CHƯƠNG 14
Virginia nhợn nhạo đến mức không thở được. Matty chỉ thốt lên được một từ để biểu lộ sự sửng sốt. Sherlock cho rằng đó là từ mà Matty nhặt được trong những ngày đi theo chiếc tàu nhỏ.
Về phần mình, Sherlock cảm thấy bị hấp dẫn.Tởm thật đấy, nhưng cũng đầy hấp dẫn. Khi nhìn gần hơn, cậu nhận thấy là mặt của lão Balthassar phủ đầy những vết sẹo nhỏ hình tam giác. Không biết thứ gì đang bám vào mặt lão, nhưng rõ ràng là lão đã sử dụng thứ này lâu rồi.
“Chẳng giống khuôn mặt của một đất nước mới thành lập chút nào,” cậu lên tiếng cố tìm cách giấu đi những cảm xúc của mình. “Giờ thì tôi mới hiểu vì sao ông phải mang mặt nạ.”
“Qui trình điều trị nào mà chẳng gây phản ứng phụ,” Balthassar khẽ khàng. “Thuốc thủy ngân điều trị bệnh giang mai làm người ta phát điên. Ta cho là mình còn may mắn bởi vì những tác dụng phụ của ta chỉ thuần là về mặt trang điểm.”
“Nhưng chúng
là cái gì vậy?” Matty nói nhỏ.
Chính Virginia là người trả lời. “Đỉa đấy. Đỉa hút máu. Chúng sống ở suối, ao hồ vùng nhiệt đới.”
“Đỉa hút máu,” Matty lập lại. “Thế mà ông lại để cho chúng hút lấy máu của mình? Ông điên rồi!”
“Chí ít thì ta còn đang sống đây,” Balthassar giọng trơ trơ. “Gia đình ta mắc một bệnh di truyền. Cha ta chết vì bệnh này, ông của ta cũng vậy. Bệnh làm cho máu chảy chậm trong các tĩnh mạch. Nếu không điều trị thì cơ thể ta sẽ rụng dần dần từng chút một.” Lão giơ cao một bàn tay và nhìn vào chỗ một ngón tay đang thiếu. “Khi cha ta chết, ông chẳng còn giữ được mấy ngón.”
“Thế thì mấy con đỉa chữa được à?” Sherlock giọng tò mò.
“Trong nước bọt của chúng có chứa một chất làm chống đông máu. Phải có chất này, nếu không thì đỉa không thể nào hút được máu để sống. Nếu có đủ số đỉa bám vào da của ta, khi hút máu chúng tiết ra chất đó sẽ giúp cho máu trong người ta lưu thông nhanh hơn. Máu chảy nhanh trong các tĩnh mạch của ta.”
“Nhưng - chúng không làm ông
mất hết máu sao?” Matty hỏi.
Balthassar nhún vai. “Mỗi lần một ít, có lẽ vậy. Cái giá phải trả này không nhiều để được sức khỏe tốt, và ta cũng chẳng bận tâm mấy về việc này. Nhắc lại mới nhớ...” Lão quay về phía bác sĩ Berle. “Ta nghĩ là ông có mang cho ta thứ gì phải không?”
Berle trông bối rối ra mặt. Gã bưng cái hộp đang đặt trên đùi để lên trên bàn, tháo cái móc trên nắp hộp rồi mở nắp. Berle lấy ra một lọ thủy tinh có nắp đậy bằng giấy sáp có dây buộc chặt.
Bên trong chiếc lọ chứa một thứ gì trông rất kinh tởm.
Những con đỉa đang bám vào tay và mặt của lão Balthassar – và có lẽ ở những chỗ khác trên thân thể của lão nữa – đều nhỏ, không lớn hơn ngón tay út của Sherlock là mấy. Con đỉa nằm trong chiếc lọ có kích thước bằng nắm tay của cậu, mà nó lại có màu đỏ rực bóng loáng. Nó nằm cuộn tròn dưới đáy chiếc lọ, cái đầu nhỏ xíu ve vẩy liên hồi trong không khí để tìm chỗ hút máu.
Virginia cho tay lên miệng và quay đầu nhìn đi chỗ khác. Hai con báo đang nằm trên hiên nhà gần đó cố tìm cách nhổm ra xa hơn. Chúng há mõm rộng nhe cả răng, còn cặp mắt thì đầy vẻ hoảng sợ hoang dại, nhưng hình như chúng còn sợ Balthassar nhiều hơn là sợ con đỉa cho nên không dám bỏ chạy.
