CHƯƠNG 7
Những bến tàu tại Southampton tấp nập đủ loại người từ đàn ông, phụ nữ đến trẻ con với đủ các sắc màu quần áo đẹp nhất cho ngày Chủ Nhật. Một số như những đàn kiến tấp nập đi lên những chiếc cầu ván nối bến tàu với boong tàu, số khác thì nối nhau tràn từ cầu xuống bến từ những con tàu khác và nháo nhác nhìn xung quanh, mắt mở to như bị choáng ngợp trước cảnh tượng của một đất nước xa lạ, và số còn lại thì vẫy tay chào tạm biệt bà con, bạn bè hoặc dang rộng tay chào đón người mới đến. Xen lẫn trong đám đông đó là những người khuân vác mặc đồng phục đang đẩy những chiếc xe kéo chất đầy hành lý và những công nhân bến cảng trong quần áo xộc xệch và khăn rằn vắt vai, đang thoăn thoắt khuân vác hàng hóa đặt vào những tấm nâng hàng bằng gỗ. Trên cao thì lừng lững những cần trục bằng gỗ đang bốc dỡ những tấm nâng hàng được phủ lưới từ bến tàu lên các boong tàu hoặc từ trên tàu xuống lại bến, và xung quanh là những vách tàu bằng gỗ hoặc bằng sắt thẳng đứng như vách núi đan xen với cả rừng cột buồm, ống khói chi chít hệt như một ma trận.
Và nhìn đâu Sherlock cũng thấy vết tích của cả trăm loại tội phạm đang diễn ra: nào là móc túi, đánh bạc, các kiện hàng bị đâm thủng để các đồ vật nho nhỏ bị moi ra, trẻ con bị lạc cha mẹ có trời mới biết lý do vì sao, và những kẻ chân ướt chân ráo mới đến đang trả tiền để được đưa tới những khu nhà nghỉ không hề tồn tại hoặc không hề hoa mỹ tráng lệ như lời họ được miêu tả.
Đó chính là xã hội con người với tất cả tốt đẹp và xấu xa.
Hai mươi bốn tiếng đồng hồ qua có lẽ là thời gian điên cuồng nhất trong cuộc đời Sherlock. Sau buổi bàn bạc tại nhà ông Amyus Crowe, một quyết định bất ngờ đã được đưa ra là họ sẽ đi đến nước Mỹ - một việc mà đến giờ Sherlock cũng không thể tin được - cậu và Mycroft đã quay lại nhà chú thím, sau đó đến Farnham để cẩn thận gửi một bức điện tín đến Bưu Điện ở Cảng Southampton nhằm thuyết phục hai tên Ives và Berle là Gilfillan đã thành công trong nhiệm vụ cản phá kẻ địch.
Lúc ở trang viên Holmes, Mycroft đã đi vào thư viện để nói chuyện với chú Sherrinford Holmes trong khi Sherlock đi thẳng lên phòng thu xếp mớ vật dụng cá nhân sơ sài của mình vào cái rương cũ mòn vẹt từng một thời là của cha cậu. Sherlock ngủ rất ít, giấc ngủ của cậu một phần bị quấy nhiễu bởi những ký ức về trận đánh tay đôi với Gilfillan và sự nhức nhối của các vết thương, phần khác vì cậu quá phấn khích khi sắp được rời khỏi đất nước - để đến Mỹ! Bữa ăn sáng diễn ra gượng ép khi cả chú Sherrinford và thím Anna không biết nói gì với cậu trong khi bà Eglantine thì đứng cười nhạt đầy lạnh lùng phía sau. Sau đó Sherlock leo lên xe ngựa cùng Mycroft, nhìn cái rương của mình đang được đưa lên và cột chặt phía sau xe, và thế là họ lên đường cho chuyến đi dài đến Southampton.
Trên đường đi, Sherlock đắm chìm trong suy nghĩ, nhất là về thông điệp bị mã hóa đã được Amyus Crowe tìm thấy trên người tên Gifillan đang bất tỉnh. Cậu chưa bao giờ nghĩ đến mật mã trước đó, nhưng sự tỉ mỉ khi chúng được ghép lại với nhau, và qui trình sắp xếp hợp lý của chúng đã thu hút cậu mạnh mẽ. Cậu tự thấy mình đang tưởng tượng đủ các loại mật mã khác nhau, từ kiểu thứ tự đơn giản như cái họ đã giải ngày hôm qua, đến phương pháp thay thế phức tạp hơn khi các biểu tượng sẽ thay cho các ký tự, thậm chí đến những kiểu sắp đặt cực phức tạp với quy luật thay thế thay đổi theo từng mật mã khác nhau, chẳng hạn như chữ “a” đầu tiên xuất hiện sẽ được thay thế bởi một thứ này, và lần sau nó sẽ được thay thế bởi một thứ khác, và cứ tiếp tục như vậy, tất cả đều nằm dưới một thuật toán ẩn. Trong trường hợp đó, phương pháp phân tích tần số xuất hiện đơn giản như kiểu mà Amyus Crowe đã đưa ra hoàn toàn vô dụng. Làm thế nào mà kiểu mật mã như vậy mà cũng cần bẻ gãy, cậu tự hỏi. Thế giới mã số và mật mã cần phải có nhiều đầu tư nghiên cứu hơn thế nữa thì mới xứng công.
