CHƯƠNG 10
Cậu chợp mắt một chút, dù trời đã xế trưa: một giấc ngủ xáo trộn, tràn ngập hình ảnh của Matty, bị trói chặt và tuyệt vọng trong bóng tối, khóc thầm một mình, và hoang mang không biết bạn bè của mình đang ở đâu. Khi tỉnh giấc Sherlock thấy đôi gò má của mình ướt đẫm nước mắt vì xót thương, và cậu phải mất một lúc mới nhớ là mình đang ở đâu và chuyện gì đã xảy ra.
Toàn bộ cơ bắp trên người cậu đau nhức, hai lá phổi bỏng rát, và cậu có thể cảm giác được sự tổn thương bên trong cổ họng mình, nơi Grivens từng bóp nghẹt. Cậu cố gắng sục sạo trong thâm tâm dấu tích của sự hoảng loạn trước những chuyện mình làm, nhưng hoàn toàn không có cảm giác nào mạnh mẽ như thế. Hối hận thì có. Cậu hối tiếc về sự thật là đã có một người bị chết, nhưng tất cả chỉ có thế thôi.
Nằm thao thức và suy nghĩ về Grivens, để đánh lạc hướng sự lo lắng về Matty, Sherlock thấy mình đang nghĩ về hình xăm màu xanh óng ánh trên cổ tay của gã đàn ông đó. Chính nó đã giúp Sherlock nhận ra ngay hắn ta là người đã từng theo dõi mình. Bình thường cậu sẽ chỉ nghĩ đến hình xăm như một sự trang trí, nhưng rõ ràng là chúng có ý nghĩa hơn nhiều. Chúng là phương cách để nhận dạng. Trong trường hợp này chúng đã giúp cậu phát hiện kẻ đã giúp những tên Mỹ trốn chạy theo dõi mình. Và dựa theo những gì mà tên phục vụ nói, thì người ta có thể nhận ra người có hình xăm bởi phong cách xăm của anh ta, giống như cách chúng ta nhìn một bức tranh và nhận ra đó là của Vermeer hay Rubens. Hoặc là, Sherlock nghĩ bụng, những bức tranh treo trên tường gia trang Holmes là của danh họa Vernet vậy. Tâm trí cậu giờ đây tràn ngập những ý tưởng về các loại hình xăm, cũng chính là các chỉ dẫn nơi chúng được xăm trổ và người nghệ sĩ sáng tạo ra chúng. Những chuyện như vậy mà cũng có thể xảy ra sao?
Sau một hồi thì cậu quyết định rằng việc nằm trên giường cũng không giải quyết được gì cả. Thế là cậu ngồi dậy và đi ra ngoài.
Mặt trời đang chiếu chói chang trên boong tàu SS Scotia. Xung quanh là mênh mông trời bể. Cảnh quan như thể họ đang nằm gọn lỏn bên trong một cái tô sứ màu xanh đặt nằm ngửa. Không có một dấu hiệu nào của sự chuyển động, ngay cả những con chim hải âu nhìn cũng như đang bị treo lơ lửng bất động trên không.
Sau ít phút, cậu mới nhận ra nãy giờ mình đang nghe một bản vĩ cầm mà không để ý. Rufus Stone ư? Có thể lắm - trường hợp có hai nghệ sĩ vĩ cầm cùng ở trên tàu xem ra rất hiếm, và cậu nghĩ là mình cũng đang bắt đầu có thể nhận ra được một vài nốt nhạc từ phong cách của Stone - đó chính là sự thăng hoa của anh vào cuối mỗi tiết tấu nhất định, và cách những ngón tay bên trái uyển chuyển ở những khúc rải hợp âm phức tạp.
Cậu đi tìm người nhạc sĩ đó, và bắt gặp anh ta ở địa điểm quen thuộc gần mũi tàu. Lần này không có đám đông nào vây quanh anh cả. Có thể họ đã phát chán hết rồi chăng.
“Tôi đang bắt đầu tự hỏi không biết cậu có quyết định từ bỏ lớp học của chúng ta như quẳng một cái khăn tay cũ rích hay không,” Stone kêu to, vẫn tiếp tục chơi đàn.
“Em có... một buổi chiều bận rộn quá,” Sherlock đáp lại. “Nhưng giờ thì em ở đây rồi.”
“Vậy thì chúng ta bắt đầu đi.” Rufus dừng lại và hạ thấp cây đàn xuống. “Có câu hỏi nào không trước khi chúng ta xem cậu còn nhớ gì về thế đứng được học sáng nay?”
Sherlock nghĩ trong giây lát. “Bản nhạc yêu thích nhất của anh là gì vậy?” cậu hỏi. “Có phải là bản của Bruch mà anh chơi sáng nay không?”