“Một mẫu vật đầy ấn tượng,” Balthassar vừa lấy cái lọ trên bàn vừa nói. “Thế, lần cuối cùng nó được ăn là khi nào?”
“Họ cho biết là cách đây khoảng chừng một tháng,” Berle trả lời, hắng giọng trước khi nói tiếp. “Duke, với tư cách là bác sĩ - và là bác sĩ của ngài – tôi phải nói là tôi không khuyến cáo...
cách điều trị này. Thực ra tôi cũng không cho rằng nó có tác dụng. Việc mà ngài đang làm với cơ thể của mình... đúng là quá
quái dị! ”.
“Thưa ông bác sĩ, tôi đang sống đây, tôi vẫn còn đủ các tay chân chỉ trừ hai ngón tay và mấy ngón chân,” Balthassar đáp. “Đó là những bằng chứng mà tôi cần.” Lão kéo lỏng đầu dây buộc, và cái nút thắt chặt lớp giấy sáp tuột ra. “Và nhờ sinh vật đẹp đẽ này ta sẽ có khả năng suy nghĩ thậm chí còn rành mạch hơn, sức chịu đựng của ta sẽ trở nên vô tận.”
Lão cho tay vào trong chiếc lọ và thận trọng lấy con đỉa ra. Thân nó mềm oặt bám dính vào ngón tay của lão. Lão vuốt mấy sợi tóc bạc trắng lòa xòa trước mặt ra đằng sau, rồi lấy một con đỉa đặt lên sau tai phải.
Hai con báo lên giọng gừ gừ. Chúng khiếp sợ.
Sherlock để ý, đầu con đỉa lắc lư qua lại tìm kiếm, chắc là một tĩnh mạch, rồi sau đó bám dính vào da của Balthassar. Phần đuôi của nó cũng lắc lư một lúc, đong đưa quanh quất, rồi sau đó cũng hạ xuống bám chặt vào lớp da.
Balthassar nhắm mắt lại, mở miệng cười hết sức vừa ý. Lão thì thầm. “Có thế chứ, đúng rồi, báu vật của ta. Cứ đánh chén. Đánh chén đi.”
“Thế chúng... sẽ bám đến chừng nào?” Sherlock hỏi.
“Nhiều ngày,” Balthassar mơ màng nói, mắt vẫn nhắm. “Có khi đến hàng tuần. Khi nào chúng hút no máu, thì chúng nhả ra rồi ngủ vùi một hoặc hai tháng để tiêu hóa số máu vẫn còn lỏng đó. Ta có nguồn cung cấp lớn các loại đỉa - phần lớn là đỉa của Mỹ, từ vùng Florida và Alabama – nhưng không có loại nào giống con này. Đúng vậy,
không có thứ nào giống con này.” Lão mỉm cười. “Ta biết là chỉ ở vùng rừng rậm miền Viễn đông mới có thứ này. Ta cảm thấy thế. Chúng gọi ta, mời ta đến để bắt đem về.”
Có một cái gì đó trong giọng nói của lão làm cho Sherlock nghĩ đến John Wilkes Booth khi hắn ta nói về thứ khói hắn ngửi được – hắn ta có vẻ ngái ngủ, không chú ý gì đến thực tế. Có phải con đỉa tiết vào máu của lão một chất gì khác ngoài chất chống đông máu ra, một dạng ma túy làm cho nạn nhân cảm thấy dễ chịu và đầy hoang tưởng mà không chú ý đến sự hiện diện của một thứ ký sinh đang bám vào da thịt của mình? Cậu dành ý này để sau này nghĩ tiếp – mà nếu còn có lúc sau này. Cậu vẫn nghĩ chưa ra cách để ba đứa thoát thân được.
Sherlock bỗng chú ý có thứ gì chuyển động ở dưới chân Balthassar. Lũ báo đang nhích xa ra khỏi chân lão. Chúng nhìn trân trối vào con đỉa khổng lồ màu đỏ, chúng không hề thích đỉa. Hình như chúng còn sợ nữa.
“Sherma, Grant,” lão Balthassar rít giọng, rồi lão nói cái gì đó mà Sherlock không hiểu được. Hai con thú họ mèo thôi không nhích ra xa nữa, nhưng các bắp cơ của chúng vẫn còn gồng lên.
Con đỉa màu đỏ như phập phồng lên xuống khi Sherlock quan sát. Nó phập phồng theo nhịp đập của một tĩnh mạch đằng sau tai của lão.
