← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 13

Trên tàu là một cảnh hỗn loạn. Dường như hành khách nào cũng quát hỏi nhân viên bảo vệ, muốn biết vì sao đường tàu bị đổi, tại sao họ ngừng và hiện đang ở chỗ nào. Ông này dường như cũng không nắm được vấn đề - tuy đang trấn an hành khách, nhưng nét mặt lại hết sức ngỡ ngàng.

“Tàu ngừng ngoài kế hoạch!” ông ta liên tục hét lớn. “Xin vui lòng

không xuống tàu ở đây.”

Trên sân ga, hai người đàn ông vẫn còn đứng với Virginia và Matty. Họ đang chờ đợi một cái gì đó. Cậu ngờ rằng họ đang chờ tên Ives. Đứng mãi phía xa cậu vẫn thấy John Wilkes Booth. Hắn đứng thẳng, nhưng người lại lắc lư từ bên này sang bên khác, hai mắt nhìn đâu đâu. Có lẽ đám người đi theo đã phục thuốc để giữ cho hắn không quậy phá.

Một trong những người đàn ông – người mà cậu chưa bao giờ gặp – thình lình đưa bàn tay phải đang giấu sau lưng ra trước. Gã đang cầm một khẩu súng.

Sherlock thấy rằng mình không có nhiều lựa chọn, cho nên cậu ra khỏi tàu, bước xuống một cầu thang ngắn đi về phía hành lang tòa nhà.

Ở cuối tàu, cậu thấy đám đàn ông nãy giờ đứng chờ trên sân ga, lúc này đang lôi những cái thùng ra khỏi toa xe cuối cùng. Những chiếc thùng giống như những thứ mà cậu từng thấy trong vườn ngôi nhà tại Godalming - và nghĩ rằng đã nhìn thấy thứ gì đó lúc nhúc bên trong. Khi mấy cái thùng được dỡ xuống, họ mang sang một chiếc xe ngựa đang đứng chờ.Có vẻ họ thận trọng không để ngón tay quá gần những khe hở giữa các mảnh ván đóng thùng. Hai người trong số đó lên tiếng chửi thề khi cái thùng họ khiêng bị tròng trành suýt rơi xuống đất, mặc dù Sherlock không thấy được cái gì đã làm cho nó nghiêng đi. Có lẽ thứ gì đó cựa quậy bên trong.

Tuy cậu không hề thấy có bất cứ tín hiệu nào được phát ra, nhưng con tàu nhỏm lên lấy trớn rời khỏi nhà ga, các đầu nối kim loại giữa các toa xe bị kéo căng lên kêu lảng cảng điếc tai. Lúc đầu tàu chạy chậm rồi lúc càng càng nhanh dần.

“Ives đâu rồi?” Berle hỏi Sherlock, giọng rướn lên át tiếng ồn của con tàu. Bàn tay phải của Berle đang nắm cánh tay của Virginia. Còn tay trái gã thì cầm cái móc quai của một chiếc hộp lớn bằng cỡ quả bóng đá.

“Hắn rơi xuống tàu rồi,” Sherlock trả lời. Cậu thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực nhưng vẫn cố giữ bình tĩnh và mặt không đổi sắc.

Cả Virginia lẫn Matty đều nhìn cậu với ánh mặt dò hỏi. Cậu nhìn lại từng người, tìm cách trấn an họ là mọi việc đều suôn sẻ, nhưng bản thân mình thì lại không tin như thế và cậu cũng chắc là hai người kia cũng chẳng hề tin.

“Mày nói là nó bị ngã à,” Berle lên tiếng. “Mày

đã giết nó rồi sao!”

“Tao ngửi có mùi khói,” Booth đứng đằng sau cả bọn nói, nhưng mắt vẫn nhắm nghiền. Giọng nói của hắn mơ màng, xa xôi.

“Câm mồm!” người thứ ba, đang giữ Matty, gầm lên, “nếu không, bản mặt bên kia của mày sẽ bị dí sắt nung đỏ bây giờ!” Chắc gã phải chịu đựng nhiều vì chứng điên của Booth trên suốt chặng từ NewYork tới đây – có lẽ từ Southampton – và rõ ràng là đã đến lúc hết chịu thấu. Sherlock nhìn kỹ kẻ này một lúc. Cậu chưa hề thấy gã trên tàu. Gã vạm vỡ như một võ sĩ quyền anh, mặc một chiếc quần denim, và một áo choàng cũng bằng vải denim bên ngoài một chiếc sơ-mi không cổ, cổ quấn một chiếc khăn quàng thắt nút màu đỏ chói.

“Tha cho nó đi, Rubinek,” Berle thận trọng bảo. “Duke còn cần tới nó đấy.”

Người đàn ông tên Rubinek quay sang nhìn Sherlock, gầm lên. “Còn

nó thì giải quyết như thế nào đây? Duke cần quái gì đến nó. Nó thừa nhận là đã giết Ives rồi.” Gã đưa bàn tay phải, tức là bàn tay không giữ Matty, giơ khẩu súng lục ra, chĩa mũi súng về phía Sherlock.

