dùng để lau đầu cho cha nhưng Sherlock đã đưa tay cầm lấy nó.

“Để mình xuống dưới sông nhúng ướt đã,” cậu nói.

Cô bé gật đầu vẻ biết ơn.

Cậu phóng người chạy đến nơi mà tên người Mỹ đang nằm bất tỉnh đã từng đạp dạt cỏ sậy để tháo chạy trước khi bắn vào Amyus Crowe. Cố bước ra tận mép sông, Sherlock nhúng ướt chiếc khăn rồi quay trở lại nơi Amyus Crowe đang nằm. Virginia đã kéo tay và chân của ông thẳng ra để cha mình dễ chịu hơn, chứ không co rúm lại như lúc vừa rớt xuống. Khi Sherlock cúi xuống cùng với cô bé để chăm sóc ông, cậu thấy ngực ông đang nhấp nhô hít thở và mí mắt khẽ động đậy. Thời gian như dài vô tận từ lúc ông Crowe ngã ngựa, nhưng Sherlock nhận ra rằng cũng mới chỉ chục giây thôi, một phút là hết mức. Cuộc chạm trán với Gilfillan không lâu lắm nhưng sự căng thẳng tột độ làm nó có vẻ dài ra.

Virginia đang nắn tay chân cho cha. “Hiện tại thì chưa phát hiện ra cái xương nào bị gãy hết,” cô nói. “Không biết xương sườn như thế nào nữa, nhưng mình sẽ ngạc nhiên nếu nó không bị gãy vài cái đó. Trời ạ, người cha bị trầy xước, bầm dập hết cả rồi.”

“Ông ấy thật may mắn,” Sherlock khẳng định. “Chỗ này sát bên sông nên đất khá mềm và nhiều bùn. Nếu ông ngã ngựa sớm hơn, ngay chỗ đất cứng, thì chắc giờ này ông chết mất rồi.”

Virginia lấy chiếc khăn tay từ tay cậu và lau trán cho ông Crowe. Vết máu bị chùi đi để lộ ra một vết thương dài đang rỉ máu lại.

“Mình nghĩ viên đạn sượt ngay chỗ đó,” cô nói.

“Lần này lại gặp may nữa đó. Chỉ cần thêm vài phân sang bên trái thôi là nó xuyên ngay thái dương của ông ấy rồi.” Sherlock hít một hơi thật dài và cố gắng kìm không để đôi tay run rẩy nữa. “Chúng ta nên kiếm một bác sĩ thôi.”

Virginia lắc đầu. “Chúng ta nên đưa cha quay về nhà. Mình có thể chăm sóc ông ở đó. Miễn sao không có cái xương nào bị gãy, cha chỉ cần nghỉ ngơi thôi.” Cô thở dài. “Mình có cảm giác cha mình đã từng bị tệ hơn thế này nữa mà vẫn sống sót.” Cô khẽ liếc nhìn Sherlock rồi quay đi, nhưng rồi nhìn trở lại, chú ý thấy cậu bị sưng tấy, trầy xước, bầm tím khắp nơi. “Cậu ổn không?” cô hỏi.

“Lúc chơi bóng bầu dục mình còn bị thê thảm hơn thế này nhiều,” cậu đáp.

Cô nhíu mày, rồi lắc đầu.

“Cái trò đó mình không thích tí nào và chơi cũng dở nữa. Ý là mình không sao đâu.”

“Cậu bắt được hắn chưa?” cô hỏi, không khỏi giận dữ.

“Đã ngăn hắn lại rồi,” Sherlock trả lời, “nhưng mình nghĩ cha cậu và anh Mycroft sẽ muốn nói chuyện với hắn nên không đánh hắn tệ lắm. Mặc dù mình có thể cho hắn tiêu tùng luôn rồi.”

“Đáng lẽ cậu nên làm thế mới phải,” cô nói giọng đằng đằng sát khí.

Chợt nghĩ đến những vết thương ở đầu, Sherlock hỏi: “Có khi nào cha cậu bị hôn mê không nhỉ? Viên đạn làm bị thương vùng đầu và ông ấy ngã đập đầu xuống nền đất cũng nên.”

Virginia nhìn xoáy vào cậu. Cô có vẻ hoang mang và đầy giận dữ, nhưng đôi mắt lại ánh lên ý nghĩa khác. Chúng đang tuyệt vọng.

“Chúng ta phải chăm sóc ông cẩn thận,” cô nói. “Phải kiểm tra xem có triệu chứng gì của chóng mặt, mệt mỏi, buồn nôn hay lú lẫn gì hay không.”