Rufus trầm ngâm ít giây. “Không phải,” cuối cùng anh ta đáp. “Tôi có một sự yêu thích thầm kín với những sáng tác của Henryk Wieniawski. Ông ta viết rất nhiều bản hòa tấu dành cho vĩ cầm, và tôi thích nhất bản số hai trong số đó, quãng D thứ. Và sau đó là bản Sonata cho vĩ cầm không nổi tiếng lắm của Giuseppe Tartini ở quãng G thứ. Đó mới chính là sự thử thách tài nghệ của một nhạc công vĩ cầm.”
“Không nổi tiếng ư?” Sherlock hỏi.
“Nó được biết đến với cái tên Devil”s Trill Sonata. Tartini cho rằng ông đã mơ thấy Quỷ Dữ chơi đàn. Khi tỉnh dậy ông đã cố gắng viết ra hết bản nhạc mà con Quỷ đó đã chơi, và tạo ra một bản hòa tấu chính xác hết mức. Bản nhạc đó khó đến nổi một vài nhà bình luận cho rằng Tartini đã phải đánh đổi cả linh hồn của mình cho Quỷ Dữ để đổi lấy kỹ thuật chơi bản nhạc ấy.”
“Thật là vớ vẩn.”
“Dĩ nhiên là vậy rồi. Nhưng nó tạo ra một câu chuyện hay, và giúp thính giả có hứng nghe nếu họ cho rằng có điều gì đó ma quái hoặc kỳ lạ ẩn sau bản nhạc mà chúng ta đang chơi.” Anh chìa cây đàn ra cho Sherlock. “Nào, giờ thì cùng xem những điều đang bị đè nén bên trong như thế nào nào.”
Từ lúc đó đến hết buổi chiều, Sherlock cầm cây vĩ cầm dưới sự quan sát tận tình của Rufus Stone và liên tục thử các cách sử dụng cây vĩ để tạo ra những nốt nhạc mà không cần phải bận tâm nốt nào là nốt nào. Tại thời điểm này đó là kỹ thuật duy nhất mà Rufus muốn cậu phải thành thạo. Cậu bắt đầu đơn giản với việc kéo những giai điệu ngân dài, mượt mà và uyển chuyển - mà theo Rufus mô tả là kỹ thuật tách âm - chỉ bằng cách đưa tay trái lên nâng cổ đàn thay vì thật sự nhấn vào bất cứ sợi dây đàn nào. Chỉ việc đó thôi cũng đã mất nhiều tiếng đồng hồ liền đến khi Rufus hài lòng, đầu tiên là luyện với một dây và tiếp theo là những dây khác, phải cố gắng đạt được đúng cao độ của một nốt nhạc cho dù có tốn bao nhiêu thời gian đi nữa.
Và đó là cách mà tất cả thời gian còn lại của chuyến hải hành diễn ra. Sau buổi ăn sáng, Sherlock sẽ ở với Rufus Stone trên boong tàu khoảng hai giờ đồng hồ, sau đó họ sẽ cùng đến phòng ăn dùng bữa trưa. Hai tiếng tiếp theo sẽ dành cho luyện tập rồi Sherlock sẽ quay lại phòng mình để nghỉ ngơi và đọc thêm cuốn
Nền Dân Chủ của Plato. Hai tiếng tiếp theo nữa sẽ lại tập cùng Rufus Stone, và sau đó là buổi ăn tối. Thời gian còn lại, Sherlock thường cùng Amyus Crowe đọc sách trong thư viện trước khi trở về phòng ngủ, nhưng phần lớn cả ngày ông Crowe lo chăm sóc Virginia nên có rất ít thời gian dạy dỗ cho Sherlock. Ít thời gian, và cũng ít công cụ và ví dụ. Sherlock để ý thấy rằng phương pháp dạy yêu thích của Amyus Crowe là sẽ dùng những điều ông thấy hoặc tìm thấy và sử dụng nó như nền tảng cho một bài học. Giữa đại dương như thế này, không hề thấy đất liền, thì có rất ít cơ hội để ông làm được việc đó.
Sherlock cũng hiếm khi thấy Virginia trong suốt cuộc hành trình. Cô bé cứ ở lì trong phòng, không hề muốn bước ra ngoài hay nói chuyện với ai. Sherlock nhìn thấy cô một hoặc hai lần, trông cô xanh sao và tái nhợt so với mái tóc đỏ đến nỗi cậu lo lắng cô không vượt qua nổi chuyến hải trình này, nhưng Amyus Crowe bảo cô bé rồi sẽ ổn thôi. Cô chỉ là đang hồi tưởng lại chuyến đi đầu tiên từ New York đến Liverpool, và mẹ cô đã mất trong chuyến đi đó. “Một sự rối loạn tinh thần”, ông Crowe nói, trong một đêm nọ tại thư viện, “càng trở nên trầm trọng hơn bởi sự đơn điệu buồn tẻ của chuyến đi và bởi sự thật là nó quá nhớ Sandia. Ginnie là một đứa trẻ hoạt động, như cháu đã từng thấy đấy. Nó rất ghét bị tù túng ở bất kỳ đâu. Một khi chúng ta xuống tàu, con bé sẽ bình thường lại thôi.”