“Còn thằng Gilfillan?” Berle hỏi tiếp. “Nó cũng chết luôn à? Nó có gởi một bức điện tín mà.”

“Bị cảnh sát tóm rồi,” Sherlock trả lời. Cậu không rõ điều này có thật sự đúng như thế hay không, nhưng lúc này, có lẽ là thế.

Berle nhắm mắt lại một lúc. “Đã tệ mà lại còn tệ hơn,” gã nói nhỏ.

“Duke chắc sẽ không hài lòng đâu, tao đã từng nghe điều gì sẽ xảy ra nếu Duke không hài lòng.”

“Ta đâu có nhiều lựa chọn,” Rubinek phân bua. “Tàu đã chạy mất rồi, chỉ còn bọn ta ở lại. Thanh toán lũ nhóc này đi để còn về báo cáo cho Duke.”

“Ta không thanh toán lũ nhóc này được.” Berle giọng điềm tĩnh nhưng đầy uy quyền. Khi Ives chết rồi thì gã rõ ràng lên nắm quyền. “Duke sẽ muốn hỏi để xem bọn nó biết đến đâu. Sau đó ông ta sẽ giao chúng cho mấy con thú cưng của ổng.”

“Tao vẫn cứ muốn tự tay giết lũ này,” Rubinek càu nhàu như thể một đứa trẻ hư bị mất phần bánh qui.

“Ít nhất ta cũng mang được Booth và thứ này về,” Berle vừa nói vừa nhấc cái hộp lên tận mắt và len lén nhìn vào bên trong. “Chỉ mong bấy nhiêu đây là đủ.” Gã bác sĩ thở dài. “Được rồi, thôi dứt điểm chuyện này đi.”

Berle dẫn đầu cả bọn đi dọc theo mái hiên nhà ga đến chỗ Sherlock thấy có đặt một cái bàn tròn đằng trước một khung cửa sổ kiểu Pháp. Trên chiếc bàn trải khăn trắng có đặt một cái bình thủy tinh lớn bên trong có vẻ là nước cam, một đĩa dựng bánh mì và ở giữa bàn là bảy cái ly thủy tinh. Xung quanh bàn là bảy chiếc ghế sắt uốn. Giữa bàn có một cái lỗ cắm một chiếc dù trắng để lấy bóng mát che cái nắng cháy da.

“Cái dù.” Từ này cứ luẩn quẩn trong đầu Sherlock khi họ đi dọc theo mái hiên nhà ga đến chỗ cái bàn. Nó gợi nhớ đến một thứ gì đó, nhưng cậu không nhớ được. Cậu nghĩ chắc là trí nhớ bị trục trặc – chỉ có thể là do chứa quá nhiều thông tin. Giá như có cách nào để xoá đi những thứ ký ức không cần dùng đến và thay vào đó bằng những thứ quan trọng. Có lẽ cậu phải ghi lại những thứ được coi là quan trọng cho mình vào một quyển sổ ghi chép, hoặc nhiều quyển xếp theo thứ tự chữ cái để có thể tìm thấy dễ dàng khi cần.

Để tránh không phải nghĩ đến những gì đang xảy ra, cậu cố nghĩ đến một cái gì khác, nhưng ý định này bị đứt đoạn khi Rubinek lấy nòng súng khẩu súng lục đẩy cậu ngồi vào một trong mấy chiếc ghế. “Mày ngồi xuống đây,” gã đàn ông càu nhàu. Sherlock làm theo. Matty và Virginia được xếp ngồi hai bên Sherlock, Berle và John Wilkes Booth ngồi bên phía trái Virginia, còn Rubinek ngồi bên phải Matty.

Sherlock thấy một ghế còn trống. Có lẽ để dành cho nhân vật Duke bí hiểm.

“Cha tôi sẽ tìm đến đây nếu các ông không thả bọn tôi ra,” Virginia nói.

“Cha mày hả, cái lão to xác mặc bộ độ trắng chứ gì?” Berle lướt nhìn từ Virginia sang Matty, rồi sang Sherlock. “Lão không phải là cha của tất cả lũ chúng mày phải không? Tao chưa hề gặp lão.” Gã bác sĩ nhìn Matty lâu hơn. “Bọn tao tóm mày vì nghĩ rằng sẽ làm cho lão thôi không theo bọn tao nữa. Bọn tao cũng biết khá nhiều đấy. Lẽ ra nên tóm đứa con gái.”

“Cha tôi sẽ còn truy tìm các ông,” Virginia nói. “Tính ông ta là thế. Ông không dễ nghe lời đâu.”

Berle định nói cái gì đó, nhưng hai cánh cửa kiểu Pháp ngăn hàng hiên với phía bên trong nhà đột nhiên mở ra. Hai người hầu mặc áo đuôi tôm đen bóng, đứng giữ cho cửa mở để lộ ra dưới ánh nắng một hình thù khác.