“Mày đang phí thời giờ,” Balthassar lên tiếng. “Mày còn muốn hỏi gì thêm?”
Sherlock cố không chú ý đến con đỉa nữa. “Ông có nói là “Chính phủ Liên minh lưu vong vẫn còn tìm cách giành lại tự do khỏi chế độ áp chế Liên bang cho các tiểu bang nào mong muốn thế,” cậu lập lại lời của lão.
“Đúng vậy.”
“Nhưng bằng cách nào?” Sherlock hỏi.
“Cứ nghĩ đi. Ta sẽ nói nếu mày nghĩ đúng.” Khi Sherlock mở miệng định phản đối, thì lão Balthassar nói thêm: “Cứ xem đây là một cách để ta moi thêm thông tin. Nếu mày nghĩ ra được, cũng như những thứ mà mày biết về ông Booth, thì không nghi ngờ gì nữa các nhà chức trách cũng nghĩ ra được. Ta hứa là nếu mày không nghĩ ra thì ta sẽ cho biết.”
Sherlock ngẫm nghĩ một lúc. Càng để cho lão Balthassar nói lâu thì cậu sẽ càng trì hoãn thời điểm phải chết xa hơn. Có thể trong thời gian đó cậu sẽ tìm ra cách để thoát thân.
Có thể Amyus Crowe sẽ tìm ra bọn họ.
Cậu lên tiếng. “Giờ thì John Wilkes Booth đã phát điên rồi. Ông ta cứ hết lên cơn phá phách rồi đến ảo giác, phải cho uống thuốc liên tục thì mới đem ông ta đi đây đó được. Rõ ràng là ông ta chỉ đóng được vai bù nhìn chứ không làm được sát thủ hoặc bất cứ thứ gì khác. Tức là ông lấy Booth làm một điểm tập hợp, một người để ông đưa ra múa may xúi giục quân đội.”
Balthassar gật đầu, nhưng cái từ “quân đội” đã gợi ra một ý trong đầu Sherlock mặc dù trên thực tế cậu chỉ chọn nó theo nghĩa ẩn dụ.
“Ông đang
tập hợp quân đội,” cậu nói. “Tôi không nghĩ rằng ông định lật đổ chính phủ hiện hành hoặc thậm chí ly khai bằng các phương tiện chính trị. Các ông thử rồi và cũng đã thất bại rồi. Các ông đang dựng lên một đội quân phải không? Đó là lý do vì sao ông cần đến Booth - là để động viên đội quân của ông. Để cho họ thấy rằng có một sự liên hệ trực tiếp giữa Chiến tranh giữa các tiểu bang với cái mà các ông đang làm!”
Balthassar lại gật đầu. “Tiếp tục đi.”
“Nhưng mà tôi lại không thấy ông xây dựng một đội quân đủ lớn để đương đầu với quân đội Liên bang. Ông không làm như thế. Mà từ hồi thất trận đến giờ cũng không. Vậy thì các ông cần một đội quân để làm việc khác.” Đầu óc cậu trở nên căng thẳng. “Nhưng đó là cái gì? Nếu một đội quân không chiến đấu trên đất Mỹ thì nó phải nhắm vào việc xâm lăng một nơi khác.” Cậu cố nhớ đến những tấm bản đồ đã được nhìn trên tàu SS
Scotia. Cậu đặt câu hỏi, “Mexico phải không?”
Balthassar lắc đầu. “Suy nghĩ khá đấy, nhưng sai rồi.
Việc này ta đã thử làm mấy năm trước, nhưng rồi kế hoạch không thành vì thiếu sự hỗ trợ. Mặt khác, Mexico là xứ nắng nóng khô cằn, họ lại có lực lượng quân sự riêng để chống lại chúng ta.”
“Thế thì vì cái gì?” Sherlock vừa buột miệng hỏi thì trong đầu đã nảy ra câu trả lời. “Nếu các ông có một đội quân, các ông cần đến một khu vực biên giới để vượt qua, nước Mỹ chỉ có hai khu vực biên giới: một với Mexico và một với... Canada?”