Cuối cùng họ cũng đến được Southampton. Ông Amyus và Virginia Crowe đã ở đó chờ họ từ bao giờ - ông Crowe được quấn băng quanh đầu, và vết băng bó đó được che khuất bởi vành mũ ông đang đội. Sherlock đoán là họ đã cưỡi ngựa xuống đây rồi gửi chúng cho người khác chăm sóc trong khi họ đi vắng.
“Tôi đã chuẩn bị sẵn vé và giấy tờ du hành rồi,” Mycroft nói, đưa một tờ giấy cho Amyus Crowe. “Ông được đặt vé trên con tàu SS Scotia. Nó đang đậu ở đằng kia. Nó thuộc hãng Cunard Line - một hãng tàu danh tiếng của Anh. Và dĩ nhiêu là vé trên khoang hạng nhất. Tôi không muốn mọi người phải chịu khổ ở khoang hạng thấp - nhất là khi ông phải để mắt đến con gái và em trai tôi.”
Sherlock nhìn theo hướng ra dấu tay của Mycroft và thấy một con tàu khổng lồ tấp nập người giống như một sân bóng bầu dục. Một bánh xe guồng to tướng lộ ra khỏi một bên hông con tàu - có lẽ bên kia cũng có một cái tương tự như thế. Không kém phần khổng lồ, hai cột buồm với cánh buồm vẫn còn được cuộn lại. Sherlock cho rằng các bánh xe guồng sẽ được điều khiển bởi động cơ máy nước đặt bên trong một cái hầm rộng - hai ống khói vươn lên trên boong tàu để thải hơi nước lên cao - và cột buồm sẽ được sử dụng khi có gió nổi lên trong khi các bánh xe guồng chạy bằng máy hơi nước sẽ đẩy con tàu khi gió lặng.
Đầu óc phân tích của cậu tiếp tục suy diễn. Nếu các bánh xe guồng được đẩy bởi động cơ máy hơi nước thì những động cơ đó phải chạy bởi khí đốt than đá, có nghĩa là con tàu phải có chỗ dự trữ than, vì giữa mênh mông đại dương này thì đào đâu ra than đốt cơ chứ. Như vậy là con tàu phải có tải trọng lớn hơn, và lượng than dự trữ cần được tính toán hợp lý. Nhưng làm sao người ta tính được số lượng than cần thiết cho một chuyến đi và số lượng than dự trữ sao cho đủ? Đó là cả một phép tính toán phức tạp, ngoài sức tưởng tượng. Nó làm cậu nhớ một cách kỳ lạ đến ví dụ mà Amyus Crowe đã dạy cho cậu cách đây nhiều tuần về số lượng cáo và thỏ thay đổi như thế nào qua thời gian. Có phải vạn vật trên thế giới này đều được điều phối bởi những hằng đẳng thức không?
“Tôi rất biết ơn sự giúp đỡ của anh, Holmes,” Amyus nói, giọng đầy trịnh trọng, “Tôi không phải là một người giàu có gì. Chúng ta cũng chưa bao giờ đề cập đến chuyện đền bù tài chính gì cả.”
“Không cần đâu.” Mycroft khoát tay, rõ ràng là hơi lúng túng khi thảo luận đến chuyện tiền bạc. “Chính phủ Anh đã chi trả cho những chiếc vé này. Trong tuần tới hay khoảng thời gian đó tôi sẽ thảo luận với Ngài Đại sứ của nước ông, và sẽ gợi ý ông ta về việc hỗ trợ chi phí, dựa trên tinh thần chúng tôi đang giúp đỡ đất nước ông giải quyết chính trị nội bộ. Nhưng giờ thì mọi người cứ yên tâm rằng không ai bị bỏ rơi đến khi đặt chân đến New York. Lúc đó tôi cho rằng ông đã có thể xoay xở tài chính được rồi đúng không?”
Amyus Crowe gật đầu. “Dù sao đi nữa tôi cũng rất biết ơn, anh Holmes.”
Sherlock liếc nhìn Virginia đang đứng bên cạnh ông Crowe. Cô có vẻ lo lắng, khuôn mặt vô cùng nhợt nhạt, tái xanh.
“Cậu không sao chứ?” Sherlock hỏi và đi đến bên cạnh cô trong khi hai người lớn vẫn tiếp tục nói chuyện với nhau.
Cô gật đầu. “Tớ không muốn nói về chuyện đó,” cô đáp.
“Tớ tưởng là cậu sẽ vui khi sắp về nhà chứ?”
Cô liếc nhìn cậu với ánh mắt sắc lẹm muốn cắt đứt cả kính. “Cậu không hiểu câu “không muốn nói về chuyện đó” có ý gì hay sao?”
Sherlock giơ tay lên như đầu hàng và lui ngay lập tức, y như cái kiểu phản ứng của một người khi phải đối đầu với một động vật hoang dã. Virginia, cậu thầm nhủ, và đây cũng không phải là lần đầu tiên, có lẽ là người phức tạp nhất mà cậu từng gặp.
“Có tin tức gì của con tàu Great Eastern không?” Ông Crowe đang hỏi Mycroft.
“Theo như bức mật mã thì nó đã rời đi tại một bến cảng gần đây sáng nay, hướng về New York. Tôi đã kiểm tra danh sách hành khách nhưng không tìm được một cái tên nào có ý nghĩa với chúng ta cả. Một hành khách không lên tàu - tôi cho rằng đó chính là tên Gilfillan không may, giờ hắn đang nằm trong tay của cảnh sát Farnham. Hôm nay tôi sẽ yêu cầu họ chuyển hắn đến Sở Cảnh Sát chính. Ở đó sẽ dễ dàng thẩm vấn hơn.”
