CHƯƠNG 8
Những sinh hoạt thường nhật của chuyến hải trình đến New York được hình thành chỉ trong tám tiếng đồng hồ đầu tiên, theo nhận định của Sherlock. Mặc dù kích thước con tàu trông rất bề thế, nhưng diện tích dành cho hành khách đi lại thì rất hạn chế. Người ta chỉ biết đi lên boong tàu, đến phòng ăn, giải trí tại phòng hút thuốc hay thư viện và nói vài dăm câu chuyện với khách đồng hành về sự yên lặng bất thường của thời tiết, tất cả chỉ có thế. Nếu không dùng bữa thì hầu hết mọi người thích đi dạo một mình trên boong tàu, ngồi đọc sách trên một chiếc ghế thật thoải mái, hoặc tụ tập lại thành từng nhóm nhỏ ở những cái bàn trong phòng hút thuốc hoặc trong quán bar để chơi bài. Khi mặt trời lặn, những người phục vụ sẽ đi xung quanh con tàu để thắp đèn dầu, nhưng để lửa thật nhỏ, và mọi người lần lượt lui về phòng mình ngủ.
Sherlock dành những giờ đồng hồ đầu tiên để ngắm nhìn xứ sở của mình lùi xa dần đến khi nó chỉ còn là một chấm đen nơi chân trời. Cậu vuột mất giây phút nó thật sự biến mất. Chắc cậu đã nháy mắt, hoặc bận ngoảnh đi nhìn cái gì khác, nhưng mới đó nước Anh vẫn còn trong tầm mắt vậy mà giây sau con thuyền đã trơ trọi giữa bao la biển nước đại dương, thẳng tiến về hướng mặt trời lặn và điều duy nhất cho thấy họ đang di chuyển chính là vệt nước trắng xóa trải dài phía sau.
Cậu, Amyus Crowe và Virginia lúc này đang ăn tối cùng các hành khách khác trên tàu. Trong lúc Amyus Crowe nói chuyện vui vẻ với mọi người xung quanh, Sherlock lại thấy mình không có gì để nói cả. Cậu ăn phần của mình và quan sát mọi người, tự hỏi không biết họ là ai, họ đến từ nơi nào và họ đang đi đâu. Amyus Crowe đã từng dạy cậu một số cách nhận biết nghề nghiệp của một con người - những vết dơ nơi tay áo, các vết mòn sờn trên áo khoác, những cục chai sạn trên tay - và cậu chắc chắn có thể xác nhận được trong nhóm người đó có một người làm kế toán và hai người khác là huấn luyện viên ngựa.
Thuyền trưởng Charles Henry Evans Judkins là một người đàn ông cao ráo với bộ râu quai nón trắng toát ôm trọn khuôn mặt thật ấn tượng. Bộ đồng phục của ông thật hoàn hảo, đen tuyền, thẳng tắp và được trang trí bằng những đường viền vàng rực; ở ông toát ra một phong thái quân đội chính trực. Ông thật sự thu hút tất cả các quí bà, những người luôn xúng xính những bộ trang phục đẹp nhất chỉ dành cho dịp trang trọng. Ông say sưa kể lại cho mọi người nghe những câu chuyện lạ lùng xảy đến với mình trong thời gian làm việc tại Cunard Line. Những câu chuyện gây ấn tượng nhất liên quan đến các loài sinh vật như cá heo, loài mực khổng lồ mà thỉnh thoảng vẫn xuất hiện xa xa, những cơn bão mạnh thường xuất hiện nơi chân trời như những bức tường đen và có thể quẳng bất cứ một con tàu nào vào những đợt sóng lớn đến nỗi đôi khi cả boong tàu dường như bị đưa lên thẳng đứng như vách núi. Judkins có tài kể chuyện hay như một nghệ sĩ kịch nói. Mọi người bị ông thu hút đến nỗi cho rằng cuộc hải trình này là một trải nghiệm nguy hiểm và may mắn lắm họ mới có cơ hội sống sót. Nhưng Sherlock nhận thấy ông chỉ đang diễn và dùng cách ấy gây ảnh hưởng đến cảm nhận về chuyến đi của mọi người cho đến cuối cuộc hành trình. Nói tóm lại, nếu ông nói với họ rằng chuyến đi chỉ xoàng xĩnh như một buổi tản bộ thì hành khách biết lấy gì để kể với bạn bè của họ khi họ xuống tàu chứ?
Có một câu chuyện đặc biệt thu hút Sherlock là khi Judkins đề cập đến việc người ta đã cố gắng nhiều lần đặt cáp dưới lòng Đại Tây Dương, nhằm nối hệ thống giao dịch điện tín giữa Ireland với Newfoundland. Nếu điều đó xảy ra thì một bức điện tín thay vì phải mất hơn cả tuần được chở bằng tàu từ nước này sang nước khác trong một cái giỏ bưu tín, thì nay chúng có thể được chuyển đi hầu như ngay lập tức bằng xung điện. Ý tưởng về giao tiếp bằng điện tín làm Sherlock mê mẩn - cậu hầu như đã thấy được điều đó, sau khi chứng kiến những điều xảy ra trong căn lều của Amyus Crowe, rằng các chữ cái của một bức thư có thể được thay thế bằng những mã số để được đánh đi một cách dễ dàng qua xung điện - có thể là những xung điện dài và ngắn, hoặc đơn giản chỉ là sự “tắt” và “mở”, nhưng cái ý tưởng đặt cáp cho cả một quãng đường dài khoảng ba ngàn dặm từ bờ biển này sang bờ biển kia, xuyên qua đáy đại dương mà không làm cho nó bị căng vỡ, làm đầu óc của Sherlock như chùn lại. Liệu có điều gì mà con người không làm được một khi họ đã quyết tâm thực hiện? Phương pháp đầu tiên được áp dụng, theo lời Judkins, là sẽ có hai con tàu cùng xuất phát tại một điểm của Đại Tây Dương và bắt đầu đặt cáp theo hai hướng khác nhau đến khi họ chạm được bờ. Nhưng cách đó ngay lập tức gặp vấn đề khi thủy thủ đoàn cố bện cáp lại với nhau thì một cơn bão nổi lên. Những lần đặt cáp tiếp theo được tiến hành bằng cách các con tàu xuất phát từ Ireland hướng về Newfoundland, vừa đi vừa rải cáp, nhưng cáp lại hay gãy và cần được đào lên để sữa chữa thì công việc mới tiếp tục được.
