← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

Hơi nóng táp ngay vào mặt, gần như đánh gục cậu. Sherlock cảm giác như đi ngang qua một cái lò nướng bánh đang mở cửa. Dường như những lọn tóc ngắn sau cổ đang cong lên và mồ hôi đang đua nhau túa ra trên mặt và cổ cậu. Không khí ngột ngạt và nóng đến nổi không thể thở được.

Cánh cửa dẫn đến một ban công bằng sắt nhìn xuống một khu vực hang động rợn người chứa đầy máy móc: nào là van đẩy, bánh xe, trục quay, tất cả đang chuyển động theo nhiều hướng khác nhau với nhiều vận tốc: chạy song song, lên xuống, và xoay tròn. Đây chính là phòng máy của con tàu Scotia, nơi tạo ra năng lượng cho những bánh xe guồng khổng lồ nằm hai bên mạn tàu. Đâu đó gần đây, Sherlock biết rằng sẽ có một cái lò nấu riêng biệt, nơi các thủy thủ sẽ quẳng than vào một cái lò khổng lồ để nó cháy và tạo ra nhiệt nhằm nấu sôi nước trong cái nồi được đặt bên trên.

Hơi nước từ đó được tạo ra và được đẩy đi khắp hệ thống đường ống để vào phòng máy này, nơi các pittông và khớp quay sẽ chuyển áp lực của hơi nước thành những chuyển động để tác động lên các bánh xe guồng thông qua các cần trục khổng lồ. Nếu đứng ở đây mà đã nóng phát điên như thế này thì làm việc trong phòng đun nước sôi khác nào đang làm bên trong một ngọn núi lửa. Làm sao mà con người có thể chịu được chứ?

Tiếng ồn đinh tai nhức óc: đó là hỗn hợp các loại âm thanh của tiếng kim loại đập vào nhau lanh canh, lẫn với tiếng rít và tiếng đạp thậm thịch làm đầu Sherlock đau buốt. Cậu có thể cảm nhận được sự rung chuyển qua khung cửa nơi tay cậu đang giữ chặt và trong cả không khí nữa. Cảm giác như đang bị đấm liên tục vào ngực. Và việc nói chuyện với nhau trong môi trường như thế này hầu như là điều không thể. Những người đàn ông làm việc ở đây chắc hẳn phải giao tiếp với nhau bằng ngôn ngữ tay. Bị điếc có thể là một mối nguy có tỷ lệ cao nhất của nghề này.

Ánh sáng tù mù hắt ra từ những ngọn đèn dầu bẩn thỉu được treo ở nhiều vị trí trên tường. Trên cao trần nhà bằng lưới sắt cũng để lọt vào một ít ánh sáng leo lắt từ thế giới bên ngoài, nhưng chúng sớm bị nuốt chửng vào bầu không khí đầy khói, bụi và hơi nước. Nhìn xung quanh đâu đâu Sherlock cũng thấy những cột bóng tối sừng sững đáng sợ. Những ai vào đây cũng có được ít không khí lọt qua tấm lưới để thở. Nhưng bụi than và hơi nước đặc quánh, đến những linh hồn hiếu động nhất cũng không biết đường nào mà lần ở chốn này.

Sherlock nhìn lướt nhanh xung quanh, cố tìm xem mình nên đi hướng nào. Phòng máy này dường như chiếm nhiều tầng bên trong con tàu. Các đường đi bộ được gắn vào tường và băng từ bên này sang bên kia ở các tầng. Có những cầu thang bọc sắt dẫn lên những con đường đi bộ này. Những khối xà bằng sắt khổng lồ được bắt ngang dọc khắp nơi trong phòng để tạo điểm tựa chắc chắn cũng như được dùng để mắc cái loại ống và bánh xe. Dường như tất cả đều được thiết kế để ai cũng có thể với lên ống dẫn, van đẩy, bánh xe hay trục quay bất kỳ nào để vặn sửa phòng trường hợp có hư hỏng xảy ra.

Phía cuối một số đường ống nhỏ hơn được gắn vào những cái đồng hồ đo áp suất - đó là những thiết bị to cỡ nắm đấm của Sherlock với những cây kim chỉ áp suất trong đường ống. Chắc là các kỹ sư sẽ kiểm tra áp suất thông qua những thiết bị này để biết được liệu dàn máy của con tàu có cần thêm than hay áp suất đang tăng lên quá nhanh và cần được xả hơi bớt hay không. Một số đường ống khác được gắn thêm những bánh xe kim loại lớn hơn để mở và đóng các van nhằm điều khiển hơi nước tràn vào các loại ống khác nhau với tốc độ khác nhau.