“Ta đã biết hết tất cả những thứ đó rồi,” ông Crowe cất giọng nói, mệt mỏi nhưng mạch lạc. “Không thể nói là ta thích chúng nhưng chúng là do ta tự gây ra. Lần này thì không phải tại ta.”

“Cha ơi!”

Mắt vẫn nhắm nghiền, ông vươn tay ra và vụng về vỗ vỗ lên vai cô bé. “Ta lăn tròn khi đập vào đất. Một người huấn luyện thú ở Albuquerque đã dạy cho ta chiêu đó. Nếu cơ thể ta thả lỏng hết tất cả các cơ và có thể cuộn tròn như một con nhím thì chúng ta vẫn có thể sống sót sau cú ngã tệ hơn thế nữa.” Ông ngừng laị, nhắm mắt trong giây lát và bắt đầu hít thở chậm chạp. “Chuyện gì xảy ra với chiếc xe rồi?”

“Chúng thoát mất rồi ạ,” Sherlock trả lời đầy giận dữ. “Đem theo cả Matty.”

“Còn tên ở lại và bắn ta đâu rồi?”

“Còn sống nhưng bất tỉnh. Cháu nghĩ là chúng ta có thể đem hắn về và chất vấn.”

“Đương nhiên rồi,” ông Crowe sầm mặt trả lời, “Ta nghĩ là chúng ta phải làm thế.”

Sherlock suy nghĩ nhanh. “Cháu có thể trói hắn lại,” cậu nói. “Sau đó chúng ta có thể vắt hắn ngang lưng con ngựa của cháu. Nếu chú có thể tự cưỡi được thì Virginia sẽ cưỡi con Sandia và cháu đi bộ.”

“Chúng ta cần phải đi thật nhanh,” Virginia nói. Vì lý do gì đó mà cô bỗng nhiên đỏ lựng hai má, và không nhìn Sherlock khi nói. “Đi bộ thì lâu lắm. Cậu có thể cưỡi chung với mình.”

“Cậu chắc chứ?” Sherlock hỏi.

“Đừng từ chối cơ hội ngàn vàng như vậy chứ,” ông Crowe nói, cười thích thú. “Sự sắp xếp rất hay nhưng cháu định cột hắn lại bằng gì nào?”

Sherlock suy nghĩ giây lát. Họ không mang theo sợi dây thừng nào cả. Cậu có thể dùng cái dây cương của con ngựa, nhưng làm sao chắc được là nó sẽ cố định khi họ phóng ngựa đi? Liệu cậu có nên tết ít dây từ đám lau sậy dọc bờ sông không nhỉ? Vậy thì ướt quá, và lại mất thời gian. “Dây nịt của cháu,” cuối cùng cậu nói. “Cháu có thể cột tay hắn ra phía sau bằng sợi dây nịt này.”

Ông Crowe gật đầu. “Nghe có vẻ tốt đó,” ông nói. “Hoặc cháu có thể dùng sợi dây bện trong túi của chú.” Ông ngước lên nhìn Sherlock. “Có những thứ mà một người đàn ông luôn nên mang theo khi đi ra ngoài - một con dao, que diêm và một cuộn dây bện. Có rất nhiều điều chúng ta không thể làm nếu thiếu sự phối hợp của cả ba thứ dao, que diêm và dây bện đấy.”

Sherlock lấy sợi dây từ ông Crowe và thận trọng quay ngược lại góc đường nơi tên Gilfillan nằm. Trời hầu như đã tối hẳn, và trong giây lát hoảng loạn Sherlock không thể xác định được vị trí chính xác trong bóng tối, nhưng cuối cùng cậu cũng tìm ra nơi tên người Mỹ đang nằm. Cậu cột tay hắn ta lại, hai cổ tay chéo lên nhau, sau đó đi ngược lại nơi con ngựa của mình đang thản nhiên nhai cỏ bên vệ sông như thể chẳng có gì xảy ra. Dẫn chú ngựa quay trở lại, cậu để nó đứng bên cạnh và cúi xuống, cố gắng xoay xở đưa Gilfillan lên trên lưng ngựa. Cuối cùng cậu cũng vắt được tên này lên hai đầu gối của mình, Gilfillan vẫn bất tỉnh, rồi luồn người xuống, đỡ hắn trên lưng. Đứng thẳng lên, đẩy mạnh hai đầu gối, cậu cảm giác các cơ trên người đang căng lên hết mức, đầu dúi về phía trước vì sức nặng thân hình của Gilfillan đang đè ngang vai. Trong chốc lát cậu hơi lúng túng, không chắc là mình có thể đưa hắn lên được lưng ngựa hay không, nhưng ngay lúc ấy Amyus Crowe đã đứng lên được và Virginia có thể chạy lại giúp cậu một tay. Cả hai cùng đưa được Gilfillan vắt ngang lên yên ngựa. Để hắn không bị trượt xuống, Sherlock cột hai cổ tay hắn vào bàn đạp một bên và hai mắt cá vào bàn đạp phía bên kia.

