CHƯƠNG 11
Cảnh tàu cập bến New York quả là hỗn loạn. Mọi người ai cũng cố mang hành lý đi theo bên mình khi xuống cầu tàu, và bỗng nhiên con số hành khách dường như tăng gấp đôi khi hành khách hạng chót đột nhiên xuất hiện trên boong tàu, mắt hấp háy nhìn ánh nắng chói chang. Tuy nhiên, cuối cùng thì tất cả các hành khách cũng đều dồn vào một tòa nhà lớn kiểu nhà kho, nơi mọi người xếp hàng và được kêu đến trước một dãy bàn có các viên chức nhập cảnh mặc đồng phục, nét mặt nghiêm nghị, khó đăm đăm kiểm tra giấy tờ từng người. Sherlock nhận ra hàng trăm thứ tiếng với các giọng khác nhau, và tất cả đều nhắc đến những nơi sẽ đến như là Chicago, Pennsylvania, Boston, Virginia và Baltimore.
Sherlock bắt gặp Rufus Stone đứng trong một hàng khác. Tay chơi đàn vĩ cầm đang đeo hộp đàn trên vai. Ngoài cây đàn ra, hình như anh ta chẳng có thứ hành lý gì quí giá.
Quay lại thấy Sherlock, anh ta nháy mắt chào. Sherlock liền cười chào lại.
Ông già người Đức – Bá tước Ferdinand von Zeppelin – cũng đứng trong một hàng khác. Cái dáng đứng thẳng lưng và vẻ khó chịu ra mặt chứng tỏ rằng ông ta vốn không quen phải chịu cảnh đứng chờ, hoặc đứng chung chạ với một tầng lớp xã hội khác biệt như thế. Ông ta không hề nhìn quanh mà chỉ nhìn thẳng về phía trước, như chỉ muốn ở một nơi nào khác chứ không phải chỗ này.
Con tàu đậu trong bến cùng với nhiều tàu khác thuộc các hãng tàu khác nhau, dàn trải trên một khu vực cảng rộng lớn. Phần lớn đều là tàu vỏ sắt hoặc gỗ với hai bánh xe guồng to tướng hai bên hông, nhưng Sherlock cũng nhận thấy còn một số tàu vỏ gỗ nhỏ hơn vẫn còn chạy bằng buồm, và một số tàu mới vỏ sắt có chân vịt bằng kim loại gắn vào trục ở đuôi tàu.
Thời tiết nóng ngột ngạt khiến Sherlock nhớ đến phòng máy trên tàu SS Scotia, nhưng lại cộng thêm mùi nước thải ở trên. Cậu cố thở càng ít càng tốt khi cùng với Virginia đứng sau lưng Amyus Crowe khi người đàn ông Mỹ to lớn này trao đổi với một viên chức nhập cảnh có vẻ mặt khá khắc khổ, rồi sau đó đi theo ông ta ra ngoài, bước vào khoảng không gian rộng mở của nước Mỹ.
Nước Mỹ đây rồi! Giờ thì cậu đang ở một đất nước khác! Đầy phấn khích, cậu nhìn quanh, thử kê ra những khác biệt giữa nước Anh và nước Mỹ. Bầu trời cũng xanh lơ, đương nhiên rồi, còn người dân ở đây cũng giống như những người mà cậu vừa từ biệt, nhưng có một cái gì đó khang khác không thể diễn tả được. Có lẽ là kiểu ăn mặc, hoặc lối kiến trúc nhà cửa, hoặc một cái gì đó mà cậu thậm chí không nêu ra được, nhưng rõ ràng là nước Mỹ khác với nước Anh.
Ông Crowe gọi một chiếc xe ngựa – một trong hàng trăm chiếc xếp hàng để chờ các hành khách xuống tàu – và họ bắt đầu len lỏi qua những đường phố cực rộng nhưng bẩn của thành phố New York. Phần lớn nhà cửa ở đây đều làm bằng gỗ hoặc thứ đá nâu chắc là được khai thác tại chỗ. Những tòa nhà gỗ thường chỉ một hoặc hai tầng, nhưng những tòa nhà đá màu nâu có thể cao đến bốn hoặc năm tầng, nhiều nhà có tầng trệt mà muốn bước lên phải qua bậc tam cấp. Nhiều ngôi nhà nằm kế cận với khu cảng là khách sạn, nhà trọ, nhà hàng hoặc quán rượu, nhưng khi chiếc xe ngựa chạy vào thành phố thì Sherlock lại nhận ra càng nhiều cửa hàng và công sở hơn, cũng như những chung cư lớn có hàng trăm người sinh sống cùng nhau trong các dãy phòng riêng lẻ. Đây chính là điều rất không thường thấy ở nước Anh, có lẽ trừ những khu vực nguy hiểm vùng Rookery của London.
Và ở mỗi góc phố đều có những đứa trẻ bán báo – đứa nào tay cũng vẫy vẫy trên đầu bốn hoặc năm tờ báo chữ nhỏ còn miệng thì gào to những tin giật gân – như tìm thấy xác chết không còn bàn tay, kẻ cướp dùng súng đi cướp, chính trị gia bị tố cáo ăn của đút lót. Muôn màu muôn vẻ hoạt động con người đều qui tụ ở đây – ít nhất thì cũng là những mặt xấu xa hơn – và mỗi thằng bé dường như bán một tờ báo khác nhau -
Sun, Chronicle, Eagle, Star... và vô số những cái tên khác.