Thời tiết trong suốt chuyến đi ôn hòa đến ngạc nhiên. Chỉ trừ một ngày duy nhất có mây đen và mưa rào gió thốc, trong suốt khoảng thời gian đó Rufus Stone và Sherlock phải trú trong phòng để luyện tập đến khi trời quang mây tạnh và biển trở lại êm dịu. Hoặc, ít nhất, sóng đủ nhỏ so với với thân tàu để con tàu Scotia có thể lướt lên đi tiếp.
Một lần nọ, vào ngày thứ tư trên biển, mọi người có vẻ phấn khích khi nghe Thuyền trưởng thông báo rằng họ nhìn thấy một con tàu khác. Các hành khách thay phiên nhau nhìn vào cái đốm nhỏ tận chân trời bằng kính viễn vọng. Amyus Crowe đã tận dụng cái ống kính như một công cụ dạy học bằng cách hỏi Sherlock hãy tính khả năng xảy ra để hai con tàu có thể nhìn thấy nhau giữa mênh mông đại dương với tần số rất ít các con tàu đi lại trên biển. Nhưng Sherlock đã nhận ra được rằng mặc dù Đại Tây Dương rộng lớn và khoảng cách giữa Shouthampton và New York rất xa, nhưng hầu hết các con tàu đều có xu hướng đi theo một hành lang hẹp, và có thể có mười, hoặc hàng trăm con tàu cùng đi lại một lúc. Với nhận biết đó, thì khả năng xảy ra thật sự rất cao.
Cả Sherlock và Amyus đều để ý thấy hai con tàu trao đổi với nhau bằng đèn phát sáng khi màn đêm buông xuống. Sherlock quan sát thủy thủ trên tàu Scotia gửi tín hiệu đi bằng một cây đèn dầu có cửa nháy phía trước để có thể đóng và mở. Một phần trong cậu hơi lo lắng về những mật tín được gửi qua lại từ những tên đồng lõa trên hai con tàu về cậu, Amyus và Virginia Crowe, nhưng như vậy thì chẳng khác nào hầu hết thủy thủ đoàn đều dính líu đến âm mưu đó, không thể nào. Và hơn nữa, không có dấu hiệu nào khác của việc phòng bị lục soát hay có chuyện gì xảy ra với ba người bọn họ, cả trước và sau khi con tàu nọ được nhìn thấy. Có vẻ như Grivens là người duy nhất trên tàu Scotia bị bọn xấu chiêu mộ.
Việc mất tích của một phục vụ viên đã gây chút ít sửng sốt cho thủy thủ đoàn nhưng lại không ảnh hưởng gì mấy đến các hành khách. Thuyền trưởng thậm chí còn không quay tàu lại để tìm kiếm phòng trường hợp anh ta rơi khỏi tàu. Sherlock chỉ có thể đoán rằng những mảnh quần áo tả tơi của Grivens đã được tìm thấy ở phòng máy, và chính vì thế mà Thuyền trưởng suy ra rằng hắn ta đã ngã vào cỗ máy lúc say rượu.
Thời gian cứ thế trôi đi và Sherlock đã học được những phong cách kéo đàn cơ bản như -
legato, collé, martelé, staccato, spiccato và sautillé - sau đó cậu bắt đầu dùng các ngón tay trái để đè giữ bốn sợi dây đàn bằng nhiều cách để tạo nốt và các hợp âm. Cậu vẫn chưa chơi được một bản nhạc nào ngoài những nốt ngân dài và liên tục. Trong khi Rufus Stone thì lại phát cuồng về chuyện trau dồi kỹ thuật và khả năng cho học trò trước khi cho họ vùng vẫy với âm nhạc thực thụ, nhưng Sherlock rất cảm kích cách dạy của Rufus. Nó rất hợp lý và dễ hiểu.
“Chuyện gì sẽ xảy ra khi chúng ta đến đất liền nhỉ?” Sherlock hỏi vào một ngày nọ, khi trời đã tối, trong giờ giải lao của một buổi học trên tàu.
“Đó sẽ là lúc tôi dạo bước vào một thế giới mới lạ và lấp lánh của nhiều lựa chọn, tìm kiếm cơ hội để xây dựng bản thân thành một thầy dạy nhạc trước và sau đó, nếu may mắn, tôi sẽ tìm một ban nhạc phù hợp để chơi. Cậu, mặt khác, sẽ cùng ông Crowe đáng kính và cô con gái giấu mặt bí ẩn của ông ta thực hiện những việc nằm trong dự tính của mình ở New York.”