Mọi thứ thế là xong, cậu lui lại, ngưỡng mộ chính thành quả lao động của mình.

“Mình tính hỏi nhiều lần,” Virginia nói từ phía sau, “rốt cuộc cậu định đặt tên con ngựa của cậu là gì vậy?”

“Mình chưa có cái tên nào cả,” Sherlock trả lời.

Cô bé có vẻ ngạc nhiên. “Tại sao?”

“Mình thấy không cần thiết. Ngựa đâu có biết chúng cần có tên đâu.”

“Sandia biết tên của nó đó chứ.”

“Không, nó chỉ biết giọng của cậu thôi. Mình không nghĩ là nó hiểu được chữ đâu.”

“Một đứa trẻ dù biết quá nhiều,” cô nói gay gắt, “nhưng không có nghĩa là gì cũng biết.”

Bốn người bọn họ tạo thành một đội hình nhìn rất thê thảm khi quay trở về ngôi nhà của ông Crowe - ông Crowe cúi rạp trên lưng ngựa, Virginia cưỡi con Sandia cùng với Sherlock ngồi phía sau và tiếp đến là con ngựa của cậu với Gilfillan vắt vẻo trên lưng. Chuyến đi về kéo dài như vô tận. Sự mệt mỏi bao trùm Sherlock như một tấm chăn dày nặng nề. Những vết trầy xước trên người cậu ngứa ngáy, và điều duy nhất cậu muốn làm là cuộn người trên giường ngủ một giấc thật đã.

Trời đã rất khuya khi họ đến nơi, và Mycroft đang đứng chờ ngay cửa.

“Sherlock!” anh gọi to, “Anh đã... “Anh dừng lại. Sherlock nghe giọng anh có vẻ cao hơn bình thường. Anh đang kìm chế những cảm xúc vui mừng đang dâng trào.

“Ổn hết rồi anh à,” Sherlock nói trong mệt mỏi. “Tụi em ai cũng ổn. Ý em là ông Crowe bị bắn, tụi em bắt được một tên và không thể đem Matty về được, nhưng ai cũng còn sống sót.”

“Anh không có cách nào biết được chuyện gì đã xảy ra cả,” Mycroft thốt lên trong khi Sherlock tuột xuống khỏi lưng con Sandia. “Có rất nhiều giả thuyết được đưa ra nhưng anh lại không chắc cái nào có khả năng xảy ra nhất.”

“Không phải giờ anh đã ở trên tàu rồi sao?” Sherlock hỏi.

Mycroft nhún vai. “Nếu cần anh có thể kiếm một phòng khách sạn tiện nghi để tá túc qua đêm.”

“Vậy sếp của anh có khó chịu không nếu anh không đi làm vào sáng mai?”

Mycroft nhíu mày như thể khái niệm “sếp” là một từ kỳ lạ. “Có chứ,” anh nói, cố gắng thốt nên lời. “Anh nghĩ chắc là có đó.” Anh tươi tỉnh lại. “Những gì xảy ra ở đây có thể sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các mối quan hệ quốc tế, và vì vậy mà nó nằm dưới phạm vi công việc của anh. Tuy nhiên, nếu cần anh luôn có thể yêu cầu một chuyến xe lửa đặc biệt đưa anh quay lại London trong đêm.”

Sherlock nhìn anh mình chằm chặp, mắt mở to. “Anh có thể làm vậy sao?”

“Anh chưa bao giờ phải làm như thế từ trước đến nay nhưng anh tin là anh có thể cho phép mình có những giải pháp ngoại lệ. Nào, giờ thì kể cho anh nghe hết mọi thứ đi.”

Sau khi cậu và Virginia giúp ông Amyus Crowe xuống ngựa, bốn người cùng vào trong, mặc kệ tên người Mỹ vẫn đang bất tỉnh và bị cột vào lưng ngựa. Sherlock kể cho anh trai mình nghe tất cả những sự việc đã xảy ra kể từ lúc họ rời căn lều. Virginia phụ thêm một vài chi tiết cậu đã bỏ sót, và khi kể đến trận đánh nhau với tên người Mỹ, cậu nhận thấy bàn tay của Virginia đang đặt nhẹ trên tay mình đầy quan tâm. Mycroft nhăn mặt xót xa khi biết được Sherlock đã suýt mất mạng mấy lần trong cuộc giao chiến này.