Chiếc xe ngựa dừng lại bên ngoài một khách sạn có vẻ bề ngoài trông đứng đắn hơn những khách sạn gần cảng. Sherlock cho rằng có một cách chọn lọc nào đó – các hành khách đi tàu hạng chót sẽ tìm những nhà trọ tối tăm, bẩn thỉu, rẻ tiền gần bến cảng, còn những ai có nhiều tiền thì đi xa hơn để tìm những khu vực tốt, sạch hơn nhưng cũng đắt tiền hơn.
“Đây là khách sạn Jellabee,” ông Crowe nói khi ra khỏi xe và giúp Virginia bước xuống vỉa hè. “Cha đã từng trọ ở đây. Chỗ này cũng khá tử tế. Công ty Pinkerton sử dụng nơi này nhiều lần. Ở ngay góc phố thôi. Chúng ta vào đây, hỏi xem còn phòng trống không, rồi đi xuống tiệm Niblo”s Garden để ăn tối. Nơi sang nhất của thành phố đấy nhé.”
Trong khi ông Crowe đi lên quầy lễ tân để đặt phòng thì Sherlock nhìn quanh. Bên trong khách sạn không biết làm sao mà còn nóng hơn cả bên ngoài. Tuy nhiên, nơi này khá tươm tất, có thảm lót tử tế, còn trong sảnh đợi thì ai cũng ăn mặc chỉn chu. Đa số đều nói giọng tương tự như Amyus và Virginia Crowe, và những gã mà bọn họ theo đuổi đến tận xứ này, nhưng Sherlock cũng nghe thấy lẫn lộn những thứ tiếng khác – như tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nga và nhiều ngôn ngữ nữa mà cậu không xác định được.
Ông Crowe quay lại, mặt tươi tỉnh. “Chú vừa đặt phòng cho mọi người. Một phòng khách với ba phòng ngủ. Khi nào chúng ta đem được Matty về, cậu ta sẽ ở cùng phòng với cháu đấy, Sherlock.”
“Dĩ nhiên rồi ạ.” Sherlock cảm thấy tự tin khi ông Crowe nói là “khi nào” thay vì “nếu” họ đem Matty về được.
Họ theo cầu thang đi lên tầng ba, nơi được xếp phòng.
Thực là kỳ quặc bởi theo Sherlock nhận xét thì đây chỉ mới là tầng hai.
Ông Crowe nói to. “Chà chà, có cái để học rồi đây. Đấy chỉ mới là một trong nhiều điểm khác biệt giữa nước Anh và nước Mỹ. Ở Anh, người ta có tầng trệt, tầng một, tầng hai và tiếp tục. Còn ở Mỹ thì tầng trệt là tầng một, nên ta chỉ có tầng một, tầng hai và tiếp nữa. Không có tầng trệt gì cả.”
“Còn những thứ khác mà cháu cần phải biết là gì?” Sherlock hỏi.
“Cái mà xứ cháu gọi là vỉa hè thì chúng tôi gọi là vệ đường. Ngoài ra thì phần lớn đều giống nhau. Dĩ nhiên, đồng tiền không giống nhau rồi. Ở đây là đô-la, dime, và xu chứ không phải là pound, shilling và pence. Lát nữa chú sẽ đưa cho hai đứa một ít tiền. Đừng có tiêu xài gì nhé.”
Phòng ở khá tốt – phòng khách có hai ghế sôpha và nhiều ghế ngồi thoải mái, lại kèm theo một bàn viết và một cửa sổ nhìn ra con đường phía ngoài. Phòng ngủ của Sherlock nhỏ hơn, nhưng giường thì lại êm hơn nhiều so với cái mà cậu bỏ lại tại trang viên Holmes. Nói gì thì nói, tuy khách sạn này không kén khách, nhưng rõ ràng là chỉ dành cho những khách có tiền và có tài sản.
“Cháu ra ngoài đi dạo được không ạ?” cậu hỏi ông Amyus Crowe.
“Chắc chắn là được chứ.”
“Phố xá ở đây như bàn cờ, khá là dễ đi.” Ông bước sang bàn viết và chọn lấy một tờ giấy có in tiêu đề. “Nếu bị lạc đường, cháu có thể hỏi khách sạn Jellabee ở đâu. Có địa chỉ in ở đây. Đừng có la cà vào mấy đám bài bạc góc phố, đừng táy máy tiền và cũng đừng vô lễ với ai. Nếu cháu thấy chỗ gọi là Five Points thì tìm cách tránh xa nó càng nhanh càng tốt. Cháu sẽ nhận ra chỗ Five Points khi ngửi thấy những thứ mùi - chỗ này là nơi có nhiều nhà máy cất nhựa thông, xưởng làm keo dán và lò sát sinh. Cứ theo đúng những chỉ dẫn của chú thì cháu sẽ ổn thôi.” Ông ta cho tay vào túi áo và lấy ra một nắm tiền giấy và tiền xu. “Chỗ này để cháu mua cái gì đó để ăn, nếu thấy đói, hoặc gọi xe ngựa để về lại khách sạn.”
“Thế còn chú sẽ làm gì?”
“Chú sẽ đi tìm chỗ mà tàu
SS Great Eastern cập bến. Nếu nó chưa cập bến thì chú sẽ tìm hiểu xem khi nào nó sẽ tới.”