Nhìn lên trên, Sherlock thấy hai bình áp suất khổng lồ thông nhau trên trần. Có rất nhiều ống dẫn thẳng lên chúng. Dường như chúng chạy lên đến boong tàu. Cậu phải mất một lúc mới hiểu được có thể chúng nối với hai ống khói của tàu Scotia, để giúp hơi nước tháo ra bên ngoài sau khi đã qua sử dụng.

Tất cả thiết bị đều được làm từ kim loại dày, màu đen và quá nóng để đụng vào. Mọi thứ đều được siết chặt vào với nhau bằng những cây đinh tán có kích cỡ bằng ngón tay trỏ của Sherlock. Cả khối máy móc rung chuyển trong ma trận hơi nóng tỏa ra từ lò than đang nung: không khí như tan chảy ra và không cách nào xác định được khoảng cách.

Mùi phòng máy làm mũi Sherlock ngứa ngáy như có kim châm. Chủ yếu là mùi lưu huỳnh, ngửi như mùi trứng thối, hòa quyện với chút mùi hắc ín và một thứ gì đó làm Sherlock nghĩ đến mùi máu trong miệng, nhưng cũng có thể đó là mùi sắt nóng chảy.

Có bóng người ló ra từ bóng tối. Sherlock chùn bước, đoán đó là Grivens, nhưng hóa ra lại là một thủy thủ khác, một kỹ sư. Anh ta ở trần, người lực lưỡng, da vằn vền bụi than và mồ hôi chảy nhễ nhãi đến nỗi khuôn mặt và thân thể như được phủ sọc trắng đen giống da con ngựa vằn mà Sherlock từng thấy trong những quyển sách về châu Phi trong thư viện của cha. Chiếc quần vải bông của anh ta ướt đẫm mồ hôi, và anh đang vác một cái xẻng trên vai. Tất cả phong thái của anh ta - từ cách đi đứng, các biểu hiện đều toát lên một sự mệt mỏi rã rời. Sherlock đứng nhìn anh ta đi ngang qua những cỗ máy đang hoạt động thậm thịch và mất hút sau một cánh cửa khác mà không một lần ngẩng đầu nhìn lên, có lẽ viên kỹ sư này đang đi đến nơi treo một chiếc võng ở cái xó xỉnh tăm tối nào đó của con tàu.

Biết Grivens vẫn đang bám sát nút phía sau, Sherlock hối hả chạy dọc theo lan can đến khi cậu gặp được một cái thang dây vừa dẫn lên lẫn dẫn xuống. Đi hướng nào bây giờ? Đi lên có thể sẽ dẫn lên boong tàu, nhưng cũng có thể không có đường thoát ra. Cậu dám chắc là chưa bao giờ thấy bất cứ một kỹ sư hay người đốt lò nào trên boong cả. Có thể họ bị cấm không được lộ diện ra bên ngoài; mà phải cam kết trải qua cuộc hải trình trong bóng tối bên dưới. Thế là cậu đi xuống, với hy vọng sẽ gặp những lối thoát khác khỏi phòng máy này.

Cậu quờ quạng cố trèo xuống cái thang bằng sắt càng nhanh càng tốt và cảm thấy những ngón tay của mình bỏng rát khi đặt lên những thanh sắt. Sự rung chuyển của máy móc được truyền qua tay cậu mạnh đến nỗi cậu cảm giác được hàm răng của mình đang run bần bật. Cái nóng và sự ngột ngạt thiếu dưỡng khí làm cậu cảm thấy yếu đi; đến nỗi suýt rơi xuống hai lần vì bàn tay đẫm mồ hôi trơn tuột khỏi thanh vịn. Cuối cùng thì cậu cũng xuống được sàn nhà. Cậu tựa đầu nhẹ nhõm vào chiếc thang dây trước khi đẩy thân mình ra và tiếp tục di chuyển.

Phía trên cao ban công, cánh cửa bị mở tung một lần nữa. Sherlock có thể nghe tiếng cửa đập vào vách tường. Sau một chút im lặng, cậu nghe tiếng đôi ủng chạy va lanh canh trên sàn bằng lưới sắt.

Sherlock lủi vào một rãnh sâu hun hút nằm giữa hai cỗ máy móc lớn: đó là những khối sắt khổng lồ được viền dày đặc xung quanh bởi các ống dẫn. Bả vai của cậu khẽ đụng xượt qua một bên cỗ máy và cậu co người ngay lại. Nó nóng muốn cháy cả da.

Cái rãnh kết thúc ngay một bức tường kim loại đóng đầy đinh tán; một phần của bình áp suất hay đại loại thế. Đó là ngõ cụt. Không hề có lối ra.

Bóng tối giữa hai khối máy đang che chắn cho cậu. Cậu cố gắng thu người lại thật nhỏ và giữ im lặng hết sức có thể.