Suốt ngày thứ năm của chuyến đi, giữa lúc giải lao sau buổi luyện tập kéo dài, Sherlock dành ít thời gian đứng nghỉ tại mũi tàu, dựa vào thành lan can và chăm chú nhìn vào khoảng không xanh mênh mông đến tận chân trời.
Không chỉ có mình cậu, cũng có rất nhiều hành khách đang đứng ở mũi tàu ngắm gió, sóng biển và mây xanh. Họ đang trông ngóng thấy đất liền mặc dù vẫn còn quá sớm để có thể nhìn thấy. Có thể những câu chuyện của Thuyền trưởng về những trận cuồng phong và các sinh vật biển kỳ quái đã nung nấu trí tưởng tượng của họ và vì thế họ đang trông chờ dấu hiệu báo trước một sự việc bất thường nào đó. Sherlock nghĩ cũng có khi họ đang chờ trông thấy một tảng băng trôi.
Có một người đàn ông, đang co ro trong chiếc áo khoác đứng giữa trời gió lạnh, thu hút sự chú ý của Sherlock nhất. Ông ta có bộ râu quai nón đen thẫm được tỉa tót với kiểu hơi vểnh xoăn ở ngọn và một hàm ria mép được vuốt cong lên hai bên. Thay vì nhìn ra hướng biển phía trước, ông quay lưng lại và nguệch ngoạc viết lên quyển vở bằng một cây bút chì.
Thật ra nếu nhìn kỹ hơn, Sherlock nhận ra là ông ta không phải đang viết mà là đang phác họa một cái gì đó. Sherlock xoay người cố xem ông ta đang vẽ gì, nhưng cậu chỉ có thể nhìn thấy trên quyển vở là một vật hình trụ với hai đầu trông như điếu xì gà mập ú. Nó như được chia ra thành nhiều phần bằng những vách ngăn hay rào chắn bên trong.
“Cậu đang chú ý đến phác họa của tôi, phải không?” người đàn ông nói, ngước mắt nhìn lên. Giọng ông ta rặt giọng Đức.
“Xin lỗi,” Sherlock đáp, xấu hổ. “Cháu chỉ đang tự hỏi sao ông không nhìn về phía trước, như mọi người ở đây.”
“Tôi đang nhìn về phía trước đó chứ,” người đàn ông nói. “Một quãng đường dài phía trước, tới lúc mà những chuyến hải trình như thế này được thực hiện không phải bằng tàu, nơi luôn bị ảnh hưởng bởi các cơn bão và sóng gió, mà chúng được thực hiện bởi những quả bong bóng.”
“Bong bóng ư?” Sherlock thốt lại. Cậu gật đầu về hướng bức phác họa trên quyển vở. “Có phải là nó không ạ?”
Người đàn ông nhìn chằm chằm vào Sherlock bán tín bán nghi. “Tôi thấy cậu không mấy giống một điệp viên kinh tế hay quân sự,” ông nói. “Trẻ quá. Và khuôn mặt cậu cho tôi biết là cậu rất phóng khoáng và được ăn học đàng hoàng, không giống ấn tượng của tôi về các điệp viên.” Ông ta cười to, mặc dù nó có vẻ giống tiếng tằng hắng hơn là tiếng cười. “Tôi đã từng bị... công kích... tại quê hương mình vì những ý tưởng này. Tôi mong rằng ở Mỹ, mọi việc sẽ khác đi.”
“Cháu là Sherlock Holmes.” Sherlock đưa tay phải ra. “Rất vui được gặp ông.”
“Và tôi là Ferdinand Adolf Heinrich August Graf von Zeppelin,” người đàn ông đáp lời, cúi người xuống vẻ cứng ngắc, sau đó đưa tay ra bắt tay Sherlock. “Ở đất nước cậu, tôi được nhắc tới như Bá tước Zeppelin. Cậu cũng có thể gọi tôi là “Bá tước”.” Ông ta xoay quyển vở lại để Sherlock có thể nhìn thấy. “Nào, giờ nói cho ta biết - cậu có tưởng tượng ra được một quả bóng khổng lồ được làm từ vải sơn dầu được chằng thêm bởi một loại đai nào đó, tạo thành một khí cầu chắc chắn, và nếu có thể, nó sẽ được thổi vào loại gas nhẹ hơn không khí để bay vượt qua đại dương ở độ cao mà khi nhìn xuống cậu chỉ thấy toàn mây, chứ không phải sóng biển không?”
“Ông sẽ dùng loại khí nào ạ?” Sherlock hỏi.