Sherlock quay lại để xem liệu Virginia có muốn đi cùng với cậu hay không, nhưng cô nàng đã lẩn vào phòng mình từ lâu.
Ông Crowe lắc đầu. “Cứ để nó yên. Con bé đã có quá nhiều kỷ niệm ở chỗ này. Hãy để cho nó bình tâm lại.”
Ở bên ngoài, dưới ánh nắng mặt trời, mùi ống cống và rau cải thối lại càng nồng hơn. Sherlock đi thơ thẩn dọc theo vệ đường – cậu tự nhủ,
vỉa hè mới đúng - để nắm bắt cảnh vật và âm thanh của thành phố tại vùng đất xa lạ này.
Cậu đi qua những cửa hàng có bảng hiệu bên ngoài giới thiệu “các mặt hàng”, dường như là những món đồ gia dụng đủ loại, và các tiệm rượu bán đủ thứ, từ thức uống mà cậu đoán là rượu táo cho đến món gọi là negus tức rượu vang porto có pha nước. Từ đường lớn trổ ra nhiều con hẻm; những con hẻm sâu nằm giữa các tòa nhà làm cậu ngạc nhiên khi thấy không chỉ có chó mèo mà còn có cả lũ lợn hoang đang sục sạo ủi vào những đống rác để tìm xem có thứ gì ăn được không. Góc phố nào cũng có các nhà hàng, nơi phục vụ các món ăn của nhiều nước khác nhau. Sherlock hết sức ngạc nhiên về số lượng và đủ các loại quán bán hàu, thường là nơi bán bia và những thứ rượu pha kì bí uống kèm với hàu rán mỡ, luộc, nướng, hoặc nướng vỉ hoặc chỉ là hàu ướp đá. Hàu dường như là món phổ thông nhất tại New York.
Cũng giống như các quán rượu, nhà hàng và cửa tiệm, ở đây có các nhà thờ xây bằng đá trắng có tháp chuông nhọn hoắt, với những bậc tam cấp trắng dẫn lên tận cửa trước, cùng nhiều nhà kho trữ đủ các loại hàng hóa đem từ tàu xuống hoặc để đưa lên tàu. Chỉ trong khoảng vài khu phố mà Sherlock đã thấy nhiều thứ hơn tất cả những gì mà cậu đã từng thấy tại nhiều làng mạc và thị trấn ở nước Anh cộng lại.
Và có người đang theo đuôi cậu.
Cậu nhận ra điều này sau khi đi thơ thẩn chừng nửa tiếng. Lúc nào trong đám đông đằng sau cậu cũng hiện ra chiếc mũ quả dưa màu nâu đó. Cậu nhận ra chiếc mũ vì ở thân mũ có một dải băng màu xanh lục rất rõ. Cậu thử tìm trong đám đông có chiếc mũ nào khác giống chiếc này hay không, nhưng chỉ có một chiếc như thế và lúc nào cũng theo đằng sau cậu.
Cậu thử đi vào một cửa tiệm và nhìn quanh các “mặt hàng” – bàn giặt đồ, xà bông, kẹp phơi quần áo và những thứ được trưng bày khác, nhưng khi cậu bước ra thì gã đàn ông đội mũ hình quả dưa vẫn còn lảng vảng ở góc phố, đang đọc một tờ báo chắc là vừa mới mua của mấy đứa trẻ trên đường. Sau đó Sherlock chui vào một con hẻm đầy rác rưởi khác để sang một con phố chạy song song, nhưng bằng cách nào đó người đàn ông đội mũ quả dưa lại đoán được ý cậu và chạy sang một con hẻm khác, thành ra khi Sherlock quay nhìn ra phía sau thì vẫn thấy gã đó. Sherlock không nhìn rõ mặt người đàn ông này, nhưng đây là một gã vạm vỡ, mỗi khi đi thì vai lắc lư như thể gã ta mới bước ra khỏi con tàu đang bập bềnh nhẹ dưới chân và chưa quen với cảm giác đi trên nền đất bằng.
Sherlock căng óc suy nghĩ. Cậu không biết là gã này đã rình mình từ khách sạn hay mới chỉ thấy cậu ở ngoài đường rồi theo đuôi. Nếu gã ta mới chỉ gặp Sherlock ở ngoài đường thì điều cuối cùng mà cậu muốn làm là về lại khách sạn nơi cha con Virginia Crowe đang trú. Đằng nào thì cậu cũng phải cắt cái đuôi này. Không được, đột nhiên cậu nghĩ, là mình cần đảo ngược tình thế: đi theo kẻ bám đuôi để xem gã ta ở đâu. Không chừng đó là nơi mà Matty đang bị giữ.
Cũng chẳng dễ dàng chút nào.
Cậu lủi vào một cửa tiệm tạp hóa khác. Tiệm này hình như chứa khá nhiều thứ quần áo – áo khoác, mũ và quần dài. Nghĩ rằng kẻ đi theo mình hẳn sẽ đứng ở phía ngoài một lúc lâu, Sherlock nhanh tay chọn một cái mũ nồi, một cái áo khoác và cảm thấy nhẹ người khi thấy cửa tiệm này có một cửa ra khác mở vào một con phố nhỏ. Cậu mang những thứ đã mua tới quầy cho ông chủ. Ông này nhìn Sherlock một lượt từ đầu xuống chân rồi nói:
“Này, bé như cậu thì nên nghĩ đến việc mua một cái ná. Tôi có hàng mới đấy. Cậu có muốn xem không?”