Người đàn ông này rất cao - Sherlock ước tính trên hai mét, thậm chí hai mét mốt – và gầy đến mức không tin nổi. Mọi thứ trên người lão ta cũng đều là màu trắng - bộ comple, áo gi-lê, áo sơ-mi, ủng, chiếc mũ rộng vành, găng tay - chỉ trừ chiếc ruy-băng quấn quanh mũ và chiếc cà-vạt kiểu dây giày thòng từ cổ áo sơ-mi xuống phía sau áo gi-lê. Hai thứ này đều là đồ da thuộc màu đen. Lúc đầu, Sherlock nghĩ rằng khuôn mặt của người đàn ông này hoặc là quá tái nhợt đến mức khó tin, hoặc được đánh phấn trắng, nhưng sau đó cậu nhận thấy lão ta đang mang một chiếc mặt nạ bằng sứ được chế tạo đặc biệt trông sống động như một khuôn mặt thật. Mái tóc lộ ra dưới cái mũ và lòa xòa trên rìa chiếc mặt nạ có màu vàng hoe rất nhạt đến mức gần như trắng.

Tuy thế, cặp mắt nhìn xuyên qua hai cái lỗ trống trên chiếc mặt nạ lại không trắng. Hai đồng tử sẫm màu đến mức gần như đen, nhưng tròng trắng lại đỏ ngầu. Thành thử trên cái nền trắng của chiếc mặt nạ, cặp mắt dường như rực lửa.

Thò ra tay áo là hai cái cổ tay ốm tới mức không thể nào tin được. Sherlock tự hỏi xương lão ta có bị gãy khi bắt tay hay không. Nhưng người đàn ông này không giơ tay ra để bắt tay. Khi lão ta bước tới, hai cánh tay được kéo dang ra khỏi người bằng những chiếc dây buộc bằng da chạy từ cổ tay vào một nơi tối tăm nào đó trong nhà. Có một thứ gì đó đang kéo căng chiếc dây buộc.

Người đàn ông này dừng ngay ngoài bậu cửa. Sherlock nghĩ rằng mình thấy được cái gì đó đang di chuyển ở sau lưng, ở đầu kia chiếc dây da, nhưng cậu cũng không chắc.

Có lẽ là chó, nhưng lớn hơn.

“Bác sĩ Berle,” người đàn ông nói qua chiếc mặt nạ. Giọng gần như thầm thì. “Đại úy Rubinek, ông Booth. Và dĩ nhiên, các vị khách quí. Tôi chưa biết tên các vị. Để trao đổi cho lịch sự, xin vui lòng tự giới thiệu.”

“Tôi là Virginia Crowe,” Virginia nói.

Matty cao giọng. “Matthew Arnatt.”

“À, người bạn từ bên kia đại dương,” người đàn ông lên tiếng. Lão ta liếc nhìn Sherlock bằng cặp mắt ngầu đỏ. “Còn ngài, ngài là ai?”

“Sherlock Scott Holmes,” Sherlock đáp trả.

“Một vị khách người Anh nữa. Thú vị thật.”

Sherlock chú ý đến bàn tay đang giữ dây buộc. Phải mất một lúc cậu mới phát hiện có một cái gì bất thường ở hai bàn tay này. Cả hai bàn tay đều có ngón bị mất – ngón út trên bàn tay trái và ngón đeo nhẫn bàn tay phải, nhưng hai chiếc găng tay lại được làm riêng cho bàn tay thiếu ngón này, cho nên nhìn vào không thấy chỗ ngón trống hoặc chỗ vải bị ghim lại.

Có một cái gì khác cũng lạ nữa ở chỗ bàn tay. Hai bàn tay đều gầy như các phần khác trên thân thể người đàn ông này, nhưng lại có những cục phồng đẩy lớp vải của chiếc găng lên.

Không biết hai bàn tay ở trong chiếc găng trông như thế nào?

“Ngài đặt chúng tôi vào một tình thế bất lợi.” Sherlock nói, chuyển sự chú ý sang chiếc mặt nạ bằng sứ của người đàn ông, cố giữ giọng bình tĩnh. “Tôi có thể biết tên của ngài không?”

“Ta là Duke Balthassar,” người đàn ông trả lời, giọng khô và lạo xạo như lá mùa thu. “Duke là tên gọi, không phải Duke nghĩa là Quận công như các tên gọi cao quí “Bá tước” hoặc “Hoàng thân”. Còn bây giờ xin cứ tự nhiên dùng nước cam và bánh mì. Ta bảo đảm là nước cam này hoàn toàn tươi và bánh mì mới ra lò vẫn còn nóng.”

“Để tôi rót cho,” Virginia vói tay lấy chiếc bình.

Duke Balthassar nhích ra ngoài chỗ nắng. Hai sợi dây buộc trong tay lão ta kéo căng, rồi sau đó hai con thú bộ dạng miễn cưỡng khi bị kéo ra ngoài mái hiên.

Virginia làm tóe nước cam trên tấm khăn bàn trắng.