“Đừng mạnh tay với hắn quá,” ông Crowe nhẹ nhàng đáp. “Chúng ta phải nhớ là hắn chưa bị kết án tội gì cả.”
Mycroft nhướng mày lên, nhưng không nói gì. Thay vào đó anh quay sang Sherlock. Anh đặt một tay lên vai Sherlock và tay còn lại thì chỉ về hướng con tàu SS Scotia. “Nó được hạ thủy cách đây sáu năm, được đóng và điều hành bởi hãng Cunard Line, ngay tại nước Anh,” anh giảng giải. “Nó dài một trăm mười lăm mét và nặng ba ngàn chín trăm tấn. Thuyền trưởng tên là Judkins, và ông là người điều hành đáng tin nhất của hãng Cunard. Tàu chở được ba trăm hành khách, cũng như hành lý, và tiêu thụ hết một trăm sáu mươi bốn tấn than một ngày. Nó có thể đi từ Southampton đến New York trong vòng tám ngày và vài giờ đồng hồ. Em cứ tưởng tượng xem - chỉ trong vòng một tuần em có thể đến châu Mỹ rồi. Vào thời ban sơ, để đến được đất nước rộng lớn đó chúng ta phải đi mất nhiều tháng trời.”
“Anh đã bao giờ đến Mỹ chưa, Mycroft?” Sherlock hỏi.
Thân người vạm vỡ của anh trai cậu khẽ rung lên. “Southampton là vùng đất xa lạ nhất mà anh biết,” anh nói. “Nước Mỹ thì chắc cũng giống Bắc Cực thôi.”
Mycroft quay sang ông Crowe. “Hành lý đang trên đường được đưa đến khoang của ông rồi,” anh nói. “Sau khi cân nhắc, tôi đặt ba giường ở hai buồng. Một buồng cho ông và Sherlock. Buồng còn lại là của Virginia, nhưng theo tôi biết thì cô ấy sẽ cùng phòng với một hành khách nữ khác. Tôi không thể biết được tên của người đó là gì vì điều đó phụ thuộc hoàn toàn vào người quản lý con tàu, nhưng tôi có thể bảo đảm với ông bất cứ phụ nữ nào đi Hạng Nhất đều có xuất thân tốt.”
“Tôi chắc là Virginia có thể xoay xở được mà,” ông Crowe nói. Ông có vẻ hơi lúng túng.
“Còn một điều nữa,” Mycroft tiếp tục. “Tôi đã cẩn thận đặt ghế trước cho cả ba vào buổi ăn tối rồi. Tôi được những người có kinh nghiệm mách rằng chỗ ngồi mà mọi người có được trong buổi ăn tối đầu tiên sẽ quyết định địa vị xã hội của họ cho cả cuộc hành trình. Ghế tốt nhất là những chiếc ghế ngồi gần Thuyền trưởng nhất, và gần các cửa ra vào phòng trường hợp bị say sóng đồng thời nằm cách xa động cơ. Tôi biết chuyến đi chỉ có tám ngày nhưng nếu mọi người cảm giác thật thoải mái thì càng tốt.” Anh nhún vai lần nữa. “Tôi không thể nói là tôi cảm thấy ganh tỵ với mọi người. Dạo gần đây, chỉ việc đi tới lui giữa nơi tôi ở đến văn phòng và từ văn phòng đến Câu Lạc Bộ cũng đủ làm tôi kiệt sức rồi. Không thể có động lực nào có thể làm tôi thay đổi thói quen đó được.”
Ông Crowe mỉm cười. “Anh có thể sẽ rất ngạc nhiên đấy Holmes, về những điều có thể khuấy động cuộc sống thường ngày của chúng ta. Có thể là những điều vô cùng đơn giản. Tôi nghĩ biết đâu anh cũng sẽ tìm được niềm vui trong những chuyến xuất ngoại đấy.”
“Ôi Chúa ơi,” Mycroft thốt lên.
Và sau đó giờ khởi hành đã đến. Sherlock đưa tay ra. Mycroft cũng làm như vậy. Họ bắt tay nhau, một cách nhã nhặn, như kiểu các quí ông gặp nhau trên đường phố.
“Thượng lộ bình an nhé em,” Mycroft nói, “và làm theo những điều ông Crowe bảo. Sự có mặt của em trong chuyến đi này rất quan trọng - chúng ta có thể không biết nó quan trọng đến mức nào, nhưng anh muốn nhắc lại rằng chỉ có em mới có thể nhận diện được những tên sừng sỏ người Mỹ này. Ít nhất thì chúng cũng là những tội phạm và tị nạn chính trị cần phải bị bắt giữ và kết tội. Quan trọng hơn nữa là cần chặn đứng một âm mưu nào đó có thể làm tình trạng chính trị vốn yếu ớt của Mỹ bị xấu hơn. Và, vì Chúa, em hãy thưởng thức càng nhiều càng tốt. Không phải đứa trẻ nào ở tuổi em cũng có cơ hội được đi du ngoạn nước ngoài vậy đâu.”