“Ná à?” Từ này làm cho Sherlock chựng lại một lúc. Có phải ná là một từ địa phương mà cậu cần phải biết? Rồi cậu nhớ lại hồi học Kinh Thánh tại trường Deepdene. Chẳng phải David đã sử dụng cái ná để giết Goliath như trong Sách Samuel quyển thứ nhất sao? Đó là một thứ vũ khí mà ta có thể dùng để ném đá một cách chính xác với một lực rất mạnh.
“Lũ trẻ ở đây đứa nào cũng có một cái hết,” ông chủ tiệm nói thêm
“Thế giá bao nhiêu ạ?” Sherlock hỏi.
Giá cái ná cũng không làm tăng thêm bao nhiêu vào số tiền mua quần áo nên Sherlock đồng ý. Nếu nhờ có cái ná mà cậu trà trộn được vào đám trẻ ở đây thì lại càng tốt hơn nữa. Sau khi choàng vội cái áo khoác và đội mũ, cậu quay ra xem xét cái ná trong khi ông chủ tiệm gói chiếc áo khoác của cậu lại – cái áo mà gã theo đuôi trông theo để tìm ra Sherlock – vào một tấm giấy màu nâu để cậu mang về. Cái ná là một miếng da đơn giản có thể bọc lấy một hòn đá, mỗi bên có một sợi dây buộc bằng da. Một đầu dây buộc được cấu tạo để quấn vào cổ tay, còn tay kia thì giữ đầu còn lại, sau đó ta chỉ việc quay tít cái ná rồi thả đầu dây đang nắm để bung hòn đá vụt ra.
“Cậu cũng phải cần có đạn,” ông chủ tiệm vừa nói vừa đưa cho Sherlock cái gói chứa chiếc áo khoác cũ của cậu. “Tôi sẽ biếu cho cậu một túi vòng bi không tính tiền.”
Sherlock lấy món tiền mà Amyus Crowe cho mình để trả. Cậu đút cái ná và mấy vòng bi vào trong túi, vừa cầm lấy cái gói giấy màu nâu được buộc chặt bằng dây. Cậu kéo sụp cái mũ xuống sát đầu rồi theo lối thoát phụ bước nhanh ra khỏi tiệm, cố giữ một khoảng cách với người đàn ông đội chiếc mũ quả dưa. Khi vừa thấy góc phố ở phía trước, cậu rảo bước nhanh hơn nữa.
Khi tới góc phố, cậu gọi thằng bé bán báo gần nhất.
“Hết bao nhiều tiền cho đống báo này?”
Thằng bé kia dường như không tin nỗi vào vận may của mình. “Mười xu một tờ, tớ còn chừng năm mươi tờ. Tức là...” nó ngừng lại, tính toán. “Sáu đô đấy.”
Sherlock ước chừng thằng kia chỉ còn hơn bốn mươi tờ, và thậm chí nếu là năm mươi thì cũng chỉ có năm đô thôi.
“Tớ đưa cậu năm đô cho tất cả,” cậu lên tiếng.
“Chịu ngay!” thằng bé kêu to. Nó giao ngay cọc báo, còn Sherlock thì đưa cho nó năm đô. Khi thằng bé vụt chạy, tay cầm mớ tiền vẫy vào mặt lũ bạn và phá lên cười, thì Sherlock bắt đầu bán báo.
“Đọc đi đọc đi!” cậu cố cao giọng cho giống giọng New York. Cậu biết là không giống lắm vì đã nghe ông Amyus Crowe và Virginia nói chuyện trong một thời gian dài, nhưng miễn không phải giọng Anh là được rồi.
“Án mạng khủng khiếp tại...” cậu căng óc ra, “tại Five points! Cảnh sát bị đánh lạc hướng. Dự đoán còn nhiều án mạng nữa!”
Những đứa trẻ bán báo khác nhìn lại các tiêu đề, tự hỏi không biết Sherlock lấy tin ở đâu ra, nhưng cậu đã có ba khách hàng lấy báo khi gã đội mũ quả dưa hiện ra ở góc phố.
Chính là Ives – kẻ có mặt tại ngôi nhà ở Godalming. Gã tóc vàng hoe cắt ngắn có mang súng.
Sherlock rùng người xuống, cố làm cho vai thóp lại, người khom khom, như thể cậu bị mệt nhoài và không được ăn uống đầy đủ. Hành động này hóa ra hiệu quả. Ives nhìn đảo qua Sherlock, nhưng lại không chú ý đến cậu như kiểu người ta không thèm chú ý đến cây đèn hơi hoặc cái máng ăn dành cho ngựa. Gã ta đứng lại, đảo mắt nhìn vào con đường phía trước, chắc là muốn biết Sherlock đã đi hướng nào. Khi không tìm ra cậu, Ives lầm bầm chửi thề. Gã tần ngần đứng đó một lúc, chỉ cách cậu bé mà gã đang cố tìm chừng hai thước, rồi quay ngoắt người lại bỏ đi.
Sherlock ném mấy tờ báo xuống chân thằng bé bán báo đứng gần nhất, nói. “Cho cậu đấy, đem đi bán đi.”
“Đây là tờ
Sun,” thằng bé kia đáp. “Tớ chỉ bán tờ
Chronicle.”
“Cậu nên mở rộng sản phẩm đi,” Sherlock lên tiếng, rồi nhanh chân bước theo Ives.