Ngài Bá tước gật đầu. “Một câu hỏi xuất sắc. Người Pháp đã từng dùng khí nóng cho những quả bóng nhỏ hơn, mặc dù ta chưa thấy nó được dùng cho loại bóng nào to hơn cả, và quân đội Mỹ cũng đã có được kết quả tốt với gas của than cốc mà họ thu được từ việc đốt than. Ta lại thích dùng khí hy-đrô hơn, nếu nó được tinh chế vừa đủ.”
“Và ông sẽ di chuyển khí cầu bằng cách nào ạ?” Sherlock bị lôi cuốn vào những ý tưởng lạ lùng của người đàn ông nọ. “Có chắc là những quả cầu đó sẽ trôi lơ lửng không?”
“Khi ở trên con tàu này chúng ta nhận thấy mình không phải đang trôi, mà là di chuyển. Nó có động cơ. Có bánh lái. Nếu các bánh lái có thể làm một con tàu di chuyển trên nước thì nó có thể giúp một quả cầu bay trên không trung.”
Von Zeppelin cười nhạt. “Ta đã thực hiện hàng loạt các cuộc thử nghiệm cho những chuyến bay nhẹ-hơn-không khí rồi. Cách đây bốn năm khi ta ở Mỹ, với tư cách là một giám sát cho Quân đoàn Potomac miền Bắc trong cuộc chiến chống lại Liên Quân miền Nam. Lúc ở đó ta đã thực hiện cuộc bay lên đầu tiên với một quả cầu cột dây thăm dò. Ta cũng đã gặp Giáo sư Thaddeus Lowe, có lẽ là chuyên gia vĩ đại nhất trên thế giới về các chuyến bay nhẹ hơn không khí.” Khuôn mặt khắc khổ của Von Zeppelin dường như sáng bừng lên khi ông nói về các quả cầu. Và rõ ràng là chủ đề này đã thật sự thu hút Sherlock. “Giáo sư Lowe trước đó đã từng chế tạo ra một quả cầu với ý định vượt Đại Tây Dương, như con tàu này, ông đặt tên nó là
Phương Tây Vĩ Đại. Đường kính của nó là 103 feet và có thể nhấc bổng mười hai tấn. Trước khi chiến tranh xảy ra, ông đã dùng nó để bay thành công từ Philadelphia đến New Jersey, nhưng những nỗ lực đầu tiên để thực hiện chuyến bay vượt Đại Tây Dương đã bị trì hoãn khi bề mặt của quả cầu bị gió xé toạc.” Ông nhún vai. “Sự bắt đầu của chiến tranh cũng có nghĩa là những kế hoạch của giáo sư Lowe bị trì hoãn. Ông thành lập Liên Minh Biệt Đội Khinh Khí Cầu theo yêu cầu của Tổng thống Lincoln. Chiến tranh thật kỳ lạ. Một mặt nó lấy đi những người có tri thức không cho họ theo đuổi sự phát triển, nhưng mặt khác lại thúc đẩy nhu cầu phát triển. Nếu không có cuộc Nội Chiến giữa các tiểu bang thì liệu Tổng thống có để tâm đến khả năng của các quả cầu hay không?”
“Sherlock!”
Một giọng thiếu nữ vang lên. Đó là Virginia. Sherlock quay lại thấy cô đang đứng hơi chếch khỏi lối đi, và nép dưới bóng râm của một chiếc thuyền cứu hộ. Trông cô vẫn rất nhợt nhạt, nhưng đang mỉm cười.
“Xin lỗi,” cậu nói với Bá tước. “Cháu phải đi rồi.”
Ngài Bá tước lại cúi chào, dáng cứng ngắc. “Dĩ nhiên rồi. Bình đẳng giới tính là trên hết mà.”
“Ông có gia đình chưa ạ?” Sherlock hỏi.
“Tôi mới đính hôn chuẩn bị đám cưới,” Von Zeppelin đáp. Khuôn mặt nghiêm nghị sáng hẳn lên khi ông cười. “Tên cô ấy là Isabella Freiin von Wolff, thuộc dòng dõi AltSchwanenburg, và cô ấy là người phụ nữ đẹp nhất trên thế giới.” Ông khẽ lướt về hướng Viginia, sau đó lại nhìn lại Sherlock. “Mặc dù có thể là cậu không nghĩ thế, ta nghĩ vậy.”
Sherlock cười với ông. Cậu có vẻ rất thích Bá tước người Đức này.
“Sẽ gặp ông sau nhé,” cậu nói.
“Con tàu này nhỏ mà,” Bá tước đáp, “và hầu như chỉ có chúng ta trên tàu thôi. Thế nào chúng ta cũng lại sẽ chạm mặt nhau nữa đấy.”
Để ngài Bá tước lại phía sau, Sherlock bước thẳng đến hướng Virginia.
“Mình cứ sợ là cậu sẽ ở trong phòng suốt chuyến đi chứ,” cậu nói lúng túng.