“Tôi nhớ có một lần,” Judkins nói bằng một tông giọng thấp và trầm, “khi một sợi dây cáp bị gãy được đào lên từ lòng đại dương sâu hoắm, có một loài sinh vật đã bám theo!” Ông liếc qua bàn, cặp mắt sáng rực dưới đôi mày rậm rạp, trong khi mọi người đang há hốc mồm nuốt từng lời của ông. “Loài sinh vật ấy trông xấu xí như một con sâu nước, nếu muốn gọi nó bằng một cái tên; thân nó màu trắng, nhưng lại dài tận nửa mét và có mười bốn cặp chân đang bám chặt vào sợi dây cáp và nhất quyết không nhả sợi dây ra. Nó vẫn còn sống khi người ta kéo sợi dây lên boong tàu, nhưng sau đó thì chết ngay vì bị tách khỏi môi trường sống tối đen thăm thẳm quen thuộc dưới lòng đại dương.”
Một người phụ nữ không kìm được tiếng kêu thảng thốt. “Theo như lời của mọi người có mặt lúc ấy,” Judkins tiếp tục nói, “thì loài vật đó nếu đem đi nấu sẽ có vị ngon như tôm hùm vậy.”
Các thính giả của ông lúc này mới thở phào nhẹ nhõm bật lên cười. Sherlock bắt gặp ánh mắt của Amyus Crowe.
Ông Crowe cũng đang mỉm cười.
“Chú cũng đã từng nghe những câu chuyện tương tự vậy,” ông Crowe thì thầm đủ to để Sherlock nghe. “Người ta gọi nó là “con đẳng túc”. Nó giống như tôm vậy, nhưng điều kiện sinh thái dưới đáy đại dương làm cho kích cỡ của nó to như vậy đó.”
Nhân viên đang phục vụ tại một góc bàn - nơi gần chỗ Thuyền trưởng ngồi, như lời hứa của Mycroft, là một người đàn ông gầy với mái tóc húi cua màu vàng óng. Anh này đã từng giúp chỉ hướng cho Sherlock mới đây. Anh ta gật đầu chào Sherlock khi vươn tay ra đặt một dĩa xúp xuống trước mặt người đàn ông ngồi đối diện cậu.
Không có tôm hùm, điều này có thể là một điều may.
Sau buổi ăn tối Sherlock về phòng ngủ, còn Amyus Crowe ở lại quầy bar một mình, và khi Amyus về lại phòng thì Sherlock đã say giấc nồng trên chiếc giường tầng tự thuở nào rồi. Khi cậu tỉnh dậy và sẵn sàng cho bữa sáng thì ông Crowe đã rời đi từ lâu. Sức khỏe ông ấy có vẻ vẫn tốt mặc dù ông ngủ cực kỳ ít.
Mặc dù các món ăn được nấu trên một con tàu chật chội lênh đênh trên biển nhưng chúng vẫn ngon tuyệt vời. Một trong những niềm vui của hành khách trong ngày là mong chờ xem thực đơn sẽ có món gì mới cho điểm tâm, hay bữa ăn trưa và ăn tối. Tất cả mọi thứ dĩ nhiên đều rất tươi ngon - vì việc để dành thức ăn làm sẵn lâu dài là một điều rất khó - nhưng cho dù số lượng gia cầm được nuôi có vơi đi trong suốt cuộc hành trình thì trên tàu hoàn toàn không có một vết tích nào của việc giết thịt - không hề có vết máu vương vãi, không một tiếng kêu la thảm thiết của bất cứ một con vật nào. Thủy thủ đoàn rõ ràng đã duy trì được một cách xử lý vô cùng khéo léo trong việc này.
Ngày đầu tiên trên tàu trời thật trong và xanh, những con sóng dập dờn vỗ vào mạn tàu vừa đủ nhẹ so với kích thước của tàu và không làm cho nó chòng chành nghiêng ngã một tí nào. Shelrock đã từng đọc rất nhiều câu chuyện về những cơn bão biển, và cậu còn nghe lóm được nhiều chuyện làm người nghe sợ chết khiếp về những trận biển động dữ tợn trên Đại Tây Dương với những con sóng khổng lồ vươn cao sừng sững trước khi đổ ập xuống, tràn quét tất cả súc vật trên boong tàu. Nhưng tới tận giờ thì đại dương vẫn còn khá êm ả đến nỗi người ta còn có thể chọn một khu vực vắng vẻ nào đó để chơi bóng gỗ với nhau.
Trên boong tàu, những hành khách khoang hạng bét luôn có khu vực riêng dành để đi lại và giặt giũ. Đó là phạm vi xung quanh đầu cầu thang dẫn xuống nơi tăm tối với những chiếc võng được treo khắp nơi. Thỉnh thoảng mùi thân thể người đặc quánh xộc lên làm cay cả mắt. Việc không có gió trời và không thể thấy bầu trời xanh trong cùng chân trời mênh mông có thể là môi trường thuận lợi gây ra bệnh tật. Khi những hành khách dưới đó lên trên boong tàu, họ hay quan sát các khách Hạng Nhất bằng con mắt có chút ghen ghét hoặc họ chỉ nhìn chăm chăm về phía boong tàu với vẻ mệt mỏi rã rời. Cứ mỗi lần Sherlock đi ngang qua họ cậu đều thầm cám ơn Chúa về việc Mycroft đã cho họ đi Hạng Nhất. Cậu không biết liệu mình có thể sống sót ở khoang hạng chót hay và không thể tin được làm sao mà người ta lại có thể chịu đựng được như thế.