Anh thọc tay vào trong túi và rút ra một quyển sổ nhỏ. Mycroft trao nó cho Sherlock: “Em sẽ cần cái gì đó để giết thời gian. Đây là quyển
Nền Dân Chủ, của nhà triết học người Hy Lạp tên Plato. Nó được viết theo dạng những mẫu hội thoại giữa người thầy tên Socrates của Plato với nhiều người dân Athen và người ngoại quốc, bàn về ý nghĩa của sự công bằng, và những ví dụ liệu người công bằng có hạnh phúc hơn người không công bằng hay không. Plato còn sử dụng những mẫu hội thoại để cho ta thấy một xã hội được cai trị bởi một ông vua triết gia, cũng như bàn luận vai trò của một triết gia và thơ ca trong xã hội.
Nền Dân Chủ là một trong những tác phẩm có ảnh hưởng mạnh nhất của nền triết học và lý thuyết chính trị, và anh muốn giới thiệu nó cho em làm tài liệu học hỏi.”
“Nó có được dịch chưa anh?” Sherlock hỏi một cách đầy hoài nghi.
“Dĩ nhiên là chưa rồi,” Mycroft trả lời, có vẻ ngạc nhiên. “Anh biết em đọc rất nhanh. Nếu đó là bản dịch thì em chỉ cần một buổi chiều là đọc xong ngay. Nhưng nếu em phải dịch trong lúc đọc thì anh tin rằng chuyến đi sẽ trôi qua nhanh trước khi em hoàn tất quyển sách. Bên cạnh đó, việc dịch thuật còn phụ thuộc vào khả năng của người dịch nữa. Nếu em muốn đọc và hiểu một điều gì đó thật chuẩn bằng tiếng nước ngoài, thì tốt nhất là em nên học ngôn ngữ đó.” Anh ngập ngừng. “Anh biết em ưa thích những điều kỳ lạ và mạo hiểm, nên anh muốn em biết là mặc dù Plato chết vì tuổi già, nhưng người thầy Socrates của ông lại chết vì bị chính quyền Hy Lạp ép uống thuốc độc. Anh không biết liệu điều đó có đem lại cảm hứng gì cho em để đọc quyển sách hay không, nhưng vì em có vẻ thích sự kịch tính nên anh cung cấp thêm thông tin cho em như một món quà vậy.”
“Hẹn sớm gặp lại anh nhé,” Sherlock nói, cảm giác gì đó nghèn nghẹn xa lạ đang trào dâng lên cổ mình. Cậu không biết đó là lời khẳng định hiện tại hay là một câu hỏi hay không, nhưng Mycroft quay đi nhìn chỗ khác, mắt anh ngấn nước long lanh.
“Sherlock,” anh nói, “Anh sẽ không bao giờ có con cái gì hết - anh đã quá quen với cách sống của anh, và không thể nào chịu được sự thay đổi để xây dựng gia đình với một người khác - nhưng nếu có lúc nào đó anh có một đứa con trai anh cũng sẽ yêu nó như anh yêu em. Nhớ phải chăm sóc bản thân. Phải thật cẩn thận.”
Và sau đó, một cách vội vã, họ lên tàu, đi theo lối một cái cầu tàu thật dài dẫn lên boong. Tại đầu cầu, vé của họ được soát, và người ta đưa họ xuống một cầu thang bằng gỗ, rồi đi dọc theo một hành lang không hề có một cánh cửa sổ nào bên trong thân tàu để về phòng - họ đi ngang phòng của Virginia trước, bạn cùng phòng của cô chưa đến nhưng hành lý của cô đã được đem vào sẵn - sau đó mới đến phòng của Sherlock và Amyus. Căn phòng khá nhỏ và được ốp gỗ - rộng cỡ ba mét, với chiếc giường tầng nằm một bên và phía bên kia là một bộ sofa tiện nghi. Đầu của căn phòng là một bệ rửa mặt và một chiếc gương. Phía trên bộ sofa có một cửa sổ tròn để lấy ánh sáng và không khí, nhưng Sherlock để ý thấy có sự rung chuyển như thể nó bị đóng và siết chặt. Chẳng lẽ họ phòng trường hợp bão bùng chăng? Và nếu đúng như thế thì bão có hay xảy ra không nhỉ? Và họ có đủ không khí lưu thông không nếu cơn bão kéo dài nhiều giờ đồng hồ?
Amyus Crowe đang kiểm tra những chiếc giường. “Tốt hơn hết là chú chọn cái bên dưới và cháu cái trên cao,” ông làu bàu. “Nếu chú ngã xuống sóng biển hung tợn, thì chú vẫn muốn ngã từ độ cao gần hơn. Và nên nhớ là - chú nặng hơn cháu rất nhiều đấy.”
Chợt nhớ đến suy nghĩ của mình về khung cửa sổ và những cơn bão có thể xảy ra, Sherlock để ý thấy cả hai chiếc giường đều có một viền gỗ chạy dọc theo chiều dài của tấm nệm và vươn lên cao hơn, có thể để ngăn hành khách bị lăn khi ngủ và rơi xuống sàn. Cậu có thể tưởng tượng được cảnh những cơn sóng lớn đủ mạnh làm người ta bị giật tới giật lui trên giường như những viên bi lăn lộn trong cái hộp thiếc đựng bánh vậy.
“Không biết tin tưởng được mấy tấm nệm này không nữa,” ông Crowe vừa chê bai vừa thử độ dày của chúng. Đối với Sherlock, chúng nhìn dày hơn tấm nệm của cậu ở trang viên Holmes, nhưng cậu kín đáo không nói gì cả.