“Mình đã thế mà,” cô đáp. “Mình ghét cuộn mình trong một căn phòng nhỏ lắm, nhưng mình không có lựa chọn nào cả.” Cô ngượng đỏ mặt, đôi gò má nhợt nhạt đột nhiên hồng hẳn lên, và cô ngó sang chỗ khác. “Mình đoán... mình đoán là ba mình đã nói với cậu rằng chuyến đi này gợi nhớ đến chuyến đi lần trước của cả nhà, và mẹ mình đã qua đời.”
“Đúng là ông ấy có nói,” Sherlock xác nhận.
“Và, còn tệ hơn nữa, mình bị say sóng. Chắc cậu không tin được là có người biết cưỡi ngựa mà lại say sóng phải không, nhưng mà bụng mình đã đau vật vã luôn.”
Cậu không nhịn được cười. Tính cách thật thà thẳng thắn của Virginia là điều mà cậu thích nhất ở cô. Chẳng có cô gái Anh nào lại dám nói những chuyện về say sóng như thế.
“Vậy giờ cậu thấy sao rồi?” cậu hỏi.
“Bà cùng phòng đã pha cho mình một ít trà thảo dược. Hôm nay là ngày đầu tiên mình kiềm được để không bị nôn thốc, nhưng mình nghĩ nó cũng có chút tác dụng.”
“Mình rất tiếc về chuyện mẹ cậu,” cậu nói ngượng ngùng. “Mình rất tiếc là chuyến đi này đã gợi lại ký ức về bà. Mình nghĩ việc ở Anh cũng luôn nhắc cậu nhớ về bà mà.”
“Đúng vậy đó.” Cô bé nói ngắt quãng. “Mình không biết là có phải mẹ đã mắc bệnh trước khi lên tàu, hay mẹ bị nhiễm bệnh gì đó trong khi đang đi, nhưng mẹ bị bệnh rất nặng cả một tuần. Càng ngày mẹ càng gầy yếu, nhợt nhạt, và sau đó cứ lịm dần đi.” Một giọt nước mắt ứa ra từ khóe mắt cô và từ từ lăn dài xuống má. “Người ta chôn bà tại biển. Thuyền trưởng nói ông ấy không thể giữ xác bà trên boong, ít nhất là cho đến hết chuyến đi, vì thế họ quấn bà trong một tấm vải bạt, cầu nguyện cho bà và đẩy bà rớt xuống khỏi thành tàu. Đó là điều kinh khủng nhất. Mình thậm chí không có được một ngôi mộ để đến thăm.” Cô bé vươn lòng bàn tay mở ra khoảng không đại dương mênh mông. “Chỉ có thế này thôi.”
Sherlock im lặng trong chốc lát, rồi nói: “Mẹ mình cũng đang ốm.” Cậu không biết mình đang nói gì nữa; lời nói cứ thế vuột ra.
“Vì bệnh gì vậy?” Virginia hỏi.
“Không ai chịu nói vì sao hết.” Cậu ngập ngừng. “Nhưng mình nghĩ đó là lao phổi.”
“Lao phổi ư?”
“Ừ, lao phổi. Bà nhợt nhạt và gầy lắm, và lúc nào cũng mệt mỏi. Thỉnh thoảng mình thấy cả máu trong chiếc khăn mà mẹ ho vào, nhưng mình biết anh trai và ba mình cố gắng để mình không phải thấy cảnh đó.” Cậu có lẽ không ngăn được mình nói nữa một khi đã bắt đầu bộc bạch. “Thế là mình vào thư viện và tra cứu càng nhiều sách càng tốt đến khi tìm thấy được những triệu chứng bệnh này. Bà mắc phải lao phổi, và đang hấp hối. Vô phương cứu chữa. Nó làm người ta mỗi lúc một yếu đi, từng chút từng chút một.”
Virginia xích lại gần hơn và tựa đầu vào vai Sherlock trong chốc lát rồi lại rời ra. “Ít nhất thì mẹ mình cũng đã đi nhanh hơn,” cô bé nói, nhìn chăm chăm vào cậu. “Mình chưa bao giờ nghĩ về điều đó trước kia, nhưng mình nghĩ đó cũng là một điều may. Chứ cứ nhìn bà lịm dần hết tuần này sang tháng nọ rồi đến năm khác... thật sự rất kinh khủng.”
Sherlock quay đi để cô không thể thấy được những giọt nước mắt đang lăn dài xuống khóe mắt.
“Chúng ta sẽ tìm thấy cậu ấy chứ?” cô thì thầm.
“Tìm thấy ai?”
“Matty.”
Sherlock cảm thấy ngực se thắt lại. Cậu đang tự hỏi chính mình câu đó, và cũng chưa tìm thấy câu trả lời nào.
“Chúng ta sẽ tìm thấy cậu ấy,” cậu nói. “Và cậu ấy sẽ không sao hết. Những gã đang bắt giữ cậu ấy không có lý do gì để không giữ cậu ấy sống cả.”