Hai bánh xe guồng khổng lồ bên mạng tàu hoạt động liên tục do được điều khiển bởi động cơ máy nước mà ai cũng có thể cảm nhận được sự rung chuyển của cỗ máy khi đặt tay lên bất cứ bề mặt gỗ nào của con tàu. Những cái mái chèo được gắn đều xung quanh guồng sẽ lao mạnh xuống mặt biển khi guồng xoay để đẩy con tàu về phía trước. Thuyền trưởng đã ra lệnh buông buồm xuống ngay khi Southampton khuất xa nơi chân trời, nhưng cái cách chúng rũ xuống cho thấy rằng gió không đủ mạnh để đẩy con thuyền đi nhanh.
Lạ kỳ ở chỗ, sau bữa ăn sáng của ngày đầu tiên cậu rất ít thấy Amyus và Virginia Crowe. Cô bé có vẻ thờ ơ và luôn ở lì trong phòng, trong khi cha cô dành hầu hết thời gian để thỉnh thoảng sang hỏi thăm cô hoặc là ủ mình trong phòng của Sherlock. Có điều gì đó làm cô ấy bận tâm. Hồi tưởng lại, Sherlock cố gắng nhớ xem liệu Virginia có đề cập chuyện gì khác đến chuyến đi từ Mỹ sang Anh không ngoài chuyện họ đã không ở Hạng Nhất và cũng không ở hạng bét. Cậu có cảm giác cô đã nói một điều gì đó rất quan trọng khi họ mới gặp nhau nhưng cậu không thể nhớ nổi.
Ở đâu đó phía cuối con tàu Sherlock nghe văng vẳng tiếng nhạc. Cậu xoay người khỏi tư thế đang ngắm sóng của mình, tìm xem tiếng nhạc vang lên từ đâu. Tiếng nhạc du dương, nhẹ nhàng như cánh chim biển rượt theo dải nước trắng của con tàu, chao liệng trong không trung với đôi cách xoãi ngang không màng đập. Tiếng đàn vang lên với giai điệu dồn dập trước khi chững lại ở nốt cao nhất, sau đó lại tuôn trào những khúc trầm mặc du dương.
Rời khỏi nơi đang đứng bên cạnh lan can tàu, Sherlock đi ngược lại về hướng đuôi tàu, tìm kiếm nơi tiếng nhạc phát ra. Thật là một khoảnh khắc tiêu khiển quí giá, vì bất cứ điều gì phá vỡ sự đơn điệu nhàm chán của ngày đều đáng được tìm hiểu và trân trọng.
Đi qua phòng sinh hoạt trên boong, cậu thấy một người đàn ông đang đứng chơi vĩ cầm ở một góc vắng vẻ thoáng mát. Cậu nhớ đã gặp anh này từ ngày hôm qua, khi con tàu rời Southampton - người có mái tóc đen dài và đôi mắt xanh lục. Anh ta vẫn mặc cái áo khoác và quần nhung kẻ, có thể anh đã thay chiếc áo sơ mi bên trong. Kẹp chặt cây đàn vào cổ, đầu anh hơi nghiêng nghiêng, cằm ghì sát thân đàn một cách chắc chắn trong khi các ngón tay trái nắm ngay cổ đàn và tay phải lướt cây cung làm bằng lông ngựa trên những sợi dây thanh mảnh. Đôi mắt anh nhắm nghiền và khuôn mặt toát lên sự tập trung cao độ. Sherlock chưa bao giờ được thưởng thức một bản nhạc như thế: nó hoang dại, lãng mạn và đầy nổi loạn, không hề theo thứ tự hay lô-gic như những bản nhạc của Bach hay Mozart mà cậu thường nghe trong những buổi hòa nhạc tại trường nam sinh Deepdene.
Có rất nhiều hành khách đang tụ tập xung quanh người đàn ông, lắng nghe anh đàn với nụ cười hơi giễu cợt trên môi. Sherloch đứng xem, thưởng thức cảnh anh ta say sưa đánh đoạn cao trào, kéo một nốt thật dài, và dừng lại. Trong chốc lát anh vẫn ghì cằm tựa vào cây đàn, mắt vẫn nhắm và nở một nụ cười, sau đó anh buông đàn xuống, mở mắt ra. Đám đông vỗ tay và anh cúi chào. Sherlock để ý thấy cái hộp đựng đàn đang để mở trên boong trước mặt anh ta, có vài người khách quẳng vào đó một ít tiền xu trước khi tản đi.
Lát sau chỉ còn lại mỗi chàng trai chơi đàn và Sherlock. Anh nhạc công cúi xuống vốc những đồng tiền xu ra khỏi cái hộp và ngước lên nhìn Sherlock.
“Cậu có thích không, anh bạn của tôi?”
“Em rất thích. Nếu có tiền em đã đưa cho anh rồi.”
“Không cần phải thế đâu.” Anh đứng thẳng lên sau khi đã đặt cây vĩ cầm vào trong hộp. “Tiền này phụ tôi trả chút đỉnh phí tàu, tiền tiêu vặt, và có thêm chút dư để làm vài ly, nhưng tôi không phải chơi để kiếm sống. Ít nhất không phải trên con tàu này. Dù sao thì tôi cũng cần phải luyện tập, nhưng bạn cùng phòng với tôi lại có vẻ không thích bất cứ thứ gì ngoài điệu nhảy pônca của Đức cả.”
“Bản nhạc đó tên gì vậy anh?” Sherlock hỏi.