Nhất thời, Sherlock không nhận ra đó là con gì. Trông chúng giống như những con mèo lông nâu, bóng mượt, nhưng đầu của chúng cao đến thắt lưng của Duke Balthassar. Hai con mắt đen nhánh, đuôi cứ vẫy qua vẫy lại không ngừng khi chúng liếc nhìn hết người này sang người khác.

“Báo sư tử phải không?” Virginia như muốn nghẹn thở.

“Đúng rồi,” Balthassar lên tiếng, giọng hài lòng. “Ta muốn nói “Đừng để chúng làm mọi người sợ” nhưng xem ra đó không phải là lời khuyên tốt.

Cứ để chúng làm cho mọi người sợ đi.”

“Tôi không biết là loài báo sư tử có thể thuần hóa được.”

Virginia lên tiếng giọng run run đến mức Sherlock nghe thấy.

“Thuần hóa à?” Balthassar nói. “Không đâu, không thuần hóa đươc. Nhưng giống như mọi sinh vật khác, kể cả con người, chúng đều đáp ứng với sự sợ hãi. Chúng sợ ta.” Lão nói gì đó bằng một thứ tiếng lạ, và hai con báo nằm phục xuống nền hành lang, đầu tựa lên hai chân trước.

Sherlock có thể thấy bộ răng trong cái mõm không ngậm chặt của chúng. Bộ răng này có thể cắn đứt cánh tay của một người, còn bộ vuốt chưa thu lại hết kia có thể xé toạc cánh tay ra khỏi khớp vai. “Ông làm thế nào để cho con báo phải sợ?” Sherlock lên tiếng hỏi, nhưng trong lòng không muốn nghe câu trả lời.

“Tương tự với cách làm cho người khác phải sợ,” Balthassar nói. Một người hầu mặc quần áo đen kéo ra chiếc ghế còn lại, và lão ta điệu đàng ngồi xuống, bắt tréo hai ống chân gầy như que củi lên nhau. “Một sự kết hợp giữa việc trừng phạt và bêu gương những gì sẽ xảy ra nếu chúng không vâng lời ta. Chúng có trí nhớ. Chúng nhớ được các tấm gương, và căn cứ vào đó mà chúng hành động. Ta có thể giết chúng đi và bắt đầu sử dụng một con thú khác, và cái hành động giết bỏ đó, nếu làm đúng kiểu và đúng lúc, sẽ là một ví dụ cho con thú biết những gì sẽ xảy ra cho nó nếu nó không vâng lời ta. Ta cứ bêu cái xác cho nằm đâu đó trong một thời gian.”

Đột nhiên mọi người quanh bàn đều im lặng, chăm chú nhìn hai con báo.

Cuối cùng Matty lên tiếng. “Tôi thích chuyến tàu của ông.”

Chiếc mặt nạ bằng sứ không chút động đậy, nhưng Sherlock có cảm giác rằng lão ta đang mở miệng cười bên dưới chiếc mặt nạ. “Cậu quá khen. Rất hữu dụng nếu ta muốn đi họp tại New York hoặc chỗ nào khác. Ta rất ghét phải dùng xe ngựa để ra ga. Đường thì xóc, lại thêm lắm bụi bặm. Sẽ tốt hơn nhiều khi có tàu đến đón ta đi.”

“Làm cách nào mà ông bố trí được như thế?” Sherlock hỏi.

“Ta đã cung cấp cho công ty tàu hỏa khá nhiều hợp đồng,” Balthassar giải thích. “Ta là ông bầu. Ta tổ chức nhiều cuộc trưng bày và biểu diễn xiếc lưu động, đưa nhiều thú vật lạ đi trình diễn khắp đất nước xinh đẹp này, và những chuyến du hành trưng bày và biểu diễn xiếc đều được các toa tàu riêng của ta chuyên chở. Khi ta bảo với họ rằng ta muốn đặt thêm đường phụ, và các tín hiệu cho phép ta chuyển hướng bất cứ con tàu nào phải đi về hướng nhà ta, thế là họ đồng ý ngay.” Balthassar ngừng một chút. “Sự thể là thế, sau khi ta đưa ra một số ví dụ việc gì sẽ đến nếu họ

không đồng ý với ta.”

Sherlock cố tưởng tượng những ví dụ gì mà Balthassar đang nói tới, nhưng sau đó cậu không cố nữa. Các hình ảnh đã quá rõ không cần đến chứng minh.

“Vậy là ông đã đổi hướng con tàu là do có người của ông trên tàu.”

“Đúng thế. Họ đã đánh điện báo cho ta biết là họ đang ở trên tàu, cùng với nhiều món hàng quí giá.” Lão ta liếc nhìn John Wilkes Boot, tên này đang nhìn chăm chú vào chiếc ly đựng nước cam như thể bên trong có những bí mật của vũ trụ. “Ông Booth nằm trong số những món hàng đó. Lâu nay ta chờ ông ta quay lại cái đất nước một thời rực rỡ này. Ta có nhiều kế hoạch dành cho ông ta. Còn một món hàng khác đã được dỡ ra rồi, và hiện đang được cho làm quen với khung cảnh mới. Lão nhìn sang cái hộp mà Berle đang giữ trên đùi.