Có tiếng bước chân trên thang dây, và sau đó im bặt khi hắn xuống được tới sàn.

“Này nhóc,” giọng Grivens vang lên, “lên tiếng đi nào. Bỏ đi phần bắt đầu tệ hại của tao với mày đi nhé. Tao đã hơi quá khích. Bước ra ánh sáng đi, mày là đứa trẻ ngoan mà, tụi mình có thể trò chuyện lại như hai người bạn mà. Ngày nào đó chúng ta sẽ cười thật to với nhau về chuyện này, tao hứa đó, chịu không?”

Sherlock đương nhiên là không tin lời hắn và càng không tin giọng điệu đó nữa. Nếu cậu bước ra ngoài, cậu biết chắc là mình sẽ bị giết.

“Được rồi,” Grivens tiếp tục. “Được rồi vậy.” Thật là khó để nghe được hắn ở một nơi máy móc ồn ào đầy tiếng lanh canh và thậm thịch này. “Mày đang sợ hãi. Tao hiểu. Mày nghĩ là tao sẽ làm hại mày đúng không. Được, giờ nói về chuyện tiền bạc vậy. Tao được trả để khử mày, mày biết điều đó rồi đấy, nhưng tao là người rất thực tế. Tao là dân làm ăn, mày gọi vậy cũng được. Tao biết là gã người Mỹ cao to kia có thể trả cao hơn số tiền mà tao sẽ được bọn kia trả cho. Vậy thì mày với tao cùng đi lên gặp hắn ta và thỏa thuận, như những thằng đàn ông với nhau. Hắn có thể viết cho tao một tờ chi phiếu, và tao sẽ quên ba đứa bọn mày đi. Mày thấy kế hoạch đó thế nào?”

Gần gần đâu đó bỗng có một cái van bật mở và phun ra một luồng hơi nước với tiếng rít điếc cả tai.

“Nhóc? Mày còn ở đó không?” Tiếng gọi nghe có vẻ gần hơn, như thể Grivens đang di chuyển. Hắn đang tìm kiếm Sherlock, không hài lòng lắm với hy vọng mong manh là những lời dỗ ngọt của hắn sẽ thuyết phục được cậu ra khỏi chỗ nấp. “Tao biết chúng ta khởi đầu hơi sai lầm, nhưng tao muốn bù đắp cho mày. Đi ra và nói chuyện đi nào.”

Sherlock lúc này nhận ra rằng lưng cậu đang đè lên một cái ống, hoặc một phần nào đó của cỗ máy, và nó có hơi nước bên trong. Hơi nóng đang lan dần lên áo khoác và áo sơ mi của cậu, làm lưng cậu muốn phồng rộp cả lên. Cậu cố nhích về trước một chút, nhưng điều đó sẽ làm người cậu mấp mé ló ra ánh sáng. Cậu di chuyển chầm chậm, nhưng hơi phà ra nóng đến nỗi cậu bị giật bắn người nhảy ra chỗ khác trước khi bị bỏng nặng. Một chân cậu đập trúng một phần của đường ống. Tiếng động rung lên xung quanh cỗ máy như một cái chuông.

“À, thì ra mày ở đây.” Giọng Grivens vang lên như thể hắn chỉ còn cách cậu một vài dặm. “Dù sao cũng là một sự khởi đầu.”

Có một cái bóng đen đổ ngang khe hở nơi Sherlock đang trốn. Trong ánh sáng nhập nhoạng được hắt xuống từ những tấm lưới bên trên, Sherlock có thể nhận ra qua bóng đầu và vai của Grivens. Hắn đang cầm cái gì đó trên tay, giơ cao qua đầu, sẵn sàng bổ xuống. Cái vật đó trông giống một cây vặn ốc, một cây cờ lê rất to và rất nặng.

Sherlock chợt nhận ra rằng, tại đây, ngay dưới hầm tàu, Grivens chẳng cần phải lo nghĩ tới việc sẽ mang xác cậu lên trên boong và quẳng xuống biển. Hắn chỉ cần nhét nó vào lửa, để cho nó cháy trụi, và hối lộ cho người đốt lò vài đồng để họ ngó lơ đi, rồi Sherlock sẽ chỉ còn là tro.

“Ra đi, ra đi, dù mày đang ở đâu.” Grivens ngân nga. Cả người hắn giờ chắn hết tất cả ánh sáng lọt vào trong cái ngách này. Hắn có vẻ cảm nhận được Sherlock đang ở đâu. Thay vì tiếp tục di chuyển, hắn lủi người vào hẳn trong ngách.

Sherlock cúi thấp xuống, cố gắng thu người lại trong bóng tối. Chỉ vài giây nữa thôi Grivens sẽ thấy cậu, và tất cả sẽ kết thúc.