Yên tâm là hành lý đã được đưa lên tàu an toàn, họ quay trở lại boong tàu để xem công việc chuẩn bị cho khởi hành. Cầu tàu lúc này đã được kéo lên, và đám đông trên bến đang tụ tập lại, mọi người đang vẫy chào tạm biệt với những người trên tàu. Một phần Sherlock muốn kiếm khuôn mặt tròn như mặt trăng của Mycroft có trong đám đông hay không, một phần trong cậu biết là Mycroft có thể đã đi rồi. Anh trai của Sherlock không phải là người đàn ông đa sầu đa cảm, và anh rất ghét cảnh tạm biệt.
Tay Sherlock lần mò xuống túi áo khoác, nơi cậu nhét quyển
Nền Dân Chủ của Plato mà Mycroft đã đưa. Đó là một món quà bất ngờ, và Sherlock định sẽ đọc hết quyển sách đó - mặc dù nó là tiếng Hy Lạp.
Động cơ của con tàu nằm sâu bên dưới đã bắt đầu khởi động để tăng tốc, và Sherlock không những nghe được tiếng ầm ầm của nó mà còn cảm giác được sự rung chuyển trên sàn gỗ của boong tàu. Đột nhiên cậu nhận ra rằng tiếng ồn của động cơ sẽ đồng hành với mình trong suốt tám ngày sắp tới. Làm sao mà cậu ngủ được bây giờ? Làm sao cậu nghe được người ta nói gì với mình? Sự an ủi duy nhất có lẽ là cậu sẽ quen dần với nó, nhưng hiện tại thì cậu không thấy chuyện đó khả thi chút nào.
Những sợi dây buộc con tàu SS Scotia vào bến đang được tháo ra khỏi cọc và thả thõng xuống bên thành tàu như những dải ruy-băng mặc dù chúng là những sợi dây cáp dày bằng cả nắm tay của Sherlock. Những chiếc bánh xe guồng khổng lồ bắt đầu xoay, khuấy tung làn nước bên dưới và từ từ đẩy con tàu về phía trước. Một hồi còi vang lên, làm đám đông trên bến vỡ òa trong tiếng la hò mừng rỡ, như thể chưa ai từng thấy cảnh tượng đó bao giờ. Mũ và nón được tung lên trời, và hành khách trên tàu cũng tụ tập trên boong để đáp lại tấm chân tình đó.
Đột nhiên Sherlock cảm thấy một cảm giác có lỗi và buồn bã dâng trào trong tim. Cậu mong Matty được an toàn biết bao. Tâm trí cậu cứ len lén hiện lên hình ảnh về những điều có thể xảy ra cho người bạn của mình, và cậu nỗ lực xua chúng đi. Tên Ives và Berle không có lý do gì làm hại Matty cả. Cậu ấy là sự đảm bảo của chúng.
Nhưng vấn đề ở chỗ, liệu Ives và Berle có suy nghĩ hợp lý như Sherlock hay không?
Cố nhìn xung quanh để phân tâm bớt, Sherlock để ý thấy một người đàn ông gần đó. Anh ta đang đứng một mình, cầm một cái hộp gì trông giống hộp đàn vĩ cầm, và thay vì nhìn vào đám đông, anh ta lại nhìn một hướng khác, trông ra biển. Dáng người này gầy, mái tóc đen dài hơn so với bình thường, áo khoác và quần có vẻ bằng chất liệu nhung kẻ. Sherlock đoán anh ta tầm ba mươi tuổi. Người lạ đưa tay lên che mắt tránh ánh nắng, và Sherlock thấy các ngón tay của anh ta rất dài và thon. Anh ta đột nhiên nhìn sang Sherlock và mỉm cười, đưa tay chạm ngang trán ra hiệu chào cậu. Đôi mắt anh ta dường như có màu xanh lục, và nụ cười rộng để lộ một chiếc răng bọc vàng nằm sâu bên trong hàm.
“Khởi đầu của một chuyến phiêu lưu,” anh ta la to. Giọng pha chút tiếng Ireland.
“Tám ngày lênh đênh trên biển không biết làm gì ngoài đi dạo và đọc sách,” Sherlock la to đáp lại, mạnh dạn trò chuyện hòa theo sự phấn khích về chuyến đi cùng một người hoàn toàn xa lạ. “Cũng không hẳn là một chuyến phiêu lưu lắm.”
“À, nhưng hãy nghĩ đến biết bao nhiêu dặm nước thăm thẳm bên dưới khi chúng ta lướt qua. Nghĩ đến những con tàu bị đắm nằm rải rác dưới lòng đại dương, và những sinh vật lạ lùng đang lượn lờ quanh các lỗ thủng của tàu và vờn xung quanh những bộ xương của các thủy thủ chết đuối. Sự phiêu lưu đang ở xung quanh chúng ta nếu cậu biết nhìn đúng chỗ đấy.” Anh ta giơ cái hộp đang cầm lên. “Và trong trường hợp không có gì thì tôi có thể dùng thời gian để chơi nhạc trên boong tàu, dưới bầu trời sao, và mê hoặc các nàng tiên cá.”
“Tiên cá ư?” Sherlock hỏi đầy hoài nghi. “Cá heo thì đúng hơn chứ, hoặc một sinh vật sống dưới nước nào đó.”