Ives cắm đầu cắm cổ đi thật nhanh, hai tay cho vào túi. Bộ dạng gã ỉu xìu. Có lẽ ông chủ nào đó của gã sẽ bực mình lắm vì đã để mất dấu Sherlock. Việc gã không nhắm về hướng khách sạn có nghĩa là gã chắc chắn không biết chỗ mà Sherlock và hai người còn lại đang ở trọ.
Lúc này, mặt trời đang trượt dần xuống đường chân trời, chỉ còn mỗi khoảng không trên chóp các tòa nhà tỏa sáng, và vạn vật như được rải lên một lớp màu cam nhàn nhạt. Ánh mặt trời rọi thẳng vào mắt Sherlock khiến cậu phải nheo lại nên khó mà lần theo Ives. Phải đi qua khoảng trên năm dãy nhà trước khi Ives rẽ sang đường khác và đi về phía một nhà trọ.
Sherlock hoang mang nhìn quanh quất. Cậu không rõ đây có phải là Five Points hay không, nhưng chắc chắn chỗ này không có gì hay ho bằng khu vực khách sạn Jellabee tọa lạc, mặc dù ở cuối phố cũng có một nhà thờ vách ván rách nát với tháp chuông ọp ẹp. Xung quanh mùi hôi thối thoảng bốc lên, nhưng cậu không biết đó có phải là mùi của các xưởng lọc nhựa thông và các lò mổ hay chỉ là mùi thối rữa và mùi nước thải vương vất như một màn sương vô hình chụp lên thành phố New York. Nơi này có vẻ chứa nhiều nguy hiểm. Những người la cà ở các góc phố không còn là lũ trẻ bán báo nữa, mà là đám đàn ông với áo sơ mi rách te tua, quần bẩn thỉu, cứ chõ mắt soi mói nhìn vào khách qua đường. Ở đâu đó, một người đàn ông đang thổi một điệu kèn buồn bã. Tiếng kèn bị lạc điệu, nhưng dường như lại hợp với quá nhiều những thứ khác cũng lạc điệu xung quanh.
Sherlock cần phải trà trộn kỹ hơn dự tính. Cậu lẩn nhanh vào một con hẻm, lấy cái mũ chà chà xuống đất cho bẩn đi, rồi xé toạc hai ống tay áo khoác để làm lộ đường chỉ may ra ngoài.
Phải cần đến chiêu này. Giờ thì cậu không khác gì những đứa trẻ quanh khu phố.
Quay lại đường lớn, bước khập khiễng một chút làm cho dáng đi khác hẳn, cậu men dọc theo hướng về phía nhà trọ.
Cậu ghé mắt nhìn vào trong vì cửa mở toang.
Nhà không có sảnh giống như khách sạn Jellabee. Nếu bước vào bên trong hành lang cậu sẽ thấy toàn những cánh cửa hoặc những bậc thang trơ trụi. Cậu chẳng thể nào đi lòng vòng gõ từng cửa một để tìm Matty. Cậu phải nghĩ đến một kế khác.
Nhìn quanh, cậu thấy phía bên tòa nhà đối diện có một cái cầu thang sắt gắn bên ngoài tường gạch – có lẽ là một dạng cầu thang thoát hiểm. Các bậc cầu thang nối từ tầng này đến tầng kế tiếp, và được gắn vào các ban công hẹp bằng kim loại. Nếu trèo lên đó cậu có thể nhìn vào bên trong một số cửa sổ của nhà trọ. Với điều kiện những bức rèm được vén lên và các tấm kính còn đủ trong suốt.
Cậu tự nhủ
Đừng lòng vòng nữa! Đi băng qua bên kia đường, cậu đứng chờ cho đến khi không có ai đi qua rồi nhanh chóng trèo lên thang thoát hiểm để đến tầng một.
Hoặc đó là tầng hai? Cậu cũng không rõ nữa.
Cậu thu người xuống, ép sát người vào khung lưới kim loại của chiếc ban công và nhìn thẳng sang bên kia đường. Có bốn khung cửa sổ, đúng là ơn trời vì chẳng có cái nào có rèm cả. Một căn phòng có người đàn ông bên trong đang bước tới lui mà Sherlock không nhìn rõ mặt. Một khung cửa khác có một phụ nữ đang đăm đăm nhìn ra ngoài. Dường như bà ta đang đội trên đầu chiếc mũ để ngủ. Bà buồn bã cười chào khi bắt gặp ánh mắt của Sherlock. Hai căn phòng còn lại hiện đang không có người ở.
Cậu trèo lên bậc thang kế tiếp. Cái thang bằng kim loại lắc lư cọt kẹt dưới chân cậu. Sherlock không biết lần cuối cùng cái thang được kiểm tra an toàn là khi nào, và rồi tự hỏi không biết có bao giờ nó được kiểm tra an toàn hay không.
Ban công kế tiếp nhìn qua bốn phòng khác ở khu nhà bên kia.
Hai phòng đầu không thấy có người.
Cửa sổ thứ ba cậu nhìn vào một căn phòng có bốn người đàn ông đang đứng, tay cầm mấy cái ly cáu bẩn vừa uống vừa nói chuyện. Một người là Ives, một người là Berles, tay bác sĩ. Còn hai người kia thì Sherlock không biết.