Tay cậu chạm vào nền nhà ấm áp, và phải mất đến vài giây cậu mới nhận ra rằng cái ống cậu đang tựa vào có lỗ thông qua phía bên kia mà ban đầu cậu lại tưởng chỉ là bức tường. Cậu sờ soạng xung quanh, khám phá. Có vẻ như cái ống này không đi hết xuống sàn, mà nó ngoặt xuống bên dưới nữa. Nó được chống đỡ bằng một thanh xà gắn chặt vào sàn, nhưng vẫn có đủ chỗ để Sherlock có thể trượt xuống bên dưới. Hy vọng là có lối thoát ra ngoài ở phía bên kia. Nếu không thì cậu sẽ vẫn bị mắc kẹt như bây giờ mà có khi còn tệ hơn thế này nữa.

Cậu chống hai tay và hai đầu gối xuống, rồi đến bụng. Sàn nhà nóng rực dưới da. Áo sơ mi ướt nhẹp mồ hôi, dính chặt xuống sàn khi cậu đang cố trượt xuống bên dưới cỗ máy. Cậu vươn tay ra túm lấy thanh xà đang nâng cái ống, hy vọng có thể kéo cả người theo, nhưng thanh sắt nóng làm phỏng tay và cậu la lên đau đớn.

“À há!” Grivens chạy nhanh vào, cây cờ lê của hắn va đập lanh canh lên các đường ống. “Mày đâu rồi, thằng nhãi ranh?”

Sherlock cong người lại và vươn tay ra chụp thanh xà một lần nữa. Lớp kim loại nóng đốt xèo xèo lòng bàn tay nhưng cậu cố gắng chịu đựng, kéo mạnh, quờ quạng hai đầu gối và bàn chân để kéo cả thân hình xuống bên dưới cỗ máy, tránh xa Grivens. Đột nhiên cậu cảm giác trông trống phía bên trên đầu mình, và trong run rẩy cậu dùng chân tiếp tục bò tới. Khi tay bị hẫng, cậu mới biết mình đang ở một phần khác của phòng máy. Có một đường ngách chạy dài trước mặt, các bức tường được tạo nên bởi hàng loạt các đường ống dẫn đan móc vào nhau. Chạy dọc theo ngách, cậu tìm kiếm một cái thang dây hay một cánh cửa nào đó.

Có gì đó va đập leng keng sau lưng cậu. Quay lại nhìn, cậu thấy Griven đang đứng ở đầu bên kia đường ngách. Hắn vừa đập cây cờ lê lên một thanh trụ bằng sắt.

“Đủ rồi, nhóc. Cùng đường rồi. Mày đã trốn rất tốt, nhưng giờ tới lúc kết thúc rồi. Hãy để Grivens này giúp mày thoát khỏi cảnh khốn khổ này, được chứ?”

“Giờ có quá trễ cho cái thỏa thuận lúc nãy anh nói không?” Sherlock tìm cách thoái thác.

Grivens nhếch mép cười. “Trễ quá rồi,” hắn nói. “Thật buồn khi phải nói tao là người biết giữ lời. Tao bắt tay thỏa thuận xong rồi là phải làm cho bằng được. Giờ tao không thể hủy thỏa thuận của tao được rồi, đúng không? Tao sẽ ra cái thể thống gì bây giờ?”

“Đó chỉ là lời nói thôi mà.”

Hắn gật đầu. “Chỉ là lời nói. Sẽ luôn có những lúc người ta tin vào những lời hứa khi nó được nói ra một cách tự nguyện, nhưng tao cũng không tin tưởng cho lắm.”

Hắn bắt đầu bước tới trước, tay vung vẩy cây cờ lê.

Sherlock hoảng hốt nhìn xung quanh nhằm tìm kiếm thứ gì đó có thể dùng để tự vệ. Dường như đánh trả lại là lựa chọn duy nhất của cậu lúc này.

Clang! Tiếng cây cờ lê đập vào một ống dẫn sắt, tạo nên những làn sóng rung động lan tỏa khắp phòng máy.

“Nhìn tao đây này,” Grivens nói bằng chất giọng thấp trầm và bình tĩnh. “Cứ nhìn tao đây, thằng nhóc. Cứ nhìn vào mắt tao. Đừng tìm kiếm lối thoát chi vô ích. Cứ chấp nhận cái không thể thay đổi, được không?”

Sherlock cảm nhận được sự bình tĩnh trong giọng nói đó, sự hợp lý của từng chữ một và cái nóng của phòng máy dường như ru cậu vào sự thôi miên. Cậu lắc đầu một cách bất ngờ. Cậu không thể để mình bị thôi miên bởi tên phục vụ này được.