Balthasar gật đầu. “Suy nghĩ hay lắm. Đúng, bọn ta thành lập một đội quân đến hàng ngàn người, hiện đang đóng quân không xa nơi đây. Nhiều tháng nay họ đã tìm đường tập họp tại đây, đi thành từng nhóm nhỏ để không bị chú ý. John Wilkes Booth chỉ là bù nhìn - là
con rối, nếu mày thích gọi thế - bọn ta sẽ hành quân và chiếm lấy hải cảng Halifax để ngăn không cho quân đội Anh được tiếp tế, tiếp đến cắt các đường liên lạc giữa Đông và Tây Canada bằng cách chiếm lấy Winnipeg. Bọn ta có thể đi xuyên qua bên kia để chiếm lấy Quebec và vùng Ngũ đại hồ. Một khi thành công, bọn ta sẽ thành lập một quốc gia mới nơi mà những người Liên minh có thể tham gia với bọn ta và tiếp tục chế độ nô lệ theo như ý Chúa.
“Nhưng tại sao lại Canada?” Sherlock hỏi.
“Vì nơi này đất đai màu mỡ dễ trồng trọt, khí hậu ôn hòa – ít nhất cũng chung biên giới với nước Mỹ - có nhiều cảng biển tuyệt vời để giao thương, nhất là không có quân đội cản đường tiến quân của chúng ta, và dĩ nhiên đây là lãnh thổ của Anh mà các bang mới chỉ được liên kết gần đây thôi. Một lý do nữa là chính người Anh đã từ chối không chịu giúp đỡ bọn ta chống lại chính phủ Liên bang.”
“Chính phủ Anh sẽ không bao giờ để mất Canada,” Sherlock nói, trong đầu nghĩ tới Mycroft.
“Chăc chắn là họ chẳng thèm quan tâm tới,” Balthassar chế giễu. “Hãy nghĩ đến việc dùng tàu thủy vận chuyển quân đội đi ba ngàn dặm đến nơi đánh nhau, rồi các cảng biển lại nằm trong tay chúng ta nữa. Không đâu, tất nhiên sẽ mất vài năm mè nheo ngoại giao qua lại, nhưng lúc đó chúng ta đã kiểm soát được Canada rồi.”
“Lúc đó ông sẽ là Tổng thống?” Sherlock hỏi. “Một người phải mang chiếc mặt nạ bằng sứ”
Balthassar hất đầu sang một bên. Sherlock đã đánh trúng tim đen của lão.
“Có lẽ là John Wilkes Booth,” lão trả lời cụt lủn. “Dĩ nhiên là khi hắn được dặn dò và cho thuốc đúng mức. Hoặc thậm chí tướng Robert E. Lee. Có khối các ứng viên. Nhưng ta sẽ là người nắm quyền lực thực sự.”
Cái hất đầu bất thình lình đó đã làm giật mình một con đỉa nhỏ. Nó tuột khỏi mặt lão ta rớt xuống bàn kêu bép một tiếng. Balthassar liếc mắt nhìn nó, lên tiếng. “Anh bạn già, một trong những đối tác phục vụ ta lâu nhất. Ta nghĩ đã đến lúc cho anh nghỉ ngơi rồi đấy, anh bạn ạ.”
Lão đưa tay ra nhón lấy con đỉa nằm trên khăn bàn, bỏ gọn vào trong miệng rồi nuốt ực như khi người ta ăn một con hào.
Sherlock nhận thấy trên tấm khăn bàn còn dính một đốm đỏ do con đỉa để lại. Cậu nhìn đăm đăm vào cái đốm đỏ này. Cậu có cảm giác là mình sẽ phát ói nếu không nhìn cố định vào một thứ gì đó. Bất cứ thứ gì.
“Ta phải nói rằng,” Balthassar vừa nói nhỏ bằng cái giọng ẻo lả, thì thầm, vừa thận trọng đẩy lại chiếc mặt nạ bằng sứ lên khuôn mặt đầy sẹo và nhung nhúc đỉa bám của mình, “mày đã bộc lộ cái khả năng vượt bậc là đã đoán ra các kế hoạch của ta mà chỉ dựa trên một vài sự kiện rời rạc. Hoặc là thế, hoặc các kế hoạch của ta quá lộ liễu hơn là ta nghĩ. Đằng nào thì ta cũng không hoãn lại được. Nếu mày – mới chỉ là một đứa bé – mà còn nghĩ ra được thì chắc chắn rằng chính quyền Liên bang cũng nắm được. Ta nghĩ rằng việc tiến công vào Canada cần phải khởi sự trong vòng mấy ngày tới. Cám ơn sự giúp đỡ của mày.”
“Còn chúng tôi sẽ thế nào?” Virginia hỏi. Sherlock cảm thấy hãnh diện vì giọng cô vẫn giữ được vẻ điềm tĩnh.