Tuy vậy, điều quan trọng là Matthew Arnat đang đứng tựa cùi chỏ vào bậu cửa sổ, mắt nhìn ra con đường phía ngoài.
Cậu ta đưa mắt lướt từ người này sang người khác, vật này sang vật kia. Trông cậu ta cũng ổn; không thấy xây xát, thâm tím gì cả. Có vẻ cậu ta cũng được cho ăn uống; hoặc ít nhất cũng chẳng thấy vẻ gì là ốm đói. Chỉ có vẻ buồn chán mà thôi.
Cho tới lúc cậu trông thấy Sherlock. Mắt cậu sáng lên, khuôn mặt loé lên một nụ cười.
Lòng Sherlock rộn lên khi thấy Matty vẫn còn sống, và có vẻ khỏe mạnh. Nỗi lo sợ mà cậu cố dồn nén trong suốt chuyến hành trình đột nhiên vỡ òa, làm cho cậu như bị choáng ngợp. Cậu chớp mắt để ngăn những giọt nước mắt nhẹ nhõm.
Sherlock đưa tay lên môi để làm hiệu cho Matty. Cậu ta gật đầu, nhưng mặt vẫn còn cười tươi rói. Sherlock biết rằng nếu những người trong phòng thấy Matty cười thì sẽ biết ngay là có chuyện gì đó đang xảy ra. Sherlock đưa mấy ngón tay lên khoé môi kéo cụp xuống tạo thành một nét mặt buồn bã. Matty trợn mắt nhìn. Sherlock làm lại, cụp mắt xuống làm ra vẻ buồn thảm, và chân mày của Matty nhướng lên đến tận chân tóc khi cậu đột nhiên hiểu ra. Nụ cười biến mất trên khuôn mặt cậu bé, và hai khoé miệng của cậu liền xệ xuống như lúc Sherlock vừa thấy lúc nãy, nhưng ánh mắt của Matty thì vẫn cứ sáng rỡ.
“Cậu khỏe chứ?” Sherlock cử động môi, hỏi.
Matty gật nhẹ.
“Họ có đối xử với cậu tử tế không?” Sherlock hỏi tiếp.
Matty nhướng mắt.
“Họ... có... đối xử... tử tế... không?” Sherlock hỏi lại, tách rời ra từng từ để Matty hiểu dễ dàng hơn.
Matty gật đầu lại, nhưng rất nhẹ.
“Bọn tớ sẽ mang cậu về!” Sherlock bảo.
Matty há miệng, uốn thành những từ, “Tớ biết!”
Mấy gã đàn ông đứng đằng sau Matty dường như đã bàn xong chuyện. Sherlock có cảm giác thời gian không còn nhiều. “Họ định mang cậu đi đâu?” Sherlock hỏi.
Matty mấp máy môi, nhưng Sherlock không hiểu cậu ta định nói những gì. Cậu nhướng mày, cố ra dấu cho Matty biết là mình không hiểu. Matty làm lại, nhưng Sherlock cũng chẳng biết bất cứ từ nào mà cậu bạn đưa ra cả.
Bàn tay Matty chuyển hướng về phía khung cửa sổ, như thể cậu ta đang viết cái gì đó. Có phải cậu ta đang viết trên lớp bụi bẩn thành một tin nhắn để lại cho Sherlock? Sau đó cậu ta trỏ vào bậu cửa sổ ở phía bên ngoài, rồi chỉ qua con đường phía bên kia có ngôi nhà thờ cũ kỹ rách nát mà Sherlock đã thấy trước đó. Cậu ta nhíu mày, ý hỏi Sherlock có hiểu hay không. Sherlock lắc đầu. Matty làm lại lần nữa – làm bộ như đang viết một ghi chú vào khung cửa sổ, rồi chỉ vào bệ cửa sổ, rồi chỉ về phía nhà thờ. Đúng ra cậu ta chỉ vào phần chóp nhà thờ. Sau đó cậu ta bổ sung mấy cử chỉ – giơ lên hai ngón tay, rồi chỉ vào Sherlock, chỉ vào cậu ta và rồi vừa giơ lên ba ngón tay vừa nhún vai như thể bị lúng túng.
Đúng là điên mất thôi. Chẳng ai hiểu được bất cứ tin nhắn nào mà Matty cố tìm cách gởi đi.
Sherlock vừa định ra dấu lại cho biết là mình chẳng hiểu gì cả thì một trong những gã đứng trong phòng bước qua phía Matty, túm lấy vai cậu kéo ra khỏi khung cửa sổ. Hắn ta không nhìn ra phía ngoài, nên Sherlock cho rằng hắn túm lấy Matty bởi vì hắn muốn Matty cùng đi, chứ không phải do hắn thấy cậu ta đang liên lạc với người ở phía ngoài. Sherlock nhìn lảng chỗ khác để tránh bị chú ý. Khi cậu chú ý trở lại thì căn phòng đã trống trơn. Mấy gã đàn ông đã bỏ đi, mang theo Matty.
Sherlock hối hả chạy xuống đất và băng nhanh qua phía nhà trọ nằm bên kia đường. Cậu không chắc mình sẽ làm gì, nhưng cậu phải làm một cái gì đó.
Cậu đã quá trễ. Trong khi cậu và Matty đang cố gắng liên lạc, thì một trong những gã đàn ông đã đi xuống gọi một chiếc xe ngựa, còn người kia mang hành lý xuống lầu. Khi Sherlock băng qua đường thì họ đã trèo lên xe ngựa rồi. Sherlock chỉ kịp nhìn vẻ mặt đầy hoảng sợ của Matty trước khi họ ra roi quất cho mấy con ngựa kéo chiếc xe đi mất.