“Ta nghĩ rằng cái hộp này chứa món hàng cuối cùng. Ta nói đúng chứ, bác sĩ Berle?”

Berle gật đầu, liếm cặp môi khô nẻ. “Nó đấy, Duke ạ. Ngài có...”

“Chưa đâu, bác sĩ. Ta đã chờ kiện hàng đặc biệt này khá lâu. Ta muốn có thời gian để thưởng thức nó.” Lão ta nghỉ một chút, rồi nhìn quanh chiếc bàn. “Tuy nhiên ta cũng nhận thấy rằng quí ông Ives và Gilfillan không có mặt ở đây,” rồi nói một cách bình thản. “Các vị ấy đâu rồi?”

Sherlock nhận ra rằng mình có hai lựa chọn: hoặc là cứ để Berle cho Balthassar biết rằng Gilfillan đã bị tóm còn Ives đã tiêu ma, hoặc là cậu cứ thừa nhận trước đã rồi tìm cách sau đó. Cậu quyết định chọn cách hai. “Ông Gilfillan hiện đang bị nhốt ở Anh,” cậu nói. “Còn ông Ives thì tôi đã hất xuống tàu chết rồi.” Cậu nhìn thẳng vào hai hốc mắt trên chiếc mặt nạ của Duke Balthassar. “Còn nữa, tôi đã thanh toán một tay phục vụ trên tàu SS Scotia vì hắn tìm cách giết tôi. Hắn là do Ives mướn đấy.”

Trên bàn im phăng phắc, ngoại trừ tiếng thở phì phò của hai con báo sư tử đang chăm chú nhìn Sherlock. Bằng cách này hay cách khác, chúng biết rằng sẽ có một trận đấu để giành thế mạnh giữa Sherlock và Duke Balthassar.

“Cậu rất gan dạ,” cuối cùng Balthassar cũng nói. “Chính xác là cậu đã giết họ sao?”

“Có lẽ là tôi muốn nêu ra một trường hợp để bêu gương cho các đàn em khác của ông,” Sherlock bình tĩnh nói. “Để cho họ phải sợ tôi.”

Balthassar cười: một âm thanh lanh lảnh làm cho hai con báo phải rùng ra phía sau. “Gan dạ lắm. Ta nghĩ là ta thích cậu, cậu Sherlock Scott Holmes ạ. Nhưng điều này chưa đủ để cho phép cậu sống đâu, nhưng phải nói là ta rất thích cậu.”

“Ngài sẽ cho thanh toán thằng bé phải không?” Gã to con Rubinek lên tiếng hỏi.

“Vì việc này à?” Balthassar vặn lại. “Không đâu. Nếu bọn chúng ngốc nghếch đến mức để cho một thằng bé chiếm thế thượng phong thì đúng là đáng đời. Đỡ cho ta khỏi phải ra tay giải quyết chúng. Không, cậu Sherlock trẻ người này sẽ không thấy được lúc mặt trời lặn, nhưng không phải là vì tội đã làm mỏng hàng ngũ tay chân của ta. Không, thằng nhóc này sẽ chết với bạn bè của nó bởi vì ta chẳng có việc gì cần đến chúng ở đây cả.”

Sự yên lặng bao trùm khắp hàng hiên.

“Thế này nhé,” sau một lúc Balthassar chậm rãi nói, “mọi người ở đây đều biết nhau rồi, còn bây giờ bọn bây cũng đã ăn uống thoải mái, làm ơn cho ta biết là chính quyền đã biết các kế hoạch của ta đến mức nào rồi.”

“Bọn tôi có biết gì đâu,” Sherlock trả lời.

“Mày sai ở hai điểm,” Balthassar lên tiếng. “Thứ nhất, rõ ràng là mày có biết th

ứ gì đó, bởi vì mày đã tìm cách can thiệp vào các kế hoạch của ta, giết hai người của ta. Con nít thường không xía mũi vào những chuyện lớn, hoặc nếu lỡ xía thì thụt vòi ra ngay. Còn mày, theo ta biết, lần đầu tiên đã bị phát hiện tại ngôi nhà bên Anh nơi ông Booth được giữ an toàn. Tức là nơi mà Ives và bác sĩ Berle thấy mày lần đầu tiên? Tình cờ mà mày tới đó, hay là mày đi tìm ông Booth?”

Sherlock mở miệng định nói vài câu, nhưng Balthassar ra hiệu cho cậu im lặng.

“Điểm thứ hai,” lão ta tiếp tục cũng bằng cái giọng nhẹ nhàng, “cái mày biết không hề quan trọng. Ta chẳng thèm chú ý đâu. Ta tóm hết bọn mày ở đây, và không đứa nào sẽ thoát được. Trong vài giờ nữa, bọn mày đều chết ngỏm hết mang theo tất cả những gì mà chúng mày biết. Điều này thì ta hứa chắc. À, chỉ có một câu hỏi quan trọng thôi, đó là cha của đứa con gái, Amyus Crowe, đã biết cái gì, và chính quyền nước Anh và nước Mỹ ở đây biết được cái gì?” Lão ta ngừng lại, quay cái mặt nạ sứ về phía Sherlock. “Nói cho ta biết, ngay bây giờ đây trước khi ta mất kiên nhẫn.”