Cậu liếc qua liếc lại trong tuyệt vọng. Có một thứ lọt vào mắt cậu ngay lúc đó - một vật đang tựa vào cái thang dây. Một cái xẻng! Một người đốt lò nào đó đã để quên sau khi kết thúc ca làm việc. Cán cầm của nó phủ bụi than đen thui và lưỡi xúc phần nào bị chảy ra, như thể nó vô tình bị đẩy quá sâu vào lò lửa khi được dùng để xúc than. Sherlock vươn tay ra chụp lấy nó, rồi đưa cái xẻng lên ngang tầm mặt, chắn phía trước mình.

“Vậy là thằng nhãi cũng vẫn còn tinh thần, hử?” Khuôn mặt tên Grivens đanh lại ác độc. “Có nghĩa là tao phải lao lực chút xíu mới có tiền rồi.”

Hắn bất thình lình lao về trước và quất mạnh cây cờ lê, định tán vào một bên đầu của Sherlock. Sherlock né ra sau, làm cây cờ lê đập trúng vào thành một cái ống sắt. Những tia lửa li ti bay tung lên khắp phòng. Sherlock cảm thấy chúng áp vào mặt mình nóng rát. Cậu vội đưa tay lên phủi tóc phòng trường hợp bị lửa bắt vào.

Grivens gầm gừ, giật cây cờ lê lại. Hắn giơ cái cây lên cao và lại bổ mạnh xuống đầu Sherlock.

Sherlock vụng về đưa cái xẻng lên đỡ cú bổ trời giáng đó. Cây cờ lê đập trúng cán xẻng bằng gỗ và làm nó mẻ một miếng, suýt nữa là quất trúng đầu gối Sherlock. Lực đập lên cây xẻng mạnh đến nỗi làm các khớp tay của cậu như muốn rời ra. Cậu cố xoay cái xẻng lại và tống mạnh lưỡi xúc vào xương bánh chè của Grivens. Hắn ta thét lên và nhảy giật ra sau, miệng tròn vo hình chữ “O” như không tin được vào mắt mình.

“Thằng nhãi ăn xin khốn kiếp!” hắn rủa, vung cây cờ lê lên và lao vào tấn công Sherlock lần nữa.

Sherlock lại đưa lưỡi xẻng lên đỡ. Hai vũ khí đập vào nhau tạo ra một âm thanh chói lói. Grivens nhảy ngược ra sau, cây cờ lê xoay mù và bật tung khỏi tay hắn mất hút vào khoảng tối của phòng máy. Cái xẻng đột nhiên cũng vuột khỏi tay Sherlock rớt xuống sàn.

Grivens khum người, đưa tay trái lên ôm khuỷu tay phải của mình. Gương mặt hắn rúm lại như một con thú điên.

Sherloch xoay người và bỏ chạy.

Lối đi kết thúc ở một ngã ba, với nhiều hành lang hun hút cả hai hướng trái và phải. Sherlock lao vào hướng bên phải, cậu chỉ dừng lại khi thấy một cái thang bắt dẫn lên trên. Cậu liếc ra sau. Không thấy bóng dáng Grivens đâu cả. Sherlock có cảm giác hai vai yếu đi sau cú bổ trời giáng bằng cây cờ lê của tên phục vụ. Run rẩy, cậu vụng về leo lên thang dây để lên đường đi phía trên.

Con đường chạy song song với trục máy chính băng ngang căn phòng, và trục máy này hướng ra ngoài thông qua khe hở giữa bức tường để điều khiển một trong các bánh xe guồng. Sherlock không còn phân biệt được đâu là hướng chạy tới, đâu là hướng lùi. Cậu cũng không chắc cái bánh xe guồng nào đang được điều khiển bởi trục máy nữa. Có thể là cả hai. Nhưng điều đó chẳng có ý nghĩa gì cả. Trục máy đang xoay chậm chạp bên cạnh, kích cỡ bằng thân hình cậu, ánh lên nhờ lớp dầu mỡ xung quanh. Phía xa giữa phòng máy là một hệ thống các bánh xe răng cưa, pittông và trục cam điều khiển.

Tựa vào rào chắn chạy dọc theo lối đi, cậu cố gắng nhìn xem Grivens đang ở đâu. Không thấy gì cả. Tên phục vụ đã biến mất.

Cuộc ẩu đả này dường như không dấy lên chút quan tâm nào của mọi người. Phải chăng phòng máy này lúc nào cũng không một bóng người như thế, hay là Grivens đã đút lót các thủy thủ đoàn để họ tránh xa trong khi hắn săn lùng Sherlock?