“Đó không phải là câu trả lời thật sự,” cô bé nói nhẹ nhàng, “và cậu biết điều đó mà.”
“Cậu đã tham quan hết con tàu chưa?” Sherlock hỏi, chủ động đổi đề tài.
“Không nhiều lắm. Mình cứ buồn ngủ suốt thôi.”
“Vậy để mình dẫn cậu đi xem nhé.”
Cậu hộ tống cô bé đi khắp con tàu, chỉ cho cô thấy tất cả mọi thứ từ mũi tàu đến đuôi tàu, kể cả cái chuồng nhốt gia súc - giờ cũng đã vơi đi bớt sau năm ngày của chuyến đi. Tại mũi tàu, cô bé đặt bàn tay lên tay cậu.
“Ba mình nói là cậu đã phải đánh nhau,” cô nói. “Cậu có ổn không?”
“Lúc nào mà mình không bị vướng vào đánh nhau chứ,” cậu trả lời.
“Cậu nên học sao để đánh cho tốt hơn đi.”
“Này, mình đã cố gắng đến tận bây giờ mà. Mình đã sống sót.”
“Chuyện gì xảy ra vậy? Nói cho mình nghe đi!”
Thế là cậu kể hết mọi chuyện xảy ra với Grivens, người phục vụ, và không giống với lần kể cho Amyus Crowe nghe, lần này cậu thấy mình xúc động và phải dừng câu chuyện lại vài lần để dằn cảm xúc xuống. Tuy nhiên, lần kể lại câu chuyện cho Virginia làm nó càng thật hơn. Đó không còn là việc thu nhặt các sự kiện với nhau nữa.
Khi cậu kết thúc, cô bé siết mạnh cánh tay cậu. “Cậu có sao không?”
“Mình nghĩ là sẽ ổn thôi.”
“Đó là một cú sốc, phải không?”
Cậu liếc nhìn sang cô bé, bối rối. “Về điều gì?”
“Về việc gây ra cái chết của một con người. Và biết rằng mình có thể là nguyên nhân.”
Cậu nhún vai ngượng nghịu. “Mình đoán thế. Mình chỉ... không biết phải phản ứng với chuyện đó như thế nào. Mình không biết làm sao cho phù hợp hết.”
“Mình nhớ có lần,” cô bé nói, “hồi gia đình sống ở Albuquerque, khi cha mình trở về sau những chuyến đi, ông chỉ ngồi sụp xuống một chiếc ghế và muốn uống rượu. Mọi người cố gắng bắt chuyện với ông, nhưng ông không đáp lại. Lúc đó mình vẫn chưa biết ông đã làm gì, hoặc ông đã đi đâu. Sau này mình mới phát hiện ra rằng ông truy đuổi những tên giết người, hay một kẻ phản bội, và đôi lúc mọi việc kết thúc không tốt đẹp gì.” Cô bé dừng lại giây lát. “Mình đoán là mình đang cố giải thích rằng khi mọi chuyện bắt đầu không ảnh hưởng gì hết, tức là lúc cậu không có phản ứng gì, đó cũng là lúc cậu nên lo lắng vì chính lúc đó cậu không còn là con người nữa.”
Cô bé nhón lên và hôn cậu thật nhanh lên má, như một luồng gió ấm giữa tiết trời lạnh giá. “Tớ đi nằm nghỉ chút đây. Có thể sẽ gặp lại cậu lúc ăn tối nhé.”
Cô bước đi. Cậu vẫn còn cảm hơi ấm áp của đôi môi cô trên má mình.
Ba ngày cuối cùng của chuyến hải hành tràn ngập mong ngóng cùng những cơn sốt cá cược giữa các hành khách khi họ cá với nhau tất tần tật mọi thứ, từ thời điểm chính xác là ngày nào, giờ nào, phút nào họ sẽ thấy được đất liền, đến tên của người thủy thủ sẽ lên tàu hướng dẫn họ xuống cảng New York là gì. Sherlock tránh không vướng vào những chuyện đó, chỉ biết lao mình vào luyện tập vĩ cầm với Rufus Stone. Cậu luyện cách tạo âm và hợp âm bằng tay trái đến khi đầu các ngón tay sưng phồng lên. Chỉ đến ngày cuối cùng Stone mới thật sự để cậu thể hiện cùng lúc mọi thứ đã học: từ dáng đứng, cách sử dụng cây vĩ và cách dùng tay trái nắm lấy cổ đàn, và chơi nhạc thật sự.
Đó là một trong những thành tựu đáng hãnh diện nhất của cậu.