“Nó là một bản hòa tấu mới được viết riêng cho vĩ cầm ở quãng G bởi một nhà soạn nhạc người Đức tên Max Bruch. Tôi gặp ông ấy ở Koblenz năm ngoái. Ông ta cho tôi một bản sao của bài nhạc. Từ đó tới giờ tôi đang luyện cho thật hay. Tôi nghĩ một ngày nào đó nó sẽ là một bản kinh điển của tất cả các nhạc công vĩ cầm cổ điển.”
“Điều đó thật tuyệt.”
“Ông ấy sử dụng một vài ý tưởng từ tác phẩm của Felix Mendelssohn, nhưng ông tô điểm thêm cho chúng bằng những tinh hoa đặc biệt của riêng mình.”
“Vậy anh là một nhạc công chuyên nghiệp phải không?”
Anh ta mỉm cười; một nụ cười tự nhiên, dễ gần, khoe trọn hàm răng trắng khỏe.”Thỉnh thoảng thôi,” anh nói. “Tôi có thể làm nhiều nghề, nhưng tôi thích được gần bên cây vĩ cầm hơn. Tôi chơi cho dàn nhạc giao hưởng của nhà hát thính phòng và nằm trong nhóm tứ tấu của các phòng trà cao cấp, tôi còn chơi nhạc kiếm sống bên vệ đường và tháp tùng các ca sĩ đi hát tại các phòng nhạc trong cảnh bia bọt bay vèo vèo qua đầu và bể tan tành trên sân khấu. Tên tôi, tiện thể xin giới thiệu luôn, là Stone. Rufus Stone.”
“Em tên Sherlock Holmes.” Sherlock bước tới đưa tay ra. Rufus Stone nắm lấy và họ bắt tay nhau trong ít giây. Bàn tay của Stone chắc chắn và mạnh mẽ. “Có phải vì thế mà anh đi Mỹ không?” Sherlock tiếp tục. “Để chơi vĩ cầm?”
“Cơ hội hầu như đang cạn kiệt tại nước Anh rồi,” Stone đáp. “Tôi đang hy vọng rằng Thế giới mới có thể có đất dụng võ cho tôi, đặt biệt là sau khi bao nhiêu tinh hoa của họ đã bị giảm đi khá nhiều sau cuộc Nội chiến giữa các Tiểu bang.” Ánh mắt của anh ta dò xét khắp người Sherlock. “Cậu có dáng dấp của một người chơi vĩ cầm giỏi đấy. Tư thế thẳng đứng, các ngón tay dài. Cậu có biết chơi không?”
Sherlock lắc đầu. “Em không chơi nhạc cụ nào cả,” cậu thú nhận.
“Cậu nên chơi đi. Tất cả các cô gái đều yêu nhạc công.” Anh ta nghiêng đầu sang một bên, như thể vẫn còn kẹp cây vĩ cầm ở đó. “Vậy cậu có biết nhạc lý không?”
Sherlock gật đầu. “Em học ở trường. Chúng em có một đội hợp xướng, và phải hát vào mỗi buổi sáng.”
“Cậu muốn học chơi vĩ cầm không?”
“Em ư? Học chơi vĩ cầm sao? Anh có nói nghiêm túc không?”
Stone gật đầu. “Chúng ta còn cả một tuần nữa trước khi cập bến, và thời gian đó sẽ trôi qua chậm chạp kinh khủng nếu chúng ta không kiếm gì đó tự giải khuây. Khi đến New York tôi sẽ kiếm việc gì đó như làm giáo viên dạy vĩ cầm chẳng hạn. Và việc dạy ai đó chơi nhạc thật sự sẽ giúp tôi thực hiện kế hoạch này. Hiện giờ tôi có nhiều ý tưởng hay để làm điều đó, nhưng tôi chưa bao giờ hiện thực hóa nó cả. Vậy thì - Cậu nói gì nào? Cậu sẽ giúp tôi chứ?”
Sherlock suy nghĩ trong chốc lát. Cậu không biết chơi bài whist hay bridge, và lựa chọn duy nhất bây giờ là chăm chỉ dịch quyển
Nền Dân Chủ của Plato mà Mycroft đã đưa cho cậu. Việc này hấp dẫn hơn nhiều. “Em không thể trả công được,” cậu nói. “Em không có tiền.”
“Sẽ không có một gánh nặng tài chính nào đối với cậu cả. Cậu đang giúp tôi mà.”
“Trong một tuần anh có thể dạy em những gì?”
Stone suy ngẫm trong chốc lát. “Chúng ta có thể bắt đầu với dáng điệu,” anh nói. “Cách cậu đứng và cách cầm cây vĩ cầm. Một khi tôi vừa lòng với tư thế của cậu rồi thì chúng ta có thể tiếp tục với các kỹ thuật chỉnh sửa bằng tay phải như - détaché, legato, collé, martelé, staccato, spiccato và sautillé. Sau khi phần đó ổn rồi thì chúng ta lại tiếp tục với các kỹ thuật tay trái - cách buông và nâng ngón tay, cách lướt và rung réo rắt. Và tiếp sau đó là luyện tập, luyện tập, và luyện tập - luyện gam và hợp âm cho đến khi đầu các ngón tay nhức buốt thì thôi.”
“Em chỉ có thể đọc nhạc lý thôi chứ em không nhận ra được nốt nhạc,” Sherlock thú thật. “Người điều khiển dàn hợp xướng nói rằng tai em bị điếc mất rồi.”
“Làm gì có chuyện đó,” Stone xác quyết. “Cậu có thể không hát được, nhưng tôi bảo đảm rằng tôi có thể luyện cho cậu một bài đến cuối tuần này để người ta sẽ thả tiền vào cho nữa kìa - ngay cả khi nó có thể chỉ là một bài nhạc nhảy của Đức. Cậu thấy sao?”
Shelrock cười toe toét. Đột nhiên chuyến hải trình có vẻ sẽ thú vị hơn cậu nghĩ rất nhiều. “Nghe có vẻ hay lắm,” cậu đáp. “Khi nào thì chúng ta bắt đầu?”