“Con người có quyền được mơ,” người lạ mặt nói. Anh gật đầu thân thiện với Sherlock, khẽ kéo mũ và rời khỏi đám đông. Sherlock ngóng theo mái tóc dài của anh ta một lúc và cuối cùng mất hẳn dấu trong đám đông chen chúc.
“Nếu cháu muốn đi dạo và khám phá,” Amyus Crowe lên tiếng từ sau lưng cậu, “thì cháu cứ tự nhiên. Chúng ta sẽ ở trên con tàu này đến một tuần hơn, và chú không có ý định chăn dắt cháu suốt đâu. Miễn sao cháu đừng ngã khỏi boong tàu, thì không có chỗ nào mà cháu không thể tới được. Chú tính quay lại buồng của Ginnie và làm quen với bạn đồng hành của con bé, để chắc chắn người phụ nữ đó không phải loại nát rượu hay khùng điên hay cả hai. Chúng ta sẽ gặp lại nhau tại phòng nhé, tới lúc đó xem buổi ăn tối sẽ diễn ra như thế nào.”
Sherlock đi lang thang lên phía trước con tàu - mũi tàu, đó là cách các thủy thủ gọi nó. Trên đường đi cậu ngang qua boong chỉ huy - là khu vực nhô cao để Thuyền trưởng đứng, trong bộ đồng phục hoàn hảo cùng với chiếc mũ lưỡi trai, bên cạnh ông sẽ là một người lái tàu đang điều khiển con tàu bằng cái bánh lái khổng lồ cỡ như một cái bánh xe ngựa cả về kích cỡ lẫn kiểu dáng. Phía sau họ là một buồng lái nhỏ, được che chắn khỏi gió và mưa, nhưng phần lớn diện tích của boong chỉ huy này là không gian mở. Ở một góc xa xa có một vật gì đó bằng sắt trông rất lạ được treo trên một cái cột, nó giống như cái đồng hồ báo thức với những cây kim phút cực dài có thể di chuyển xung quanh bề mặt, nhưng thay vì được đánh dấu bởi giờ và phút, thiết bị đó lại có chữ như - “Trước”, “Đầy”, “Ngừng” và “Chậm”. Chỉ trong vài giây là Sherlock có thể nhận ra ngay đó là một thiết bị giao tiếp được Thuyền trưởng sử dụng để ra mệnh lệnh cho phòng máy nằm sâu bên dưới boong tàu. Khi cây kim được di chuyển đến một chữ nào đó, sẽ có những tiếng chuông rung lên khác nhau trong buồng máy báo hiệu cho các thợ đốt lò làm theo.
Phía xa hơn, hướng mũi tàu, là một khoảng trống được rào lại có mái che bên trên, trông như một cái chuồng. Thậm chí nó bốc mùi như một cái chuồng nuôi gia súc thật sự. Sherlock ghé mắt nhìn vào một trong những khe hở chạy dọc trên vách chuồng và ngạc nhiên vô cùng khi thấy gia súc được nhốt chung với nhau trong khoảng không gian chật hẹp. Cái chuồng được dựng lên với ba ngăn để nhốt bò, heo và cừu ở ngăn đáy, vịt và ngỗng ở ngăn giữa và gà ở trên cùng. Con vật nào cũng đang cố chống lại sự dao động và những cơn gió biển lạnh buốt thổi thốc ngang qua tàu. Có lẽ chúng được nuôi để lấy trứng và sữa, thậm chí là để lấy thịt vì số lượng của chúng có vẻ dần dần hao hụt đi. Cuối cuộc hải trình, cái chuồng gia súc này, cũng giống như kho chứa than, sẽ hầu như trống không. Sherlock không hề nghĩ ra được rằng sẽ có gia súc sống trên tàu, nhưng cậu thấy mọi việc cũng có lý. Thức ăn tươi không thể nào để được lâu cho chuyến đi dài như thế, đặc biệt là nếu có bão hoặc sự cố máy móc có thể làm thời gian dài thêm ra. Có thể ở đâu đó trên con tàu này còn có chỗ dự trữ rau và trái cây, hoặc thậm chí chúng còn được trồng, và sẽ có một góc nào đó chất đầy các thùng chứa nước sạch. Và cũng có khả năng có hàng trăm chai rượu vang, rượu champagne, rượu vang đỏ có vị ngọt đậm, rượu mạnh và whisky cho hành khách khoang Hạng Nhất nữa.
Đột nhiên cảm giác có gì đó thoáng vụt qua, cậu quay đầu lại thật nhanh. Một bóng người nhanh chóng lẩn vào bóng tối của chiếc xuồng cứu sinh. Sherlock dợm bước đi tới nhưng cái bóng đó vụt biến mất. Cậu lắc lắc đầu. Có thể đó là một hành khách cũng nên.
Tiến lên phía trước, Sherlock ngắm nhìn một lúc cảnh bờ biển đang dần lùi xa ở hướng tay phải của mình. Con tàu lướt sát theo bờ biển khi nó hướng đầu về phía tây, rồi vòng theo Cornwall, băng băng tiến thẳng đến bờ biển của Ireland. Một khi qua được điểm đó, nó sẽ hướng về vùng biển bao la để vượt qua ba ngàn dặm hay hơn thế nữa tính từ nơi xuất phát đến cảng New York, miền đất mà họ đang tới.