Cậu nhìn quanh tìm một chiếc xe khác, nhưng đường phố ngoài người ra thì chẳng có gì cả.
Cậu cảm thấy như có một bức màn tuyệt vọng tối đen chụp xuống.
Không. Giờ không phải là lúc để tuyệt vọng. Cậu co giò cố hết sức chạy nhanh về khách sạn, đi theo con đường cũ mà cậu đã vô thức nhớ trong đầu, biết rằng trong túi mình vẫn còn có mẩu giấy mang tiêu đề khách sạn phòng khi bị lạc đường. Đầu óc cậu cũng suy nghĩ nhanh như đôi chân chạy, cố hiểu tin nhắn cuối cùng của Matty. Hẳn là một gợi ý gì đó. Một lời giải cho câu hỏi mà Sherlock đặt ra. Nhưng đó là cái gì?
Một trò đố chữ chăng? Có lẽ vậy. Có phải Matty cố đánh vần nơi mà cậu sắp tới dưới dạng những âm tiết? Trong khi các cửa hiệu, khách sạn và góc phố vụt qua trước mắt, Sherlock thì hào hển thở không ra hơi, cậu vẫn cố giải mã những gợi ý đó.
Viết chữ. Bút chì chăng? Bút máy? Từng lời chăng? Từng chữ cái chăng?
Bậu cửa sổ. Có phải cậu ta chỉ muốn nói đến bậu cửa hoặc nói đến bậu cửa làm bằng đá?
Còn cái nhà thờ. Khi bàn chân của cậu dậm thình thịch xuống vỉa hè, chạy len qua các khách bộ hành đi chậm rãi, Sherlock cố nhớ lại cái gì nằm trên chóp nhà thờ. Một cái chóp nhọn, dĩ nhiên rồi. Nhưng ở phần trên của chóp nhọn là...
Một cái chong chóng chỉ chiều gió.
Và đột nhiên mọi thứ đều trở nên rõ ràng. Pen-sill-vane. Tại nước Mỹ có một địa danh là Pennsylvania cũng gần đây. Pennsylvania. Phải chăng đó là điều mà Matty cố báo cho cậu biết?
Nhưng còn tin nhắn khác thì sao – hai ngón tay, một ngón chỉ vào cậu ta, ngón kia chỉ vào Sherlock, rồi cái vẻ lúng túng khi cậu ta giơ lên ba ngón tay? Cái đó nói lên điều gì.
Hai – có nghĩa là đi tới. Từ Pennsylvania đến – đến đâu?
Khách sạn Jellabee hiện ra trước mắt. Các cơ bắp trên người Sherlock đau như bị ai giần, nhưng đằng nào thì Sherlock cũng phải tiếp tục chạy.
Matty và Sherlock và một điều thứ ba, một thứ gì đó bị thiếu. Virginia! Đó phải là Virginia. Đó là một địa danh đồng thời cũng là tên của cô gái!
“Pennsylvania đến Virginia”. Vẫn chưa rõ nghĩa mấy đối với Sherlock, nhưng Amyus Crowe có thể giải thích được.
Cậu đâm nhào vào cửa trước khách sạn và ba chân bốn cẳng phóng lên cầu thang, hầu như muốn xỉu khi tới cửa lớn của phòng trọ. Cậu đấm mạnh vào cửa. Cánh cửa mở ra và cậu té nhào vào bên trong. Virginia sững sờ nhìn cậu từ trên xuống dưới.
“Cha cậu đâu rồi?” Sherlcok vừa thở vừa nói.
“Cha mình chưa về. Chắc ông vẫn còn ở chỗ công ty Pinkerton.”
“Tớ vừa thấy Matty. Giờ thì họ mang cậu ta đi rồi.” Cậu vừa thở hổn hển vừa cố thốt ra tiếng. “Matty ra dấu một tin nhắn cho tớ – “Pennsylvania đến Virginia”. Tớ nghĩ là cậu ta muốn báo cho tớ biết nơi họ sẽ mang cậu ta tới, nhưng tớ lại không hiểu. Có phải họ đang đi tới Pennsylvania hoặc Virginia? Hoặc cả hai nơi? Đó là hai nơi có đúng không?”
Virginia lắc đầu. “Đơn giản hơn nhiều. Tàu của Công ty đường sắt Pennsylvania xuất phát từ nhà ga tại New York. Tàu có tuyến đường đến Virginia. Họ sẽ mang Matty tới đó. Phải là như thế.”
“Chúng ta phải tìm cha của cậu để báo cho ông biết.”
“Không còn thì giờ đâu. Nếu họ chạy đến nhà ga thì chúng ta cần đến nhà ga ngay lúc này để chặn họ lại, tìm cách mang Matty về. Không thể chờ cha mình được. Mình sẽ để lại vài chữ.”
Cô bé bước nhanh về phía bàn, mở ngăn kéo và lấy ra một cuộn giấy bạc. “Cha mình cất tiền vào chỗ này để ra đường khỏi bị móc túi. Không hẳn là có người muốn lấy tiền, nhưng ông thì lúc nào cũng cẩn thận. Dù sao đi nữa thì ta cũng cần đến tiền.”