Có gì đó túm lấy mắt cá chân của cậu và kéo mạnh. Sherlock ngã xuống, cảm giác chân mình đang bị lôi mạnh xuống rìa con đường. Cậu bám chặt lấy hàng rào chắn để không bị kéo tụt xuống. Khuôn mặt của Grivens đang áp vào mạng lưới sắt của lối đi. Tay hắn đang chụp kéo mắt cá chân của Sherlock.

“Mày tính không để tao kiếm được tiền, phải không thằng nhãi?” hắn rít lên. “Vì điều đó mà tao sẽ làm cho tên khốn người Mỹ và đứa con gái của hắn phải chịu đựng khổ sở hơn nữa. Cứ nghĩ về điều đó đi khi mày sắp chết dần trong đống máu nhãi ạ.”

Phản ứng duy nhất của Sherlock là tung chân đạp, đập chiếc ủng đang mang xuống sàn đến khi nó đập trúng ngón tay của Grivens. Hắn đay nghiến trong đau đớn rồi thả tay ra. Sherlock lăn tròn tránh ra, đứng dậy.

Mặt tên Grivens thò ra trên đầu cầu thang dây, sau đó nhoài hết cả người lên. Hắn nhe răng ra với cái vẻ hận thù đanh lại trên mặt.

“Giờ thì không phải vì tiền nữa,” hắn rít lên. “Giờ là chuyện giữa tao với mày.”

Sherlock lui lại chậm chạp. Tên phục vụ đã lên được tới đỉnh cầu thang và đang bước tới. Vai hắn thu lại, những ngón tay cong như nanh vuốt. Bộ đồng phục tươm tất của hắn giờ lấm lem và vằn vện bụi bẩn.

Sherlock cảm giác có gì đó cứng ấn lên lưng mình. Cậu liếc nhanh xuống dưới. Cậu đã đến cuối đường và đang tựa vào một trong những bánh xe điều khiển hơi nước trong các đường ống. Bên cạnh cậu, những trục hình trụ lớn xoay không ngừng quanh ổ trục. Cậu đang đứng ở khu vực nơi các trục khuỷu ống chuyển các chuyển động thẳng của van đẩy thành chuyển động xoay để đẩy các trục quay. Có rất nhiều trục khuỷu nhìn như đầu ngựa làm bằng sắt tẩm đầy dầu mỡ, ngoi lên ngụp xuống theo một nhịp điệu phức tạp. Trong chốc lát Sherlock cảm thấy vô cùng cảm phục hệ thống vận hành hoàn hảo trên tàu. Làm sao người ta có thể hưởng thụ mọi thứ trên tàu mà lại không màng xem chúng hoạt động bằng cách nào nhỉ?

Nhưng chẳng phải đây cũng là cơ hội cuối cùng để cậu tìm hiểu mọi thứ sao. Grivens vẫn lăm lăm đi về hướng cậu, càng lúc càng gần hơn. Hắn nhoài người túm lấy cổ Sherlock bằng cả hai bàn tay.

“Tao nên đòi thêm phần thưởng cho chuyện này,” tên phục vụ thều thào. Những ngón tay của hắn khép quanh cổ họng Sherlock và siết chặt. Sherlock cảm giác như đôi mắt mình muốn lồi cả ra ngoài. Lồng ngực cậu muốn hớp không khí vào bên trong, nhưng không có một luồng khí nào có thể lọt qua. Hoảng loạn, cậu túm lấy cổ tay Grivens cố kéo ra, nhưng cơ bắp của tên phục vụ khóa quá chặt, cứng như đá. Sherlock chuyển sang níu những ngón tay của hắn. Biết đâu cậu có thể gỡ chúng ra khỏi cổ họng mình. Tầm nhìn của cậu giờ chuyển sang màu đỏ và mờ dần, những đốm đen bắt đầu lượn lờ xung quanh, mơ hồ tạo nên dáng mặt của tên Griven. Lồng ngực cậu đau đớn đến bỏng rát.

Tuyệt vọng, cậu vặn mạnh người với tất cả sức lực còn sót lại. Bất ngờ bị mất thăng bằng, tên Grivens suýt ngã ra bên ngoài thành rào chắn chạy dọc theo lối đi, nhưng vòng tay đang siết chặt cổ Sherlock vẫn không hề giảm bớt. Các trục khuỷu vẫn lên ngoi lên ngụp xuống bên cạnh họ: những thanh sắt này cứ thoi vào không khí cách mặt của hai người chỉ vài phân. Sắc mặt tên Griven ngùn ngụt sự hung tợn, đôi mắt tóe lên sát khí hoang dại.