“Chúng ta bắt đầu ngay bây giờ đi,” Stone nói quả quyết, “và sẽ luyện đến bữa ăn trưa luôn. Giờ thì cầm cây đàn lên. Để xem tư thế của cậu như thế nào.”
Ba giờ đồng hồ sau đó, từ lúc sau bữa ăn sáng đến gần buổi ăn trưa, Sherlock đã học được cách đứng phù hợp, cách cầm cây đàn vĩ cầm và cách giữ cây vĩ như thế nào. Cậu thậm chí còn chơi được vài nốt, nghe như tiếng con mèo đang bị bóp nghẹt, nhưng Rufus (“Cứ gọi tôi là Rufus”, anh ta nói khi Sherlock gọi anh là ông Stone. “Khi cậu gọi tôi là “Ông Stone” nó làm cậu ra vẻ ông chủ nhà băng vậy, tôi không thích chút nào”) nói rằng không sao cả. Mục tiêu của buổi sáng hôm nay, anh khẳng định, không phải là học đàn để nghe như thế nào mà là học cách cảm nhận nó trước. “Tôi muốn cậu thả lỏng, nhưng luôn sẵn sàng. Tôi muốn cánh tay, những ngón tay và vai của cậu cảm nhận được cách giữ cây đàn như thế nào cho đúng. Tôi muốn cậu cảm thấy cây đàn như một bộ phận mới được thêm vào trên thân thể cậu cho đến khi chúng ta hoàn thành khóa học.”
Đến cuối buổi, người Sherlock đau nhức khắp nơi đến nỗi cậu không nghĩ ra rằng mình có cơ bắp nữa, cổ cậu co cứng và các đầu ngón tay tê dại vì ấn các dây đàn. “Em hầu như chỉ đứng ở một chỗ thôi!” cậu thốt lên. “Sao em lại cảm thấy như mới chạy đua về vậy nhỉ?”
“Tập thể dục không nhất thiết là phải di chuyển,” Rufus đáp. “Nó phụ thuộc vào sự căng thẳng và thả lỏng của các cơ. Có bao giờ cậu thấy anh nhạc công nào mập không. Đó là vì mặc dù họ ngồi hay đứng một chỗ, các cơ trên người họ vẫn liên tục làm việc.” Anh dừng lại, mặt khẽ nhăn. “Trừ người chơi nhạc cụ gõ ra,” cuối cùng anh cũng nói. “Họ rất mập.”
“Tiếp theo chúng ta sẽ làm gì?”
“Tiếp theo,” Rufus nói, “chúng ta đi ăn trưa.”
Trong lúc Rufus đem cây đàn về phòng mình, Sherlock đi tìm Amyus Crowe. Người đàn ông Mỹ đi ra từ nơi ẩn dật, nhưng không thấy bóng dáng của Virginia ở đâu cả. Khi tất cả bọn họ đều cùng ngồi vào bàn ăn chung, Sherlock giới thiệu ông Crowe với Rufus Stone.
“Rất vui được làm quen với anh,” ông Crowe nói, bắt tay Rufus. “Anh là một nhạc công, theo như tôi cảm nhận được. Một nhạc công chơi vĩ cầm.”
“Ông nghe tôi nói à?” Rufus nói, mỉm cười.
“Không, nhưng anh có vết bụi rất mới trên vai. Theo kinh nghiệm của tôi thì bụi trên áo khoác của một người đàn ông nằm trong ba trường hợp: anh ta là giáo viên, chơi bi da hoặc chơi vĩ cầm. Mà theo như tôi biết thì không hề có cái bàn bi da nào trên tàu cả, và tôi cũng không nghĩ là trẻ con trên tàu này đông đến nỗi phải lập ra cả một lớp học.”
Sherlock kiểm tra vai áo mình. Đúng là có một ít bụi đánh bóng trên đó. Cậu dùng ngón cái và ngón trỏ phủi xuống. Đó là thứ bụi màu nâu hổ phách và hơi dinh dính. “Không phải là bụi phấn,” cậu nói. “Nó là gì vậy nhỉ?”
“Nhựa thông,” Rufus đáp.
“Một loại nhựa thông,” ông Crowe cắt ngang, “được các nhạc công gọi là “rosin”. Nó được chiết xuất từ cây thông và được nấu lên, lược đi trước khi được nhồi thành bánh, như cục xà phòng vậy. Các nhạc công chơi vĩ cầm dùng nó để chà lên dây đàn. Sự kết dính của nhựa thông giữa các sợi đàn và dây đàn sẽ tạo ra sự ngân vang. Dĩ nhiên, nhựa thông sẽ khô đi và chuyển thành bụi bám lên vai áo, nơi nó được đặt gần nhất trên cơ thể người chơi.” Ông liếc nhìn áo của Sherlock và cau mày. “Cháu cũng mới vừa chơi đàn xong. À không, cháu mới học chơi đàn thôi.”
“Rufus - ý cháu là ông Stone - đang dạy cháu chơi.”
“Tôi chả bao giờ để tâm đến âm nhạc cả.” Giọng ông Crowe rền rền. “Thứ nhạc duy nhất mà tôi biết là Quốc Ca, vì cứ trước mỗi trận đấu các cầu thủ luôn phải đứng dậy hát.” Ông liếc nhìn Sherlock từ cặp mắt thấp thoáng bên dưới hàng lông mày rậm rạp. “Chú định tiếp tục các bài dạy của mình khi chúng ta ở trên tàu, nhưng Virginia cảm thấy không được ổn lắm với chuyến đi.” Ông lắc lắc đầu. “Chú không nhớ là chú đã đề cập chuyện này chưa nhưng mẹ con bé - tức vợ chú - đã qua đời trên chuyến vượt đại dương vừa rồi của chúng tôi. Đó là chuyến đi từ New York đến Liverpool. Ký ức này quá nặng nề với con bé. Và cả chú nữa.” Ông thở dài. “Ký ức là một điều gì đó rất buồn cười. Người ta có thể lùa ký ức về chuyện gì đó sang một bên và lơ nó đi, nhưng đôi khi chỉ cần một chi tiết nhỏ nhặt nhất cũng làm nó bùng lên dữ dội. Thường thì mùi thơm và âm thanh có tác dụng gợi nhớ lại nhanh nhất. Ginnie đã không còn nhắc đến mẹ nó trong một thời gian, nhưng mùi vị biển và mùi của con tàu đã làm ký ức về mẹ nó ồ ạt tràn về.”