“Chúng ta vẫn không thể chắc được hành động như thế nào là tốt nhất,” cuối cùng Mycroft nói, khi tất cả mọi người đã an vị trên ghế ngồi với nước uống để trước mặt. “Cho tới khi hắn tỉnh dậy, chúng ta buộc phải tận dụng tất cả những thông tin có được. Chúng ta không còn thời gian và điều kiện nữa.”

“Tôi có thể làm hắn tỉnh dậy,” ông Crowe nói thì thào. “Và có thể nói chuyện nhẹ nhàng với hắn. Theo cách văn minh.”

“Cách tra khảo bằng vũ lực không phải là một lựa chọn tốt,” Mycroft cảnh báo. “Hắn là tội phạm xuyên hai quốc gia, nhưng hắn có quyền được đối xử theo cách văn minh nhất đến khi thật sự bị tuyên có tội, và ngay cả trong trường hợp đó hắn cũng không phải là thứ đáng bị đối xử thô bạo theo mệnh lệnh của kẻ có quyền. Với tư cách là một đất nước cổ xưa nhất và một đất nước văn minh nhất, Anh Quốc và Hoa Kỳ có trách nhiệm làm gương cho tất cả thế giới. Nếu chúng ta hành xử một cách man rợ thì chúng ta không có quyền ngăn chặn những kẻ khác hành động một cách dã man được, và lúc đó cả thể giới sẽ bị trôi tuột vào tình trạng hỗn loạn.”

“Ngay cả khi sự lịch sự đó dẫn đến cái chết của một người mà chúng ta đang bảo vệ à?” ông Crowe hỏi lại.

“Đúng vậy,” Mycroft đáp. “Chúng ta phải duy trì nền tảng đạo lý đó, cho dù rất nhiều khó khăn đang cố kéo chúng ta xuống vực sâu của bất công và trái với luân thường đạo lý”

“Em có ý này,” Sherlock thốt lên, ngạc nhiên với chính mình. Đó là sự thật, khi trong đầu cậu đang có thứ gì đó xoay tròn như thể một viên bi đang quay trong một cái khay, nhưng cậu vẫn chưa thể giải nghĩa hết được những ẩn ý của nó.

“Em nói đi,” Mycroft thúc giục. “Nếu điều đó ngăn ông Crowe rút những ngón tay của tên bị bắt bằng một cái kìm thì anh hoàn toàn tán thành.”

“Gã đó - tên người Mỹ ấy - đã nhảy ra khỏi chiếc xe ngựa để chặn bọn em lại khi thấy ta có khả năng ngăn xe của chúng đến bến cảng để thoát khỏi nước Anh.”

“Chính xác,” ông Crowe rền rĩ đáp.

“Theo cách hắn nói với em, hắn sẽ gửi điện tín cho đồng bọn là hắn có thành công hay không.”

“Chấp nhận được,” Mycroft nói.

“Và nếu hắn không gửi điện tín, chúng sẽ cho rằng chúng ta đã bắt được hắn,” Sherlock chỉ ra. “Bọn chúng sẽ nghĩ ngay là chúng ta ngăn không cho hắn gửi điện đi và vẫn đang bám theo, trong trường hợp đó giải pháp tốt nhất của chúng là thủ tiêu Matty vì cậu ấy không còn là một con tin hữu ích nữa.”

“Ôi không!” Virginia thì thầm.

“Vậy thì hắn nên gửi điện tín đến đâu?” Sherlock hỏi. “Theo em, bọn chúng sẽ không ở một khách sạn nào đó để chờ hắn đến. Chúng đang hướng thẳng đến một con tàu nào đó, đó là tất cả những gì chúng ta biết.”

Ông Crowe và Mycroft nhìn nhau.

“Thằng bé nói có lý đó,” ông Crowe nói sau một lúc yên lặng. “Chúng cần có một cách nào đó để gửi và nhận điện tín của nhau. Có thể là một nơi định sẵn gần con tàu - một bưu điện chẳng hạn, nơi có thể nhận được thư của hắn.”

“Chúng chắc chắn phải thỏa thuận với nhau chỉ vài giây trước khi hắn nhảy ra khỏi xe,” Sherlock chỉ ra. “Địa điểm nào sẽ là nơi hắn nghĩ tới đầu tiên trong những giây phút căng thẳng đó nhỉ?”

“Trừ khi một trong những tên còn lại viết xuống đưa cho hắn,” Mycroft kết luận. “Sherlock, em thật sự có một đầu óc rất minh mẫn trong những tình huống căng thẳng này. Chúng ta cần phải soát túi của hắn xem có địa chỉ nào không.”