“Ồ, giờ thì ta chẳng cần gì đến bọn mày cả,” Balthassar nói. Giọng lão không chút giận dữ hoặc thù hận gì cả. Một giọng hầu như dửng dưng. Như thể lão đang thảo luận về giá cả của lá trà. “Bọn mày sẽ bị khử đi.”
“Bằng cách nào?” Sherlock hỏi.
“À,” khuôn mặt bằng sứ của Balthassar bất động. “Thú thật là đã lừa mày. Ta đã tính cho mày một cái chết riêng giúp ta giải quyết ba vấn đề riêng rẽ, nhưng lại làm cho mày khổ sở và đau đớn nhiều.” Lão ra hiệu cho Rubinek hung ác. “Này ông đại úy, xin dẫn các vị khách của chúng ta đến nơi giam giữ mới. Món hàng mới nhất của ta cần được cho ăn.” Lão quay lại phía Sherlock. “Nhân viên thu mua các sinh vật lạ và hiếm có của ta cam đoan là chúng đã ăn no trước khi bị bắt,” giọng lão có vẻ bỡn cợt, “và sau đó phải mất mấy tuần lễ chúng mới tiêu hóa hết thức ăn, trong thời gian này chúng ngủ say, nhưng căn cứ trên quãng đường dài từ Borneo đến đây và cử chỉ hiện tại của chúng ta nghĩ rằng chúng đói lại rồi.” Lão ngưng lại, và Sherlock cho rằng lão đang giấu nụ cười dưới chiếc mặt nạ. “Ta đoán là nhiều người sẽ đổ xô lại xem chúng khi ta đưa ra trưng bày. Cho chúng ăn thịt tức là ta khử được bọn mày, thủ tiêu được xác và bảo đảm là mấy con thú cưng của ta được hài lòng trong một thời gian là đã chén được một loại thịt chất lượng cao.” Lão dừng lại một lúc. “Ta nghe nói là chúng sẽ dìm con mồi thức ăn xuống sâu dưới nước, giấu dưới mấy hòn đá cho đến khi... thức ăn mềm ra. Bọn ta sẽ rất vui khi nhìn kiểu xử lý này.”
Trước khi Sherlock nói được điều gì, thì Rubinek ra hiệu cho hai người khác từ trong bóng tối tiến ra. Ba gã thô bạo nắm lấy vai Sherlock, Matty và Virginia, dằn cả ba ra khỏi ghế rồi đẩy đi dọc theo hàng hiên.
Trong lòng Sherlock đầy tuyệt vọng. Sau mọi thứ đã làm, dường như cả bọn sắp phải chịu một cái chết hết sức ngu ngốc và đau đớn. Cậu không biết cái gọi là “món hàng mới tậu” của Balthassar là gì, nhưng cậu ngờ rằng không phải là những thứ vô hại như con sóc hoặc con két. Không biết đó là thú gì, nhưng có nhiều khả năng là chúng to lớn, có răng sắc bén. Nhiều báo sư tử chăng? Không đâu, lão có thể kiếm loại này tại Mỹ, không cần phải lặn lội tìm ở nước ngoài.
Cậu bắt gặp ánh mắt của Matty khi cùng bị đẩy đi dọc theo hàng hiên. Matty có vẻ sợ, nhưng cậu ta cũng gượng cười với Sherlock.
Ba đứa bị đẩy khỏi hàng hiên rồi đi xuống con đường nhỏ lát đá, và sau đó được dẫn tới một khu vực có nhiều chuồng cũi, là những chỗ quây chứa có lắp ổ khóa lớn và rào xung quanh mà Sherlock đã thấy khi còn ở trên tàu. Dường như cả bọn bị dẫn tới một khu vực có tường bao bọc một phía. Tường có lẽ mới xây. Một phía có ban công để nhìn xuống một khu vực có tường bao quanh bên dưới. Có những bậc tam cấp dẫn lên ban công, và Sherlock cảm thấy ớn lạnh khi thấy một tấm ván gỗ từ phía ban công nhô ra và lài xuống bên dưới.
Có một cầu thang riêng biệt dẫn xuống phía dưới, xuống chỗ tối om. Sherlock thoáng nghĩ không biết có thứ gì ở dưới đó, nhưng dòng suy nghĩ bị gián đoạn khi Rubinek đẩy cậu lên cầu thang dẫn tới ban công. Hai kẻ kia đẩy Matty và Virginia đi theo.