“Cháu rất lấy làm tiếc,” Sherlock nói. Câu nói đó có lẽ vẫn chưa đủ, nhưng cậu không thể nghĩ được gì khác để nói cả.
“Những chuyện xấu đều có thể xảy ra với bất cứ ai,” ông Crowe nói. “Con người nên chấp nhận sự thật đó như một phần không thể tránh.” Ông lại thở dài. “Chú nghĩ là cháu sẽ giết thời gian với việc dịch quyển sách anh trai đưa,” ông nói. “Và chú sẽ cố sắp xếp một hay hai tiếng để giảng giải cho cháu về những điều mắt thấy tai nghe trên con tàu này, nhưng xem ra không có gì thích hợp cả. Thôi thì tất cả thời gian còn lại là của cháu. Cứ sử dụng theo ý thích của mình.”
Cả buổi ăn sau đó diễn ra trong im lặng ngột ngạt. Ngay khi giờ ăn kết thúc, Sherlock xin phép cáo lui. Cậu có cảm giác mình đã làm Amyus Crowe thất vọng, và cậu không muốn làm nó tăng lên nếu lại tiếp tục học đàn vĩ cầm ngay sau đó. Theo cách Rufus Stone khẽ gật đầu đồng ý khi cậu cáo lui, cậu nghĩ rằng anh cũng đã hiểu.
Cậu ngồi cả tiếng đồng hồ trên chiếc ghế ở boong tàu, đọc lướt qua những dòng chữ Hy Lạp khó nhai của quyển
Nền Dân Chủ của Plato. Quá trình chuyển tải từ tiếng Hy Lạp sang tiếng Anh diễn ra trong đầu cậu khó nhọc đến nỗi cậu chẳng thể hiểu được mình đang đọc gì - cậu biết nghĩa từng từ, nhưng đến khi kết thúc một câu cậu lại mất dấu không biết nó bắt đầu từ đâu và nghĩa là gì.
Cậu nhìn lên, trong lúc đang vật lộn với một ngoại động từ cực kỳ khó, thì thấy một người phục vụ mặc đồng phục trắng đang đứng bên cạnh mình với cái khay. Đó chính là anh chàng đã chỉ đường cho cậu và phục vụ buổi ăn tối đêm hôm trước.
“Cậu có muốn dùng gì không?” người phục vụ hỏi.
“Một quyển tự điển tiếng Hy Lạp được không?”
Khuôn mặt nhiều nếp nhăn và rám nắng của anh ta không thay đổi. “Tôi e là,” anh ta nói, “tôi không giúp được cậu việc này rồi, thưa cậu. Chúng tôi đúng là có một thư viện trên tàu, nhưng tôi không nghĩ là có một quyển tự điển tiếng Hy Lạp trên kệ - đặc biệt lại là tự điển Hy Lạp cổ, loại mà tôi nghĩ là cậu đang cần.”
“Anh biết hết tất cả các quyển sách trong thư viện sao?” Sherlock tò mò.
“Tôi đã gắn bó với chiếc tàu này từ lúc nó được hạ thủy lần đầu tiên,” người phục vụ trả lời. “Tôi không chỉ biết hết tất cả sách trong thư viện, mà tôi còn nhớ hết tất cả các loại cocktail trong thực đơn, từng miếng ván trên boong và từng chiếc đinh tán trên thân tàu, vâng còn gì không ạ?” Anh ta gật gật đầu. “Tên tôi là Grivens thưa cậu. Nếu cậu còn cần gì khác thì cứ hỏi.”
Ánh nhìn của Sherlock đang bị thu hút bởi cánh tay đang giữ cái khay. Nó được xăm hình từ cổ tay trở lên, và mất hút dưới tay áo của anh ta. Hình xăm đó có hình thù như một cái cân nhỏ, được phủ một màu xanh ánh vàng nhè nhẹ có thể ánh lên dưới ánh mặt trời.
Cái màu sắc này Sherlock đã từng thấy trên cổ tay của người theo dõi cậu trong bóng tối ngày hôm trước. Có trùng hợp quá chăng?
Grivens bắt gặp được ánh nhìn chăm chú của Sherlock. “Có chuyện gì không, thưa cậu?”
“Xin lỗi.” Sherlock nghĩ thật nhanh. Việc cậu phát hiện ra điều gì đó lạ lùng coi như đã quá rõ ràng rồi, nhưng cậu vẫn cố vớt vát che giấu hành động của mình. “Chỉ là tôi chú ý đến... cái hình xăm của anh. Anh trai tôi... cũng có một cái y như thế.” Trong đầu cậu cũng nghĩ ngay đến lời xin lỗi Mycroft, người cuối cùng trên thế giới này Sherlock cho là chịu khắc một hình xăm lên người. Người tiếp theo có thể là thím Anna.
“Tôi xăm nó ở Hong Kong,” Grivens giải thích. “Trước khi tôi làm việc trên Scotia.”
“Nó thật đẹp.”