Ông Crowe nâng người đứng dậy khỏi chiếc ghế. “Tôi sẽ đi cho,” ông nói. Thấy Mycroft nhìn có vẻ cảnh giác, ông nói thêm. “Đừng lo - tôi sẽ không cố đánh thức hắn dậy nếu hắn vẫn còn bất tỉnh đâu, và nếu hắn đã tỉnh rồi thì tôi sẽ không làm gì ngoài việc hỏi thăm hắn một câu trước khi sờ soạng túi hắn.” Ông nhướng mày tự chất vấn. “Tôi sẽ xem đó là hành động ăn trộm chấp nhận được, ngay cả khi luật không cho phép chứ?”

“Chúng ta sẽ xem đó là một ngoại lệ,” Mycroft nói một cách bình tĩnh. “Ít nhất trong trường hợp này.”

Amyus đi ra ngoài để khám xét tên Gilfillan. Sherlock để ý thấy Virginia quan sát cha cô rời đi với khuôn mặt hoang mang. Cậu muốn hỏi cô vì sao, nhưng Mycroft ra dấu gọi em trai lại.

“Sherlock...” anh nói nhỏ nhẹ, và hơi ngập ngừng. “Sherlock, anh đã không làm tròn bổn phận chăm sóc em đúng cách. Anh xin lỗi.”

Sherlock nhìn thẳng vào mặt anh trai, cố tìm hiểu xem anh ấy có nói nghiêm túc hay không. “Ý anh là sao?”

“Cha đã nhờ anh chăm sóc em. Ông muốn anh phải đảm bảo cho em học hành đến nơi đến chốn, rằng em được hạnh phúc và an toàn. Vậy mà trong lúc cha đi Ấn Độ công tác anh lại bỏ mặc em cho họ hàng chăm sóc, những người em chưa từng gặp bao giờ và sau đó lại đứng đó nhìn em bị dính vào kế hoạch điên khùng của gã điên người Pháp với những ảo tưởng vĩ đại. Giờ thì lại để em bị lôi vào những nỗ lực quái dị nhằm trả lại cho nước Mỹ tên sát thủ đã giết hại cố Tổng thống. Chỉ trong có vài tháng mà em đã thoát khỏi lưỡi hái tử thần nhiều hơn bất cứ người nào phải đương đầu trong cả một cuộc đời. Em bị đánh ngất, bị bắt cóc, bị đòn roi, bị chuốc thuốc, bị truy đuổi, bị bắn, đốt, và xém bị đâm, đó là chưa kể em phải xoay xở thân cô thế cô để sống sót tại thủ đô London, hay ở một đất nước xa lạ nào đó và thậm chí dưới những con sóng dữ dội của dòng sông trong đêm tối. Nếu anh biết trước được tất cả những sự việc xảy ra với em, anh đã...”

Anh dừng lại, rõ ràng là đang rất xúc động. Anh quay mặt đi. Sherlock nghĩ là cậu đã nhìn thấy ngấn lệ trong đôi mắt của anh. Cậu dịu dàng đặt tay lên đôi vai rộng của Mycroft.

“Mycroft... anh luôn luôn là bức tường thành vững chắc nhất cho cuộc đời em. Em luôn luôn cần anh khuyên bảo, và lúc nào anh cũng sẵn sàng dành thời gian cho em trong quĩ thời gian eo hẹp của mình. Anh không bao giờ làm em có cảm giác em đang làm phiền anh, ngay cả khi anh có rất nhiều việc quan trọng phải làm.”

Mycroft cố gắng nói điều gì đó, nhưng Sherlock vẫn tiếp tục.

“Chúng ta chưa bao giờ là kiểu anh em cùng nhau trèo cây trong vườn. Anh chưa bao giờ có đủ thời gian để làm việc đó và em cũng thấy nó thật vô nghĩa. Nó không là gì cả. Anh là người luôn dìu dắt em, và chưa bao giờ anh làm em thất vọng hết. Em biết điều đó sẽ không bao giờ thay đổi. Anh chính là mẫu người em mong muốn trở thành khi lớn lên - thành công, quan trọng và độc lập. Anh chưa bao giờ và sẽ không bao giờ làm em thất vọng.”

Mycroft nhìn cậu bé, và mỉm cười. “Khi em lớn lên,” anh nói, “anh nghĩ em sẽ tự vạch ra một con đường cho chính em trong thế giới này theo cách chưa ai từng làm được. Anh có thể thấy được lúc anh đến nhờ em giúp đỡ và khuyên bảo, chứ không phải là ngược lại đâu. Nhưng dù em có nói gì đi nữa, anh cũng đã đứng một bên và nhìn em lâm vào nguy hiểm.”