Sherlock đột ngột thả người thõng xuống, như thể cậu không còn chút năng lượng nào. Bị mất cảnh giác, Grivens để cậu khuỵu xuống. Nhưng thay vì khuỵu gối, Sherlock buông tay khỏi hắn để nắm lấy sợi dây nịt quần bằng da của đối phương. Chộp được sợi thắt lưng rồi cậu lại đứng thẳng lên, chân ghì đẩy và tay thì kéo với tất cả sức lực còn sót lại. Chân của Grivens bị nhấc lên khỏi lối đi khi Sherlock nâng hẫng hắn bằng sợi dây nịt. Bị xoay vòng, trọng lượng cơ thể của Grivens làm cả người hắn nhoài lên trên thành vịn của rào chắn. Sherlock nghĩ là hắn sẽ buông cậu ra để chụp vào hàng rào, nhưng hắn vẫn túm chặt lấy cổ họng của Sherlock, cùng kéo cậu rớt ra ngoài.

Tay áo của hắn bất chợt bị mắc kẹt vào một trong những trục khuỷu đang hoạt động. Trục máy khóa chặt miếng vải và kéo mạnh xuống. Grivens thét lên - một tiếng thét ngắn ngủi, tuyệt vọng đầy sợ hãi và giận dữ - khi thân hình hắn bị giật mạnh ra khỏi lối đi và kéo về khoang máy móc bên dưới. Sherlock buông tay khỏi sợi dây nịt và thốc mạnh hai tay lên để tống tay hắn ra khỏi cổ họng mình, cậu hớp lấy hớp để không khí trong khi thân hình của tên phục vụ bị kéo vụt đi, cuộn tròn theo trục máy đang quay và kẹt vào trục cam khi chúng đang nện lên xuống.

Cỗ máy không có dấu hiệu gì là khựng lại, và Sherlock phải quay đi trước khi cậu kịp thấy chuyện gì xảy ra với từng mảnh thân thể của Grivens khi hắn bị lôi tuột xuống những thanh kim loại đang quay tròn bên dưới.

Sherlock cúi người xuống, chống tay vào đầu gối, cố gắng hít vào phổi càng nhiều càng tốt luồng khí nóng hổi. Trong thoáng chốc cậu nghĩ cậu bị ngạt thở, vì cơ thể cậu đòi hỏi nhiều oxy hơn nữa, nhưng dần dần cậu cũng lấy lại được nhịp thở bình thường. Khi tầm nhìn của cậu không còn đỏ quạch và mờ đục nữa, và khi lồng ngực cũng không còn đau nhói khi hít vào, cậu mới đứng thẳng dậy và nhìn xung quanh.

Không còn thấy bóng dáng của Grivens đâu. Dầu nhớt trên những trục máy và trục cam trông đỏ và bóng hơn, nhưng tất cả chỉ có thế.

Cuối cùng Sherlock cũng trèo xuống chiếc thang dây và đi ngang qua phòng máy để kiếm một lối thoát ra ngoài. Cậu không chắc cánh cửa mà rốt cuộc cậu cũng tìm thấy có phải là nơi cậu đã đi vào hay không, nhưng cũng không quan trọng lắm. Bên ngoài, không khí thật mát mẻ và trong lành. Cứ như cậu mới thoát khỏi địa ngục và đang lên thiên đàng vậy.

Mọi người nhìn chằm chằm khi Sherlock ngoi lên được boong tàu, nhưng cậu không quan tâm. Cậu chỉ muốn quay lại phòng mình, tẩy sạch bụi than và dầu nhớt khỏi thân thể rồi thay quần áo. Cậu sẽ đem bộ đồ đang mặc đi giặt. Có thể các cô thợ giặt trên boong có thể xử lý những vết bẩn này, mà cũng có thể không. Nhưng trên tất thảy, cậu không còn quan tâm đến những chuyện như vậy nữa.

Ông Amyus Crowe đang ở trong cabin lúc Sherlock đẩy cửa vào phòng. “Chú nghĩ có ai đó đã ở đây, lục soát đồ đạc” ông nói, rồi quay lại và bắt gặp bộ dạng và quần áo của Sherlock. “Trời ạ, chuyện gì xảy ra vậy?”

“Những tên chúng ta đang bám theo đến New York đó - chúng rải tiền khắp cảng,” Sherlock đáp vẻ mệt mỏi. “Có ít nhất là một tên trên mỗi con tàu rời cảng trong tuần này được hứa hẹn trả hậu hĩnh nếu chúng giết được ba người chúng ta.”

“Ít nhất một tên ư,” ông Crowe nói. “Nhưng chúng ta có thể tính đến chuyện đó sau. Hắn là ai vậy?”

“Một trong những người phục vụ.”

“Và giờ hắn đâu rồi?”

“Cứ cho là con tàu bị hụt mất một chân phục vụ buổi tối đi,” Sherlock đáp.