“Người thợ xăm nó là một ông già nhăn nheo người Trung Quốc sống ở ngõ hẻm phía sau một khu chợ ở Kowloon,” người phục vụ tiếp tục nói. “Nhưng ông ta cực kỳ nổi tiếng trong giới thủy thủ trên khắp thế giới. Tôi cá là không ai có thể sánh bằng ông, cho dù bất cứ ở nơi nào. Màu sắc ông dùng không ai pha trộn được. Mỗi khi tôi nhìn thấy một hình xăm mà ông khắc cho một thủy thủ nào đó, hoặc nếu họ nhìn thấy hình xăm của tôi, chúng tôi lại gật đầu chào nhau vì biết rằng hình xăm của chúng tôi đều từ một lò của người đàn ông Trung Quốc mà ra cả. Nó giống như một câu lạc bộ vậy, cậu có nghĩ thế không?”
“Tại sao có nhiều thủy thủ xăm hình thế?” Sherlock hỏi. “Tôi thấy tất cả các thủy thủ đoàn đều có một hình xăm nào đó, và không hình nào giống nhau cả.”
Grivens nhìn sang hướng khác, trông ra đại dương. “Đó là điều chúng tôi không muốn đề cập đến, thưa cậu” anh ta nói. “Đặc biệt là với hành khách. Cái chính là, xin lỗi trước nếu tôi có phần khiếm nhã, nếu có một vụ đắm tàu xảy ra thì cũng phải mất một thời gian xác của các thủy thủ mới bị đánh dạt vào bờ - giả sử nếu chuyện đó xảy ra. Có những trường hợp xác của họ không thể nhận dạng được, ngay cả đối với người thân nhất. Đó là vì tác động của muối biển, thời tiết khắc nghiệt và các loài cá nước sâu, nếu cậu hiểu ý tôi. Nhưng các hình xăm sẽ tồn tại lâu hơn một chút. Một hình xăm vẫn có thể được nhận ra dù khuôn mặt đã mất đi từ lâu. Việc xăm mình đã bắt đầu từ những lý do như thế - dùng để nhận dạng. Nó đem lại cho chúng tôi chút an ủi vì biết rằng dù chúng tôi có ra đi thì ít nhất gia đình chúng tôi cũng có cơ may tìm thấy xác mà đem về chôn cất.”
“Ồ ra là vậy.” Sherlock gật gù. “Điều đó thật có lý. Cám ơn anh.”
Grivens gật đầu đáp lại. “Luôn luôn sẵn sàng phục vụ thưa cậu. Cậu định ở đây thêm chút nữa chứ?”
“Anh còn chỗ nào cho tôi đi không?”
“Tôi sẽ quay lại sau vậy. Để xem cậu có cần gì khác nữa không.”
Anh ta rời đi, tìm kiếm những hành khách khác để phục vụ và để Sherlock lại trong hoang mang. Nếu đây chính là người đã theo dõi cậu từ trong bóng tối - giả định là cậu đang bị theo dõi dựa vào một lần chạm trán và sự di chuyển của bóng người - thì tại sao anh ta lại quá quan tâm đến việc Sherlock có muốn ở lại trên boong hay không? Không lẽ anh ta muốn lục soát phòng cậu để tìm ra manh mối nào? Hay là anh ta đang có ý định theo dõi Amyus Crowe và Virginia? Cho dù câu trả lời là gì đi nữa thì Sherlock cũng không thể ở lại. Cậu nhanh chóng đứng dậy và đi dọc theo lan can tàu, xuống cầu thang để về lại phòng mình.
Cánh cửa phòng đang mở hờ. Có phải người phục vụ đang kiếm tìm thứ gì, hay là Amyus Crowe đang ở bên trong?
Sherlock tiến đến gần hơn, cố nhìn vào bên trong qua khe hở để xem chuyện gì đang xảy ra. Nếu đó chính là Grivens thì cậu nên nhanh chóng đi tìm Amyus và kể lại những chuyện đang xảy ra.
Đột ngột Sherlock bị đẩy mạnh từ phía sau. Cậu ngã chúi vào phòng. Thêm một cái đẩy nữa làm cậu ngã sõng xoài lên sàn nhà, chỉ kịp xoay đầu để né cạnh giường. Sherlock thấy mặt mình rát nóng vì đập vào thảm. Cậu quay đầu lại nhìn ra cửa.
Grivens đóng cửa lại sau lưng. Đôi mắt xanh nhạt của hắn đột nhiên sắc lạnh như đá.
“Mày nghĩ là mày thông minh hử?” hắn nạt. Sherlock nín thở trước sự thay đổi đột ngột từ sự qui phục sang tức giận này. “Tao từng bẻ đôi nhiều tên khá hơn mày nữa kìa. Mày nghĩ là tao không nhận ra được là mày sẽ đi theo tao để xem tao có lục soát phòng mày không hả? Tao đã thấy mày để ý đến hình xăm của tao và qua cách nhìn tao biết mày đã nhận ra nó từ hôm qua, khi tao đang theo dõi ba đứa chúng mày. Vì vậy mà tao làm cho mày nghĩ là tao sẽ xét phòng và lừa mày vào đây.”
“Để làm gì?” Sherlock hỏi. Cậu cảm thấy khó thở trong tư thế nằm ụp trên nền nhà và quay đầu lại như thế này.
“Để quẳng mày khỏi con tàu này. Mày và sau đó là hai đứa kia.”
“Quẳng khỏi tàu?” Sherlock mất một hay hai giây để hiểu ra. “Ý anh - là quẳng tụi tôi đi ư? Xuống Đại Tây Dương sao? Nhưng mọi người sẽ phát hiện ra chúng tôi bị mất tích chứ!!”
“Thuyền trưởng có thể sẽ quay tàu lại để tìm kiếm bọn mày, nhưng cũng vô ích thôi. Chúng mày sẽ không sống sót nổi qua nửa giờ đồng hồ trên biển đâu.”
Đầu óc Sherlock đang suy nghĩ thật nhanh xem chuyện này xảy ra như thế nào. “Anh không thể dính líu trong chuyện này được. Anh không thể. Những tên mà bọn tôi đang theo đuổi không thể nào biết được bọn tôi đi con tàu nào - thậm chí chúng còn không biết là chúng tôi có lên tàu hay không nữa.”