Cậu hơi ngạc nhiên về độ ổn định của con tàu. Hầu như không có sự chòng chành lắc lư nào. Có thể mọi chuyện sẽ khác khi con tàu ra được tới Đại Tây Dương, nhưng ở đây, dọc theo bờ biển nước Anh, thì kích thước và trọng lực của con tàu có vẻ đủ để bảo vệ nó chống lại những con sóng nhỏ. Sherlock không thể không nhớ lại con thuyền nhỏ xíu mà cậu và Matty đã dùng để đi từ pháo đài xây từ thời Napoleon của Nam tước Maupertuis nằm ở ngoài khơi, vào đất liền gần Portmouth. Chuyến phiêu lưu đó thật là khủng khiếp, và cậu không hề có ý định trải qua một điều gì tương tự như thế một lần nữa cả.
Đột nhiên cậu cảm thấy thật cô đơn. Nước Anh, và tất cả những điều có ý nghĩa với cậu - nhà, gia đình, ngay cả trường học - đang dần dần xa mờ khỏi tầm mắt, và tất cả những gì đang ở phía trước là điều bất ngờ - một thế giới mới lạ cùng những con người và tập quán xa lạ. Và có cả những hiểm nguy. Cậu không biết những tên đang canh giữ John Wilkes Booth muốn gì, nhưng rõ ràng là bọn chúng đã có kế hoạch và sẵn sàng thủ tiêu bất cứ ai để giữ bí mật kế hoạch đó. Và thế là cậu đã phải ở đây, một cậu bé bị rơi vào những ma trận mưu đồ hoàn toàn nằm ngoài thế giới hiểu biết của mình.
Và Matty. Matty như thế nào rồi? Sherlock lo lắng không biết cậu ấy có được thoải mái như ba người đang ở đây, trên con tàu SS Scotia không. Hay là Matty đang bị trói lại, hay đỡ hơn là bị giam ở một cái buồng nào đó. Có khi nào những tên bắt cậu ấy đưa ra một thỏa thuận gì không nhỉ - vì dù sao thì bọn họ đều cùng đi chung một con tàu và cậu ấy cũng không có cách nào thoát cả. Nếu cậu ấy hứa sẽ không gây ra rắc rối nào thì bọn chúng cũng có thể để cậu ấy đi lại tự do -nhưng mà Matty chắc chắn sẽ rất ngang bướng và từ chối cho mà xem.
Cứ cho là cậu ấy vẫn còn sống đi. Ông Amyus Crowe và Mycrolf đều cùng suy luận ra như thế, nhưng Sherlock cảm giác chắc chắn rằng những suy luận cũng chỉ được rút ra từ những tưởng tưởng vô hạn với vài chi tiết thực tế mà thôi. Nếu những lập luận đó sai hoặc những suy luận không đi đúng hướng thì kết cục quả là không chính xác một tẹo nào. Và Matty có thể chết. Những tên người Mỹ đó biết đâu lại quyết định loại bỏ gánh nặng của một con tin còn sống trong suốt chuyến đi, và thế là sẽ cắt cổ Matty rồi quẳng xác cậu ấy xuống vệ đường của nước Anh từ lâu rồi cũng nên. Cái tin nhắn đó biết đâu chỉ là trò đánh lừa, một nỗ lực điên dại nhằm ngăn chặn Amyus Crowe xen vào mà không có một thứ gì bảo đảm cả.
Sherlock rầu rĩ quay lại, đi dọc theo tay vịn của boong tàu. Cậu buộc phải hỏi hướng đi từ một thủy thủ gặp trên đường. Đó là một người đàn ông gầy mặc bộ đồng phục hoàn hảo và mái tóc màu vàng óng cắt ngắn kiểu thủy thủ dưới chiếc mũ lưỡi trai. Định vị được rồi, cậu tiếp tục đi ngang qua đám đông hành khách phấn khích, băng qua hai cột khói và hai cột buồm như những thân cây khổng lồ, qua cả phòng sinh hoạt chung dài và thấp của khoang Hạng Nhất, nơi có những ô cửa sổ to nhìn thẳng ra boong tàu và cánh cung mũi tàu phía đằng sau. Làn bọt nước trắng xóa tung lên sau đuôi con tàu đang lướt đi trông như đuôi một ngôi sao chổi. Lũ chim biển lao chao bay theo, lao mình xuống dải nước dài để bắt những chú cá đang hoảng loạn và bị mất phương hướng.
Phía sau con tàu có một cầu thang nhỏ dẫn sâu xuống bên dưới. Đám đàn ông mặc đồ xoàng xĩnh đang tụ tập phía trên cầu thang để hút thuốc và đưa mắt nhìn theo những hành khách ăn mặc đẹp đẽ hơn. Sherlock đoán đây là những hành khách khoang hạng chót, họ chen chúc nhau bên dưới boong chính của tàu trong điều kiện thiếu vệ sinh và chật hẹp tù túng, ngủ trên những chiếc võng thô ráp hoặc trên những chiếc ghế dài, nhưng trả phí tàu thấp hơn rất nhiều so với vé của khách hạng sang. Những con người này đang hy vọng bắt đầu một cuộc sống mới tại nước Mỹ hơn là đi công tác hay du ngoạn như các du khách trên khoang Hạng Nhất hay Hạng Hai.
Chợt Sherlock cảm giác có ai đó cạnh bên. Trước khi quay lại, cậu đã biết ngay đó là Viginia.
“Phòng của cậu ở thế nào rồi?” cậu hỏi.