Sherlock lắc đầu. “Em nghĩ là lúc nào cũng sẽ có nguy hiểm, cho dù anh có đi đâu chăng nữa. Anh có thể lơ nó, hoặc cuộn mình trong chăn để nó không làm hại mình hoặc đối đầu với nó và thách thức nó. Nếu anh chọn giải pháp đầu tiên thì nguy hiểm sẽ tấn công anh bất ngờ. Nếu anh chọn cách thứ hai thì cả cuộc đời anh sẽ chỉ biết cuộn mình trong bóng tối, để mặc thế giới trôi tuột qua. Cách có lý duy nhất là đối đầu với nguy hiểm. Mình càng quen thuộc với nó, thì mình càng giải quyết nó tốt hơn.”

Mycroft mỉm cười, và trong chốc lát Sherlock có thể thấy được, đằng sau những thớ thịt tạo nên cơ thể người lớn của anh trai cậu, là bóng dáng một cậu bé mà cậu đã từng thấy. “Anh chỉ thu thập thông tin và tích lũy chúng mà thôi,” anh nói dịu dàng. “Nhưng em - em mới là người phát triển chúng. Rồi có ngày tất cả mọi người trên thế giới này sẽ biết đến tên em.”

“Ngoài ra,” Sherlock nói, cố làm tâm trạng phấn chấn lên, “thời gian qua em đã có quãng đời thật đáng sống. Nếu trước đây có ai nói với em rằng cuối mùa này em đã biết cưỡi ngựa, đánh quyền Anh, dong buồm vượt kênh và đánh nhau tay đôi, chắc em sẽ cười chết mất. Em cá điều mà tụi con trai ở trường làm nhiều nhất là thả diều và tổ chức picnic trên thảm cỏ. Một phần trong em vẫn có lúc nghĩ rằng khi tỉnh dậy thì hóa ra mọi thứ chỉ là một giấc mơ.”

Ánh mắt của Mycroft chợt hướng thẳng sang bên kia căn phòng nơi Virginia đang canh cửa đợi cha cô quay lại. “Và anh nghĩ là có những điều khác sẽ bù đắp cho em,” anh nói.

“Ý anh là sao?” Sherlock hỏi, tự nhiên thấy không thoải mái lắm.

“Ý anh là sự thu hút từ bạn đồng hành,” khuôn mặt của Mycroft đột nhiên trầm ngâm. “Anh chỉ là... một kẻ đơn độc,” anh nói. “Anh không thích hợp với bạn bè lắm, mà chỉ thích một mình với quyển sách và bình rượu thôi. Đừng để cách sống của anh ảnh hưởng đến em. Nếu tình bạn - hoặc, cho anh nói điều này, tình yêu chẳng hạn - đến với em trong cuộc đời thì em nên trân trọng nó với tất cả nhiệt huyết nhé.”

Sherlock đột nhiên xuống tinh thần khi Mycroft nhắc cậu nghĩ đến Matthew Arnatt đang ở đâu ngoài kia trong tay bọn bắt cóc. “Em không ngại dấn thân vào nguy hiểm,” cậu nói giọng ủ rũ, “em chỉ không muốn nó ảnh hưởng đến bạn của em thôi.”

“Họ có sự lựa chọn của họ, cũng giống như em thôi,” Mycroft giảng giải. “Cứ nghĩ như vầy. Họ không phải là những con rối, và em không thể giữ an toàn cho họ, cũng giống như anh rõ ràng là không thể giữ an toàn cho em. Nếu họ muốn đồng hành cùng em, họ sẽ chọn làm vậy. Và họ phải chấp nhận rủi ro.” Anh khẽ nhướng mày lên. “Rõ ràng là tới thời điểm này cậu nhóc Matthew chắc đã nhận ra rằng ở gần em chẳng an toàn và không hề nhàm chán chút nào.”

“Chúng ta sẽ đem được cậu ấy về, đúng không, anh Mycroft?”

“Anh không dám để trái tim mình viết ra một tờ chi phiếu mà cuộc sống không cho anh rút tiền ra được,” Mycroft nhẹ nhàng nói. “Anh không biết chắc được tương lai sẽ ra sao, nhưng anh có thể dùng kiến thức và kinh nghiệm để đoán hướng đi của nó. Anh tin rằng có nhiều khả năng Matty sẽ được trả về an toàn, mặc dù cũng có thể có những khả năng khác diễn ra.”

Cánh cửa lúc này bật mở và Amyus Crowe tiến vào phòng.

Ông đang nắm trong tay một mẩu giấy nhăn nhúm.

“Tôi kiếm được nó trong túi tên bị bắt,” ông nói. “Nhìn giống kiểu mật mã gì đó. Không biết nó có ý nghĩa gì nữa.”