“Tao chỉ biết rằng chúng trả tiền cho tao để tìm ba người khách - một tên to lớn đội mũ trắng và hai tên nhóc. Cũng có thể có thêm một tên nữa - một tên mập - mà cũng có thể không. Một phần ba được trả trước và hai phần còn lại sẽ được trao ngay khi chúng thấy tờ báo cáo mất tích của ba hay bốn hành khách trên tàu.”
“Nhưng làm sao chúng biết được là bọn tôi đi con tàu này chứ?” Sherlock hỏi. Sau đó thì cậu nhận ra ngay. “Chúng thuê một người nào đó trên mỗi con tàu ư?”
Grivens gật đầu. “Dù sao thì cứ vài ngày là có một tàu xuất bến. Tao đoán vậy. Bọn chúng tìm thấy tất cả tụi tao ở cùng một chỗ - một quán bar nơi các phục vụ viên của mọi con tàu hay tụ tập với nhau.”
“Nhưng chúng phải tốn bao nhiêu mới được chứ?”
Grivens nhún vai. “Đó không phải chuyện của tao, miễn sao chúng có đủ tiền để trả cho tao khi đến New York là được. Chúng không có vẻ thiếu tiền mặt đâu.” Hắn nhoài người tới và túm lấy tóc Sherlock. “Chúng bảo sẽ trả thêm nếu tao làm mày phun ra được mày đã biết bao nhiêu về kế hoạch của chúng nữa kìa. Mày có thể chọn cách dễ dàng, không đau đớn, và tao sẽ ban cho mày một ân huệ là bảo đảm mày bất tỉnh khi tao ném mày xuống tàu, được chứ hả? Hoặc mày có thể chọn cách khó nhai hơn, tao sẽ rút từng ngón tay mày ra bằng một con dao cắt xì gà, từng ngón một, cho tới khi mày nói cho tao biết, sau đó tao sẽ quẳng mày đi trong khi vẫn còn đang tỉnh rụi đấy.”
“Tôi sẽ la to lên!”
“Tao chẳng phải đã nói với mày rồi sao?” Grivens nói. “Tao bắt đầu bằng nghề bán tạp hóa cho tàu bè, tao làm buồm trước khi trở thành phục vụ viên. Những ngón tay của mày sẽ không bao giờ quên được cảm giác cái kim sắt đâm xuyên qua cả vải. Tao sẽ may kín miệng mày bằng một sợi dây bện thật dày, nhóc ạ, chỉ để phục vụ cho khoái cảm của tao khi nhìn vào đôi mắt khiếp sợ của mày lúc tao quẳng mày qua mạn tàu.” Hắn dừng lại. “Giờ thì trả lời đi. Mày biết được bao nhiêu kế hoạch của bọn người Mỹ này rồi?”
Hắn lại nhoài về trước, chụp lấy tóc Sherlock. Cái hình xăm phản quang màu xanh dương trên cổ tay hắn phát sáng trong bóng tối của cabin.
Sherlock tống mạnh một chân mang ủng vào hắn, cú đạp trúng ngay háng Grivens. Hắn gập người lại, rên lên đau đớn.
Sherlock chồm dậy. Túm lấy vai Grivens, cậu kéo hắn ngã chúi xuống rồi tìm cách chạy tới cửa chính.
Tên phục vụ chụp lấy mắt cá chân của Sherlock. Hắn giật mạnh, kéo ngược cậu vào phòng. Sherlock xoay người lại, tung chân kia đá trúng mí mắt của Grivens. Hắn buông ngay Sherlock ra, rít lên nguyền rủa và ngã ịch ra sau.
Sherlock quyết tâm phải thoát ra được, và sau đó tìm cho ra Amyus Crowe. Cậu phóng ra kéo mở cửa. Ánh sáng từ ngọn đèn dầu trên tường dọc hành lang bên ngoài tràn vào phòng. Cậu loạng choạng chạy ra, đóng chặt cửa lại, và thoát theo hướng hành lang. Phía sau lưng, cậu nghe thấy tiếng cửa phòng đập mạnh vào tường khi Grivens kéo cửa mạnh ra, và tiếng bước chân uỳnh ụych trên sàn khi hắn đang cố chạy theo bắt cậu. Hành lang kết thúc ở một ngã ba: Sherlock rẽ trái, hướng về phía có cầu thang dẫn lên boong tàu đến nơi an toàn, nhưng cậu đã đi nhầm vào nơi nào đó vì không hề thấy bóng dáng của chiếc cầu thang. Thay vào đó hành lang này lại dẫn cậu xuống càng lúc càng sâu hơn vào bụng con tàu.
Buộc phải lựa chọn cái cầu thang dẫn xuống sâu bên dưới và việc quay trở lại, cậu thà chọn đi xuống hơn. Khu vực này không còn thuộc địa phận của hành khách nữa: tường gỗ nhìn thô hơn, không được trang trí đóng nẹp như nơi dành cho khách, những chiếc đèn dầu thì xuống cấp và vàng vọt. Dưới chân cậu chỉ là nền gỗ trơn chứ không còn được trải thảm mềm mại nữa.
Đâu đó sau lưng, Sherlock nghe tiếng bước chân. Grivens vẫn còn đang bám sát cậu. Cậu tiếp tục di chuyển.
Tiếng máy tàu mỗi lúc một gần hơn, nghe như tiếng đập thình thịch từ một trái tim bằng máy khổng lồ, và không khí có vẻ ấm hơn. Sherlock đang chảy mồ hôi nhễ nhại, một phần vì cuộc rượt đuổi nhưng phần khác cũng vì sự ẩm ướt của hơi nước trong không khí.
Cậu đi vòng qua góc cua và thấy một cánh cửa lớn trước mắt mình. Nó đang bị đóng. Cậu chỉ còn cách tiếp tục bước vào bên.
Cậu mở cửa và vào trong.
Vào cõi Địa Ngục.