Mặc dù lúc này từ trên bầu trời xanh ngắt không gợn chút mây, nắng gắt đang chiếu xuống, nhưng Sherlock cảm thấy như có một cơn gió lạnh lùa qua hiên nhà ga.

“Nếu trước sau gì ông cũng giết chúng tôi,” Sherlock nói giọng thận trọng, “thế thì chúng tôi cho ông biết để làm gì? Nói cũng chẳng khiến ông tha mạng. Ông đã nói là không tha mà.”

“Nói hay lắm, có cân nhắc,” Balthassar nhìn nhận. “Đất nước này được xây dựng trên các nguyên tắc buôn bán và thương lượng. Được rồi; để ta cho mày một đề nghị.”

Lão quay chiếc mặt nạ bằng sứ sang phía Virginia. “Giơ tay ra,” lão bảo.

Virginia liếc về phía Sherlock, hai mắt đầy vẻ kinh hoàng. Cậu không biết cô nên làm gì bây giờ: theo lệnh Balthassar hoặc phớt lờ? Sherlock không biết việc gì sẽ xảy ra đối với cả hai việc đó. Mặc dù giữ bên ngoài vẻ mặt hòa nhã, nhưng dường như sự điên rồ và phép lịch sự của Balthassar chỉ cách nhau một sợi chỉ.

“Chán quá,”Balthassar lên tiếng. “Ông Rubinek đâu rồi?”

Rubinek chồm người qua chiếc ghế hắn đang ngồi và chụp lấy cổ tay của Virginia, kéo thẳng cánh tay và để cho bàn tay của cô bé hướng về phía Balthassar.

“Tuyệt,” Balthassar gầm gừ vài tiếng trong cổ họng một thứ ngôn ngữ mà Sherlock không nhận ra được.

Một trong hai con báo đứng dậy và bước thẳng đến phía Virginia, những tảng cơ như trườn dưới lớp da bóng mượt khi chúng di động.

Con báo há miệng ra, rướn cổ ngoạm trọn bàn tay của Virginia vào miệng nó. Rubinek quay về ghế của mình. Con thú lớn họ mèo này ngậm miệng lại, hàm răng của nó cắm vào lớp da thịt cổ tay của Virginia.

“Giờ thì một trong hai việc sẽ xảy ra,” Balthassar nói vẻ cười cợt. “Hoặc là mày sẽ nói những thứ mà ta muốn biết hoặc là con báo sẽ cắn đứt bàn tay của con bé.” Chiếc mặt nạ sứ vẫn không hề lộ ra chút cảm xúc nào, nhưng Sherlock cảm thấy lão ta đang cười dưới cái bề mặt trơn tuột đó. “Nhân tiện ta giới thiệu, tên con này là Sherman chắc thế. Con kia là Grant. Chỉ là đùa chút thôi.”

Virginia nhìn Sherlock trân trối.

“Tôi sẽ nói cho ông biết,” Matty hấp tấp nói.

“Không được,” Balthassar giọng mát mẻ. “Ta chỉ muốn cậu Sherlock cho ta biết thôi. Theo chỗ ta cảm nhận, thì cậu ta là đầu sỏ của nhóm nhỏ này. Là người cần học cách để sợ ta. Là người cần phải được dạy dỗ.” Lão ta ngừng lại một lúc. “Các ngươi thấy đấy, có nhiều cách để chết. Ta tin rằng một viên đạn cho vào đầu là cách chết nhanh chóng và không đau đớn gì. Cho chảy máu đến hết là cách chết chậm và đau đớn. Cậu không được lựa chọn là mình sẽ chết hay không: ta tước bỏ sự lựa chọn đó. Tuy nhiên, cậu ta được phép chọn cách chết như thế nào: nhanh hoặc chậm, quằn quại hoặc nhẹ nhàng.”

“Được thôi,” Sherlock lên tiếng, trống ngực đập liên hồi. “Dẫn con báo đi nơi khác rồi tôi sẽ trả lời cho ông.”

“Không đâu,” Balthassar nói. “Trả lời câu hỏi rồi ta sẽ cho dẫn con báo đi.”

Bầu không khí căng thẳng như muốn nổ tung. Sherlock biết rằng cậu và Balthassar đang đọ sức nhau xem ý chí người nào mạnh hơn. Phiền nỗi Balthassar là người đang giữ mọi lợi thế.

“Các nhà chức trách đã biết về John Wilkes Booth,” cậu nói. “Họ biết là ông ta chưa chết, và đã được đưa từ Nhật Bản sang Anh, và hiện nay đang ở tại Mỹ. Chính phủ Anh biết, công ty thám tử Pinkerton cũng biết. Tôi nghĩ rằng họ sẽ báo cho chính phủ Mỹ.”