Virginia nguệch ngoạc vài chữ cho cha vào tờ giấy có in tiêu đề trên bàn viết, rồi cả hai chạy xuống cầu thang, ra khỏi khách sạn. Vừa lúc một chiếc xe ngựa mới bỏ khách xuống khách sạn, Virginia nhảy lên và kéo Sherlock lên cùng. Virginia hét vào tai người đánh xe, Sherlock không nghe rõ cô nói những gì nhưng chiếc xe liền phóng nước đại đi ngay.
“Mình hứa trả gấp đôi tiền nếu ông ta chở chúng ta ra ga trong vòng năm phút,” cô mỉm cười nói.
Sherlock và Virginia bám chặt vào thành xe khi chiếc xe lao chạy qua các đường phố của New York. Có hai lần bánh xe vấp phải ổ gà khiến cho họ dồn vào nhau, nhưng rồi nhanh chóng xích ra xa ngay.
Khi chiếc xe ngựa dừng lại bên ngoài mặt tiền đồ sộ có cột chạm trổ của nhà ga, thì Sherlock đã ê ẩm cả người vì cuốc xe quá dằn xóc. Trong khi Virginia trả tiền cho người đánh xe, Sherlock phóng nhanh vào nhà ga.
Sân ga đông đúc và trật tự, lũ lượt nhiều người từ mọi hướng đi qua một cái sảnh mênh mông lát đá cẩm thạch. Đối diện với sảnh là một loạt các khung cửa vòm dẫn tới nơi mà Sherlock nghĩ là sân ga. Nhiều tấm bảng được treo để thông báo nơi đến và những ga dừng dọc đường của các đoàn tàu. Thậm chí lúc cậu đang đứng nhìn thì người ta đang gỡ một số bảng xuống và móc lên những bảng khác.
Sherlock vừa chạy dọc theo dãy các khung cửa vừa nhìn biển báo. Một lúc sau cậu mới biết là Virginia cũng đang chạy bên cạnh mình.
Chicago, Delaware, Baltimore... Sherlock cảm thấy lúng túng khi Virginia là tên một tiểu bang, nhưng các ga đến viết trên các bảng thông báo đều là tên các thị trấn. Hồi ở Anh, cậu biết là ga Southampton, chẳng hạn, nằm ở Hamshire, nhưng đây là nước Mỹ, cậu chẳng biết tiểu bang nào có thị trấn nào.
“Đây rồi!” Virginia la lên. “Richmond – là thủ phủ của tiểu bang Virginia. Đường ray số 29. Tuyến Pennsylvania.”
Cô băng qua một khung vòm, Sherlock theo sau. Một nhân viên bảo vệ bệ vệ trong bộ đồng phục màu xanh lục, đội mũ lưỡi trai quắc mắt muốn ngăn hai đứa trẻ lại khi nhìn thấy cái mũ và cái áo khoác rách toạc của Sherlock, nhưng Virginia chạy qua mặt anh ta. Người này cố túm lấy cánh tay Sherlock, nhưng cậu đẩy phắt anh ta ra một bên.
Họ chạy trên sân ga, dọc theo các toa xe của một con tàu dường như dài bất tận. Phần đầu máy ở phía trước hầu như không thấy được vì khuất sau một khúc cua. Khác với các nhà ga nước Anh, nơi các sân ga có cùng độ cao với cửa ra vào đặt ở 2 đầu toa xe, ở đây nền sân ga thấp hơn và có các bậc thang để bước lên cửa toa xe.
Vừa chạy Sherlock vừa lướt mắt nhìn các ô cửa toa xe, cố tìm khuôn mặt của Matty, nhưng thứ đầu tiên cậu thấy chính khuôn mặt cháy nám của John Wilkes Booth. Cậu kéo Virginia dừng lại, rồi đi ngược về phía cuối toa xe.
“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu,” cậu vừa thở gấp vừa nói.
Virginia nhìn tới nhìn lui dọc theo con tàu. Ngoài một nhóm lèo tèo mấy người đang bước lên tàu, chẳng tìm được ai có thể giúp đỡ. Thậm chí người bảo vệ muốn bắt họ lúc nãy giờ cũng mất tăm – có lẽ đang đi tìm cảnh sát.
“Ta cần phải tìm ra người bảo vệ chuyến tàu,” cô vừa bước lên các bậc tam cấp vừa nói. “Người này có thể ra lệnh dừng tàu.”
Sherlock chỉ còn cách bước lên các bậc tam cấp theo cô. Cậu không chắc là cô đã nghĩ thấu đáo chưa, nhưng hiện giờ thì cậu cũng chẳng có ý kiến nào khá hơn.
Họ đi vào bên trong toa xe. Chính giữa toa có một lối đi, hai bên là các hàng ghế gỗ được bọc vải.
Ở phía nửa dưới toa tàu, ngồi đối diện nhau là Ives, Berle, John Wilkes Booth và một người khác, nếu nhìn vào gáy mà đoán thì đó là Matty. Mấy gã này cứ nói liên hồi, Sherlock dúi đầu xuống giữa hai chiếc ghế trước khi bị họ nhìn thấy.
Virginia nhìn quanh quất để tìm người bảo vệ. Tim Sherlock như nhổm lên trong lồng ngực khi cậu nghe thấy tiếng còi huýt bên ngoài, một tiếng động lanh lảnh đinh tai.
Và rồi con tàu bắt đầu chuyển bánh.