“Hắn tỉnh dậy chưa?” Mycroft hỏi.

“Hắn có thể xỉu thật hoặc đang đóng kịch. Tuy nhiên tôi có nhìn sơ qua quần áo của hắn. Chất liệu và nhãn mác xuất xứ từ Mỹ.”

“Chúng ta cùng kiểm tra tờ giấy nào. Nó có thể cho chúng ta manh mối nơi hắn sẽ gửi điện tín đó.”

Ông Crowe trải miếng giấy thẳng lên mặt bàn. Mycroft và Sherlock cùng quây lại bên cạnh ông. Virginia đứng sau, mỉm cười nhìn cha mình đã quay trở lại.

Miếng giấy có một loạt chữ cái và số viết tay nguệch ngoạc, chứng tỏ chúng rõ ràng được viết trong tình trạng xe đang di chuyển vội vã. Sherlock đọc thấy có mười nhóm chữ, mỗi nhóm có năm ký tự:

snes9 opst4 uose5 tsgrt htrnu aoede mfaos pftcd tieka oca0y. “Chúng có nghĩa gì vậy nhỉ?” Cậu hỏi.

“Có vẻ như chúng là những mật mã thay thế đơn giản,” ông Crowe đáp. “Mật mã thay thế được sử dụng rất nhiều trong nội chiến để giữ cho tin tức không bị rơi vào tay kẻ địch. Ý tưởng của nó đơn giản lắm - thay vì viết chữ “a” thì mình viết chữ khác, chẳng hạn như “z”,” - ông phát âm nó thành “zee” - “và thay vì viết chữ “b” thì mình có thể viết chữ “y”. Miễn sao mình và người nhận tin tức cùng biết được chữ nào thay thế cho chữ nào - mấu chốt vẫn là - thông tin được mã hóa và giải mã một cách an toàn.”

“Chúng ta đâu có biết chìa khóa của nó là gì phải không ạ?” Sherlock nói.

“Đúng vậy. Nếu chúng ta có một tờ tin dài hơn thì may ra mới giải được nhờ dựa vào cách phân tích tần số, nhưng tiếc là không có.”

“Phân tích tần số xuất hiện ư?”

“Giờ không phải là lúc học,” Mycroft thở dài, nhưng ông Crowe vẫn trả lời.

“Có một người đàn ông thông minh nhiều năm trước đã phát hiện ra rằng trong những thông điệp viết bằng tiếng Anh sẽ có một số chữ xuất hiện nhiều hơn những chữ khác. Chữ “e” được dùng nhiều hơn bất cứ chữ nào. Sau đó là chữ “t”, rồi tới “a”, tới “o” và cuối cùng là “n”. Chữ “q” và “z” bất ngờ thay là hai chữ ít được sử dụng nhất. Nếu ta có một văn bản dài, với các chữ được thay thế bởi những chữ khác thì chúng ta sẽ tìm chữ lặp lại nhiều nhất. Đó có thể là chữ “e”. Chữ lặp lại nhiều thứ hai có thể là “t”. Đó là cả một quá trình loại trừ. Cộng thêm một chút may mắn nữa thì có thể ta sẽ giải mã được thông tin để khám phá ra toàn bộ vấn đề.” Ông nhìn mẩu tin bằng giấy đang để trước mặt. “Tôi không chắc về cái này lắm. Chúng ta không có đủ các ký tự để áp dụng cách phân tích tần số, nhưng tôi đang tự hỏi chúng lấy đâu ra thời gian để nghĩ ra cách tạo mã số chứ. Tôi nghĩ tin nhắn này chắc chắn đơn giản hơn ta tưởng.”

“Đơn giản hơn như thế nào chứ?” Sherlock hỏi.

“Mười nhóm chữ gồm năm ký tự đi với nhau. Nó làm chú nghĩ tới một mạng lưới, hoặc là một cái bàn.”

Ông Crowe nhanh chóng nguệch ngoạc những ký tự xuống bên dưới khoảng trống của tờ giấy, nhưng theo một sắp xếp có trình tự hơn:

snes9 opst4 uose5 tsgrt htrnu aoede mfaos pftcd tieka oca0y.

“Giờ ta có hai cách mà một người có thể viết kiểu mười nhóm năm ký tự,” ông suy nghĩ, “theo cách này, hoặc là ngược lại.”

Nhanh thoăn thoắt, ông viết chúng theo một cách khác, lần này theo chiều dài của chúng hơn là theo chiều ngang:

s o u t h a m p t o n p o s t o f f l c e s s g r e a t e a s t e r n d o c k 0 9 4 5 t u e s d a y

““Bưu Điện Southampton”,” Sherlock nín thở đọc, ““Bến SS Great Eastern, 09.45, Thứ Ba”. Đó chắc chắn là địa điểm gửi tin, địa điểm con tàu rời bến và thời gian nó khởi hành.”