“Cậu cần kiếm cho mình một cây vĩ cầm,” Rufus nói với cậu bé. “Một cây thật tốt, chứ không phải hàng làm từ gỗ hoàng dương và được gắn vào nhau bằng keo dính.” Anh ta cau mày với Sherlock. “Cậu có khả năng thiên phú, anh bạn của tôi ạ, các ngón tay cậu dài, ốm và linh hoạt như cây thông điếu vậy. Cậu có thể còn tiến xa nữa. Tôi không nói là cậu có thể trở thành một nghệ sĩ vĩ cầm vĩ đại - để điều đó xảy ra tôi phải bắt đầu dạy cậu từ lúc năm tuổi cơ - nhưng tôi muốn nhắc rằng nếu tiếp tục luyện tập thì cậu có thể kiếm sống trong một dàn nhạc giao hưởng, chắn chắn đấy.”
Cuộc chuyện trò bị gián đoạn bởi tiếng ồn ào của các hành khách đang đứng phía đầu tàu. Đất liền kia rồi!
Sherlock lao tới để nhìn. Chuyến đi quá dài, dường như đủ để cậu quên mất bước đi trên mặt phẳng không chuyển động thì nó như thế nào.
Nước Mỹ là một khối đen sẫm nơi chân trời, và chỉ trong vòng vài tiếng nữa thôi, nó sẽ dần hóa ra những đường đồi và vách đá hiểm trở với um tùm cây cối. Thật lạ, nó trông cũng chẳng khác mấy quang cảnh ở miền Nam nước Anh, nhưng có điều gì đó trong không khí, một mùi hương, gợi lên rằng thật sự là họ đang ở một xứ sở khác.
Ngay lúc đó con tàu xoay hướng để khi đến New York, đường bờ biển sẽ song song với một bên mạn tàu. Mặc dù còn rất nhiều tiếng nữa mới cập bến, một vài hành khách đã vội vã về phòng thu gọn hành lý.
Buổi ăn cuối cùng trước khi cập bến quả là một bữa tiệc thịnh soạn với nhiều món đặc biệt và một cái bánh chúc mừng, cùng với vài thùng rượu sâm-banh. Sherlock ăn qua loa, và rời đi ngay để có thể ngủ chút ít trước khi đến nơi.
Cậu có cảm giác là mình cần làm như vậy.
Con tàu đang cập bến cảng New York. Ngoài dự tính, Sherlock cũng vươn người ra lan can tàu cùng các hành khách, ngắm vô số các hòn đảo nhỏ vụt qua. Con tàu di chuyển thận trọng dưới sự điều khiển của hoa tiêu - một thủy thủ địa phương giỏi nghề đã gia nhập vào đội ngũ con tàu khi chiếc thuyền nhỏ của anh bất chợt xuất hiện bên cạnh con tàu.
“Một khu vực phức tạp,” Amyus Crowe nói khi đứng bên cạnh Sherlock. “Một trong những bến tàu nhộn nhịp nhất thế giới. Có ba loại nước khác nhau cùng hòa vào ở đây - nước biển Đại Tây Dương, nước sông Hudson và nước của eo biển Đảo Dài. Đó là chưa kể có khoảng năm mươi hòn đảo ở vùng lân cận, cùng khoảng ba mươi con sông, con lạch và suối từ Hudson đều đổ ra đây, và nhiêu đó thôi đã tạo ra một hệ thống thủy triều và dòng chảy vô cùng phức tạp.”
“Giờ chúng ta làm gì đây ạ?” Sherlock hỏi.
“Điều đầu tiên ta phải làm là liên hệ với các nhà chức trách. Chúng ta sẽ cần trợ giúp trong chuyện này, và chú phải báo với họ là chú đã trở về. Có một số người trong thành phố này mang ơn chú, và chú định sẽ tận dụng những cơ hội đó để xem liệu có ai nhớ đã thấy cậu nhỏ Matty và những tên bắt cóc hay không, đó là khởi đầu của chúng ta. Anh trai cháu chắc cũng đã đánh điện báo với họ là chúng ta đang đến rồi, nên ta hy vọng sẽ được tiếp đón trên bến tàu. Và sau đó chúng ra sẽ xem con tàu SS Great Eastern cập bến lúc nào, trong trường hợp nó đã đến nơi rồi. Nếu chưa, thì chúng ta sẽ đợi. Nếu thật sự nó đã đỗ bến tại đây thì chúng ta sẽ truy tìm ba tên đàn ông đó đã đi đâu, một kẻ trong bọn chúng bị tâm thần, và cùng đi chung còn có một đứa trẻ. Chúng ta sẽ tìm thấy chúng, ta chắc chắn điều đó.” Có điều gì đó rất cứng rắn trong giọng nói của ông, và khi Sherlock ngước nhìn lên thì khuôn mặt của ông rắn lại như đá, “Và khi chúng ta tìm ra được chúng, chúng sẽ phải ước rằng chưa bao giờ được sinh ra.”