“Tốt hơn phòng tớ ở trên chuyến đến nước Anh lần trước,” cô trả lời. “Cha tớ sẽ nói với cậu rằng thức ăn và nơi ở tốt hơn, nhưng đừng để ông ấy đánh lừa cậu đấy. Bọn mình không bị đi vé hạng chót nhưng cũng không phải vé Hạng Nhất, và việc đi trên con tàu của Mỹ thay vì con tàu của Anh không có nghĩa là mọi thứ đều tự động tốt hơn được.”
“Người khách cùng phòng với cậu như thế nào?”
“Bà ta là một phụ nữ đứng tuổi góa chồng đang sang đoàn tụ với con trai, anh ta chuyển tới New York để sống cách đây năm năm. Bà ta có một người hầu đang ở khoang dành cho người giúp việc. Bà đang tính đọc Kinh Thánh và sẽ đọc xong nó khi chúng ta đến được New York. Tớ đã chúc bà ta may mắn.”
“Cậu có muốn đi dạo một vòng trên boong tàu không?” cậu rụt rè hỏi.
“Tại sao không? Chúng ta cũng nên làm quen với chỗ này đi chứ. Vì dù sao mọi người cũng có tám ngày gắn bó với nó mà.”
Họ đi lên dọc theo sườn tàu bên kia cho đến khi chạm nơi Sherlock mới vừa đi một mình về. Khi đến khu nhà sinh hoạt chung của khoang Hạng Nhất, Sherlock ra dấu cho Virginia dừng lại.
“Tớ muốn nhìn vào bên trong một chút xíu,” cậu nói.
Cánh cửa được thiết kế theo kiểu tự bật đóng lại, có lẽ để ngăn cho nó không bị gió giật tung liên tục. Sherlock đẩy nó mở ra và ghé mắt nhìn vào. Căn phòng hoàn toàn vắng vẻ trừ hai người phục vụ mặc đồ trắng đang đặt dao nĩa dọc theo cái bàn dài nằm choáng hết căn phòng. Có đến năm mươi cái ghế hay hơn thế nữa được đặt xung quanh bàn - có lẽ đúng với số hành khách của khoang Hạng Nhất. Hai người phục vụ ngước lên nhìn cậu, khẽ gật đầu chào rồi lại tiếp tục công việc của họ.
Căn phòng được viền gỗ màu tối, và ốp kính xung quanh tường để làm tăng cảm giác về chiều sâu. Nơi nào không có kính thì sẽ có những bức tranh nghệ thuật được treo trên vách gỗ cùng với những cây đèn dầu cũng được móc vững chắc bên cạnh.
“Vậy là chúng ta sẽ ăn ở đây đúng không?” cậu nói.
Virginia gật đầu. “Tất cả mọi người sẽ cùng ăn ở đây,” cô đáp. “Nó cũng giống y hệt con tàu mà tụi mình đã đi đến đây.”
“Vua chúa và các phu nhân sẽ hòa nhập cùng các nhà tư bản và các ông bầu nghệ thuật,” cậu tiếp lời. “Rất dân chủ. Thượng lưu gì rồi cũng phải chung đụng với thường dân cả thôi.”
“Sẽ không có dịch vụ tận phòng đâu,” Virginia đồng tình. “Mọi người sẽ ăn tại đây, nếu không ăn thì thôi.”
Một trong hai người phục vụ bắt đầu đặt thẻ bảng tên xung quanh bàn ăn. Sherlock đang tự hỏi không biết việc lo lót của Mycroft có hiệu quả gì không. Bây giờ người ta đã sắp đặt chỗ ngồi hết rồi. Có khi nào cho dù đã được lo lót trước nhưng bọn họ vẫn bị ngồi ngay góc xa nhất, không gần Thuyền trưởng và cửa ra vào, mà gần ngay khu máy móc, và chẳng biết làm gì ngoài việc than thở ỉ ôi. Sherlock nghĩ có thể họ sẽ được người quản lý chiếu cố - vì ông ta đã nhận đút lót rồi cũng nên.
Sherlock bước lui lại và để mặc cho hai cánh cửa đóng sập sau lưng. Có một chuyển động lướt qua. Cậu liếc nhìn theo, cuối căn phòng sinh hoạt chung Hạng Nhất có một lối đi nhỏ, xa xa là cột ống khói gần nhất. Một bóng người vừa mới mất hút vào lối đi ấy. Cậu không thể nhận ra là ai - thủy thủ hay hành khách, vì cậu thật sự không biết chắc. Điều duy nhất cậu thấy được là ánh mặt trời hắt lên màu xanh phản quang xung quanh cổ tay khi người đó lẩn vào bóng tối. Có thể là một gấu tay áo màu xanh dương? Cậu không chắc lắm.
Cậu nhanh chóng chạy dọc theo đến cuối căn phòng và nhìn dáo dác xung quanh, nhưng lối đi hoàn toàn trống vắng. Có một cái cửa hầm dẫn xuống bên dưới con tàu. Kẻ đang theo dõi bọn họ đã trốn mất, nhưng Sherlock biết rằng sự việc không chỉ có thế. Đây là lần thứ hai cậu phát hiện ra có ai đó đang bí mật theo dõi mình. Có ai đó trên con tàu này để ý đến họ, và đó chỉ có thể là một chuyện.
Những tên người Mỹ bắt cóc Matty đã cài người lên trên con tàu này.