“Tốt lắm,” Balthassar nói. “Còn gì nữa.”

“Chẳng còn gì nữa!” Sherlock nói to.

“Lúc nào mà chẳng còn. Chẳng hạn như các nhà chức trách biết gì về ta không?”

“Không hề.”

“Như vậy là mày lên chuyến tàu này chỉ là tình cờ? Ta không nghĩ vậy đâu.”

“Bọn tôi theo dõi họ!” Sherlock vừa nói vừa chỉ về phía Berle và Rubinek. “Bọn tôi tìm cách cứu Matty.”

“Thế thì ngoài mày ra còn có ai khác lên tàu?” Giọng Balthassar bình thản nhưng đầy vẻ tàn nhẫn.

“Chẳng ai cả. Chỉ có chúng tôi thôi.”

“Mày cung cấp tin khá đầy đủ.” Balthassar ngưng lại, và Sherlock có cảm tưởng là lão ta đang cân nhắc có nên bảo con báo tên Sherman cắn đứt bàn tay của Virginia hay không.

Sherlock không nghĩ tới việc cầu nguyện. Giờ đây thì chẳng có thứ gì có thể giúp bọn họ. Cả nhóm phải tùy theo cơn bốc đồng của lão già điên khùng này mà tự xoay sở thôi.

Cậu chợt nảy ra một ý nghĩ. Có lẽ cậu sẽ nhờ đó mà chống lại được lão già mang chiếc mặt nạ bằng sứ.

Balthassar ra một lệnh ngắn gọn, và rồi con báo miễn cưỡng thụt đầu lại, hai hàm răng của nó nhả ra không còn ngậm chặt vào da thịt Virginia nữa. Toàn thân cô bé dường như muốn rũ xuống. Con báo nhìn cô chằm chằm một lúc, rồi lui về nằm bên cạnh Balthassar.

“Tôi có một câu hỏi.” Sherlock lên tiếng.

Balthassar ngước cặp mắt đỏ ngầu và tăm tối từ hai cái lỗ trên chiếc mặt nạ nhìn Sherlock. “Mày không hiểu luật lệ à? Chỉ có ta mới đưa ra câu hỏi, còn mày phải trả lời, thì mày mới được phép chết nhanh, chết không đau đớn. Ta đã thỏa thuận thế mà.”

“Nhưng đó mới chỉ là ông nói,” Sherlock đáp. “Tôi cứ nghĩ là khi ông lấy được tất cả các câu trả lời thì trước sau gì ông cũng tra tấn chúng tôi, chỉ vì ông thích như thế. Qua việc này, bọn tôi có nhận được thứ gì đâu khi hợp tác với ông ngoài việc bị tra tấn chậm hơn một chút.”

Balthassar ngẫm nghĩ một lúc rồi thừa nhận. “Phân tích hợp lý lắm. Mày chỉ việc nghe ta nói, mà mày cũng không biết ý tốt của ta như thế nào. Thế thì đề nghị đáp lại của mày là gì?”

“Bọn tôi sẽ làm theo lời ông,” Sherlock nói, “nếu ông cũng trả lời như vậy.”

“Hay đấy.” Balthassar đăm chiêu. “Ta không chịu được việc bị thua thiệt bất cứ thứ gì trong thỏa thuận, và ta đã lấy được nhiều tin tức. Mặt khác, mày cũng chả mất gì bởi vì ta vẫn là người chọn cách chết cho bọn mày, nhưng mày cũng lấy được những thông tin mà mày muốn có. Vậy thì ta đồng ý. Cứ hỏi đi.”

“Các ông cần đến John Wilkes Booth để làm gì?” Sherlock hỏi. “Trên thực tế ông ta vẫn còn sống rành rành tại nước Mỹ này nhưng vì sao lại quan trọng đến mức nhiều người lại phải chết để giữ bí mật?”

“Ồ,” Balthassar nói chậm rãi, “người ta phải chết vì đủ loại lý do, nhưng chẳng có mấy lý do quan trọng. Nhưng ta thích mày, Sherlock Scott Holmes. Mày có đầu óc. Để ta nói cho mày biết.” Lão liếc nhìn Berle và Rubinek. “Nói cho cùng,

chúng chẳng hiểu được. Chúng chỉ muốn có tiền.”

“Này...” Berle mở miệng, nhưng lại thôi ngay khi Balthassar quắc mắt nhìn hắn.

“Ta biết mày là dân Anh, nhưng chắc mày cũng đã từng nghe về cuộc chiến giữa các tiểu bang,” Balthassar lên tiếng.

Sherlock gật đầu. “Anh tôi có nói đó là cuộc chiến tranh về vấn đề nô lệ.” Cậu nhìn sang Virginia, “nhưng cha cô ta cho biết là thực tế còn phức tạp hơn nhiều.”