“Cũng không phải là một loại mã số thông minh đặc biệt gì,” ông Crowe nói vẻ đăm chiêu, “nhưng đó là cách nhanh nhất mà chúng có thể nghĩ khi cùng ở trên chiếc xe ngựa lao đi vội vã đó.” Ông liếc nhìn Mycroft. “Tôi nghĩ là chúng ta đều biết điều gì sẽ xảy ra tiếp theo, đúng không nào?”

Mycroft gật đầu. “Tôi sẽ bắt đầu ngay.”

Sherlock nhìn hết người này sang người kia. “Chuyện gì sẽ xảy ra tiếp theo vậy?” cậu hỏi khẩn khoản.

Hai người đàn ông nhìn nhau chằm chặp. Cuối cùng Mycroft lên tiếng.

“Chúng đăng ký trên một chiếc tàu khởi hành từ Southampton vào ngày mai lúc mười giờ kém mười.

Trong khi chúng ta đang bận rộn ở đây thì bọn chúng đã ở Southampton rồi. Ngay lúc chúng ta báo được cho cảnh sát thì con tàu đã dong buồm mất rồi.”

“Vậy chúng thoát mất,” Sherlock nói.

“Cũng không hẳn là vậy,” Mycroft khẳng định. “Có rất nhiều con tàu đến Mỹ mỗi ngày. Hầu hết là đều chở hành khách, nhưng chức năng chính của chúng là chở thư từ và bưu kiện. Đó là cách kiếm tiền. Nếu chúng ta đặt vé rời đi ngày mai, hoặc ngày mốt, cũng chung một điểm đến, thì có thể chúng ta sẽ đến đó sau bọn chúng không lâu. Hoặc có khi trước cả bọn chúng nữa. Tàu của chúng ta có thể nhẹ hơn, hoặc mạnh hơn. Chúng sẽ không chọn riêng một con tàu nào cả, chúng chỉ muốn rời khỏi đất nước này càng nhanh càng tốt thôi.”

“Vậy chúng ta thì sao đây?” Sherlock hỏi.

“Ông Crowe sẽ phải đi,” Mycroft đáp, “vì ông có thẩm quyền tại chính đất nước của mình. Ông có thể kêu gọi giúp đỡ từ phía cảnh sát địa phương. Ông dĩ nhiên cũng sẽ mang theo con gái của mình vì không muốn để cô bé ở đây một mình. Anh, mặt khác, sẽ ở lại đây, vì anh cần phải đảm bảo rằng chính phủ Anh Quốc nắm được thông tin, và cung cấp cho ông Crowe bất cứ sự hỗ trợ ngoại giao dài hạn nào mà ông ấy cần,”

“Chẳng lẽ ông ấy không thể đánh điện tín đến Pinkertons được sao, báo với họ chặn con tàu Great Eastern lại khi nó cập bến?”

Mycroft lắc đầu, quai xương hàm vốn nổi bật của anh run run theo. “Em quên mất rồi sao,” anh nói, “chúng ta không có phác họa chính xác về bọn chúng; đặc biệt là không đủ để đảm bảo chúng sẽ bị bắt. Ngoài tên John Wilkes Booth ra thì họ không thể nhận dạng được ai hết, trừ em là có thể thôi.”

“Còn em thì sao?” Sherlock hỏi, cảm giác như nghẹt thở.

“Em là người duy nhất trong chúng ta thấy những tên còn lại,” Mycroft đáp nhẹ nhàng. “Anh không thể bảo em làm việc này, Sherlock. Thật lòng anh không thể nào yêu cầu em được.

Anh chỉ có thể chỉ ra rằng ông Crowe không thể tóm được bọn chúng nếu ông ta không thể tìm thấy chúng.”

“Anh muốn em đi đến Mỹ phải không?” Sherlock thì thào.

“Anh có thể nói với chú Sherrinford và thím Anna rằng anh sẽ sắp xếp cho em đi du học,” Mycroft nói. “Trong vòng khoảng một tháng. Họ sẽ không đồng ý, dĩ nhiên, nhưng anh nghĩ anh có thể thuyết phục được họ.”

“Thật ra,” Sherlock vừa đáp vừa nghĩ ngay đến bà Eglantine và quyền năng lạ lùng mà bà có được trong gia đình của chú và thím cậu. “Em nghĩ anh sẽ thấy việc thuyết phục họ cho em đi xa trong một thời gian dễ dàng hơn anh tưởng đó.”