Cậu kể lại cho ông Crowe nghe toàn bộ câu chuyện trong khi tắm rửa và thay quần áo. Người đàn ông to lớn lặng lẽ lắng nghe suốt khoảng thời gian đó. Khi Sherlock bắt đầu muốn lặp lại thì ông Crowe giơ tay lên.

“Chú nghĩ là đã hiểu hết mọi chuyện rồi,” ông nói. “Cháu cảm thấy thế nào?”

“Mệt mỏi, thiếu nước và đau nhức.”

“Điều đó cũng dễ hiểu thôi, nhưng cháu cảm thấy thế nào?” Sherlock liếc nhìn ông có vẻ hoang mang. “Ý chú là sao?”

“Ý chú là một người đã chết, và cháu là nguyên nhân. Chú từng thấy nhiều người rơi vào trạng thái ăn năn và buồn bã vô cùng sau một việc như thế.”

Sherlock suy nghĩ trong ít phút. Đúng vậy, một người đã chết, và Sherlock là người chịu trách nhiệm, nhưng đây đâu phải lần đầu. Tên sát thủ Clem của Nam tước Maupertuis chắc là đã chết đuối khi rơi khỏi con thuyền của Matthew Arnatt, nhưng chuyện đó xảy ra vì Matty đánh hắn vào gáy bằng cái sào móc thuyền bằng kim loại. Tay chân của Maupertuis, tên Surd, thì bị ong chích đến chết, nhưng đó có thể được xem như là một tai nạn - lão ta ngã ngửa vào một tổ ong. Và có cả những người có mặt tại pháo đài xây thời Napoleon khi nó phát nổ dữ dội - họ có thể bị chết cháy hoặc chết đuối khi nhảy xuống biển, nhưng số phận của họ cũng không phải do Sherlock trực tiếp gây ra. Liệu ông Crowe có đúng không? Đây có phải là cái chết đầu tiên cậu trực tiếp và rõ ràng gây ra?

“Cháu không phải kiểu mà chú hay gọi là “sùng đạo”,” cuối cùng cậu cũng cất tiếng. “Cháu không tin là có lời răn của Chúa rằng “Chớ có giết người”, nhưng cháu tin rằng xã hội sẽ vận hành tốt hơn khi có luật pháp và khi người ta không thể giết người bừa bãi được. Đó là một phần mà Plato đã tranh luận trong cuốn

Nền Dân Chủ anh cháu đã đưa cho cháu đọc. Nhưng sự thật là tên phục vụ đó đã cố gắng tìm cách giết cháu, và nếu cháu không tìm cách chống lại thì hắn sẽ không bao giờ dừng lại. Cháu không chọn việc giết hắn. Hắn gây hấn trước, không phải cháu.”

Ông Crowe gật đầu. “Hay lắm,” ông nói.

“Cháu trả lời đúng phải không?”

“Không có câu trả lời nào là đúng cả, con trai ạ; ít nhất theo cách ta hiểu. Đó là sự tiến thoái lưỡng nan - xã hội vận hành được bởi vì người ta làm theo luật và không tàn sát nhau bừa bãi, nhưng nếu có người chọn sống ngoài những luật lệ đó, cháu phải làm sao đây? Để chúng thoát tội, hay là đánh trả chúng bằng chính thứ vũ khí mà chúng dùng để đánh mình? Nếu cháu chọn cách đầu, thì chúng sẽ nắm quyền cả xã hội, vì chúng luôn là người chuẩn bị kỹ để đánh mạnh hơn và chơi xấu hơn chúng ta. Nếu cháu chọn cách sau thì làm sao cháu ngăn chính mình trở thành kẻ xấu như chúng?” Ông lắc đầu. “Rốt cuộc thì, lời khuyên ta có thể trao cho cháu là - nếu cháu đi đến mức cuộc sống của một con người không còn có nghĩa lý gì với cháu nữa, thì tức là cháu đã đi quá xa. Miễn sao cái chết vẫn còn làm cháu ray rứt, miễn sao cháu hiểu rằng đó là phương kế cuối cùng, chứ không phải là đầu tiên, thì cháu có lẽ vẫn còn nằm trong giới hạn.”

“Chú có nghĩ rằng Mycroft biết là sẽ có chuyện như thế này xảy ra không?” Sherlock hỏi. “Chú có cho rằng đó chính là lý do anh ấy đưa cháu quyển sách đó không?”

“Không,” ông Crowe đáp, “nhưng anh cháu là một người đàn ông khôn ngoan. Chú nghĩ là anh ta biết ở một thời điểm nào đó cháu có thể sẽ tự hỏi mình, và anh ấy muốn cháu có cái vịn vào đó để trả lời.”