“Cha con bé này nói đúng. Chung qui là vấn đề tự quyết. Tám năm trước chúng ta có một cuộc bầu cử mà đảng Cộng Hòa, do Abraham Lincoln lãnh đạo, trong vận động tranh cử đã cam kết là sẽ chấm dứt không để chế độ nô lệ mở rộng ra ngoài các tiểu bang đã thực hiện chế độ này. Lincoln thắng cử và kết quả là bảy tiểu bang miền nam bao gồm Nam Carolina, Mississippi, Florida, Alabama, Georgia, Louisiana, và Texas tuyên bố ly khai ra khỏi Liên bang, thậm chí trước khi Lincoln nhậm chức. Bên ly khai thành lập một quốc gia mới, Liên minh các tiểu bang Mỹ, với Jefferson Davis làm Tổng thống. Trong vòng hai tháng, thêm Virginia, Arkansas, North Carolina và Tennessee gia nhập.”

“Ly khai là thế nào?” Matty hỏi.

“Ly khai là,” Balthassar giải thích, “khi một tiểu bang rút ra khỏi Liên bang và tuyên bố sẽ tự mình thành lập một thực thể riêng biệt. Ly khai là một quyền mà bọn ta tin rằng đã được bảo đảm trong Tuyên ngôn Độc lập, nhưng cả hai chính phủ sắp mãn nhiệm của James Buchanan và chính phủ sắp tới của Abraham Lincoln đều không đồng ý. Họ cho rằng đó là phản loạn cho nên tuyên bố sự ly khai này là bất hợp pháp.” Lão ta thở dài. “Cuối cùng, chẳng ăn nhập gì việc ta tin là một người có quyền chiếm hữu nô lệ hay không. Điều mà bọn ta chiến đấu đó là quyền thành lập một quốc gia riêng của riêng mình, tách rời khỏi quốc gia do Lincoln lãnh đạo, và giải quyết công việc theo cách của bọn ta. Chính sách nô lệ chỉ là cái cớ, nếu không có thì sẽ tìm ra cớ khác.”

“Nhưng các ông thua rồi,” Sherlock lên tiếng. “Tướng Ulysses S. Grant và William Sherman đã đánh bại Robert E. Lee. Lee đầu hàng rồi.”

“Ông ta có quyền đầu hàng,” Balthassar ngắt lời. “Nhưng ông ta không có thẩm quyền. Chiến tranh vẫn tiếp tục, ngay cả khi không được thừa nhận như thế. Chính phủ lưu vong của Liên minh miền Nam vẫn tìm cách giải phóng tự do khỏi chế độ áp bức của Liên bang cho những tiểu bang nào còn mong muốn.” Một chuyển động từ bàn tay Balthassar làm cho Sherlock phân tâm. Sherlock nhận ra chuyển động đó không ở bàn tay, mà cái gì

trên bàn tay của lão ta. Phần vải của chiếc găng trắng trên bàn tay trái của lão hơi nhăn lại một chút, ở một trong những chỗ lồi mà Sherlock nhìn thấy trước đó. Khi cậu nhìn kỹ, chỗ lồi đó dường như có cử động, hình như nó lách đi lên chỗ cổ tay. Có trời mới biết đó là thứ gì?

“Vậy à,” Balthassar nói khi nhìn thấy cái nhìn đầy kinh hoàng của Sherlock. “Ta thấy là mày đang chú ý đến một trong những người bạn bé nhỏ của ta. Cho phép ta được giới thiệu trịnh trọng hơn một chút.”

Lão dùng bàn tay phải túm lấy đầu chiếc găng trên bàn tay trái. Bằng một động tác thận trọng, chắc chắn, lão kéo chiếc găng ra.

Virginia há hốc mồm kinh ngạc còn Matty thì kêu lên một tiếng khiếp sợ.

Bàn tay của lão Balthassar – không có ngón út – và cổ tay nổi đầy những thứ mà mới nhìn giống như mụn nhọt, nhưng Sherlock lại thấy đó là những vật sống, giống như con ốc sên. Da của mấy con này có màu đỏ thẫm, ẩm ướt, và hình như chúng cũng phập phồng lên xuống khi Sherlock chú ý nhìn.

Cái gì thế?” Sherlock nói nhỏ.

Balthassar tháo chiếc găng kia ra. Bàn tay phải của lão – bàn tay thiếu ngón nhẫn – cũng nổi đầy những sinh vật giống như ốc sên tương tự.

“Đây là các bác sĩ của ta,” lão nó. “Cả một kíp y tế để chăm sóc sức khỏe cho ta đấy.”

Giơ bàn tay phải lên cao, lão gỡ một cái móc đằng sau tai trái và lẹ làng kéo chiếc mặt nạ bằng sứ xuống.

Hai con báo rít lên tìm cách lùi ra khỏi hàng hiên.

Khuôn mặt của lão Balthassar gầy nhom, gò má và cái mũi nhô cao, nhưng khó mà nhìn thấy được sắc mặt của lão dưới những sinh vật bé nhỏ xíu không xương kia đang bám vào lớp da mặt màu trắng của lão như những giọt hắc ín đen kịt.