Sherlock nhìn xuống bên dưới khu chuồng. Từ trên nhìn xuống, nó giống như một cái hố. Phần bên trong bức tường đầy đá mấp mô, cây cối mọc từ khe hở giữa các hòn đá và một phần ba khoảng còn lại là một hồ nước đen nhờ nhờ. Không có dấu hiệu cho biết thứ gì sống ở đây, nhưng Sherlock cũng chẳng thấy an tâm chút nào.
Rubinek đẩy Sherlock ra đầu tấm ván. Hai người đàn ông kia cũng dồn Matty và Virginia cách vài tấc phía sau. “Đi tới đi,” gã nói. “Mày biết phải làm gì rồi mà.”
“Nếu tôi không làm thì sao?” Sherlock hỏi.
Rubinek giơ bàn tay lên. Gã ta đang cầm một khẩu súng lục to hơn lòng bàn tay một chút, có hai nòng liền nhau trên dưới. “Thứ dưới kia không cần quan tâm là mày có chết hay còn sống. Tao cũng thế.”
Sherlock quay nhìn về phía tòa nhà. Cậu tưởng là Balthassar cũng đi theo và sẽ đứng trên ban công để quan sát, nhưng con người cao lều nghều mặc quần áo trắng vẫn còn ngồi ngoài hàng hiên. Lão đang nghiên cứu một tấm bản đồ trải ra trên bàn. Dường như lão đã quên bẵng Sherlock và các bạn của cậu.
Sherlcok miễn cưỡng bước lên tấm ván. Tấm ván oằn xuống dưới sức nặng của cậu. Khoảng cách từ tấm ván xuống nền đá khoảng chừng ba thước.
“Nhảy đi,” Rubinek ra lệnh. Thấy Sherlock đã sẵn sàng làm theo lệnh, Rubinek đút khẩu súng lục vào lại túi áo khoác.
“Tôi sẽ bị gãy chân mất!” Sherlock phản đối. “Ở dưới toàn là đá cứng.”
“Vậy à?” Gã đàn ông vỗ vỗ vào túi áo khoác. Sự hăm dọa đã quá rõ ràng.
Sherlock nhìn xuống chỗ chuồng nhốt, nhìn qua phía Virginia, rồi lùi lại hai bước trước khi chạy đến phía đầu tấm ván và nhảy xuống chỗ có chuồng chứa.
Cậu lợi dụng độ nhún của tấm ván để bung người lên, rồi uốn lại để đáp xuống hồ nước. Nước văng tóe lên trên. Nước bên dưới ấm nhờ có ánh nắng chói chang rọi xuống, và Sherlock cố vươn ra phía rìa của hồ nước trước khi thứ gì đang sống dưới nước tóm lấy cậu. Nhanh chóng bò lên phía mấy hòn đá, nước trên người nhểu xuống ròng ròng, cậu đưa mắt nhìn xung quanh. Chưa thấy thứ gì đến gần cậu cả.
Sherlock nhìn lên ban công. Virginia đang đứng ở đầu mút tấm ván, bộ dạng đầy sợ hãi. Matty vừa mới bước lên tấm ván, nhưng lại vấp chân và ngã vào người đại uý Rubinek phía sau, lão ta hất ngay Matty về vị trí cũ.
Sherlock liếc nhanh xung quanh để phòng trường hợp bị thứ gì đó tấn công bất ngờ. Nước từ dưới hồ tóe lên, rồi thêm một lần nữa khi Virginia và Matty nhảy xuống sau cậu. Sherlock chồm ra kéo hai bạn về phía mấy tảng đá khi họ trồi lên, thổi phù phù.
“Có thứ quái gì dưới đó vậy?” Matty nói như muốn hụt hơi.
“Tớ không rõ nữa,” Sherlock trả lời mắt nhìn quanh. Phía trên ban công, Rubinek và người của hắn đã bỏ đi. Những gì sắp xảy ra trong cái chuồng thú này chắc hẳn không phải là môn thể thao dành cho khán giả.
“Chúng không canh chừng nữa,” Virginia lên tiếng. “Ta có cơ hội thoát thân đây.”
“Bờ tường quá cao khó leo lắm,” Matty nghi ngờ nói.
Sherlock nhìn quanh. “Xung quanh là những hòn đá xếp lỏng lẻo. Ta có thể đem chúng xếp chồng lên cao để trèo lên bờ tường.” Cậu ngẫm nghĩ một lúc. “Tệ thật. Đứng trong nhà chúng có thể thấy là ta trèo qua bờ tường. Phải tìm một lối thoát ra mà chúng không phát hiện được.”
Có một tiếng lạo xạo từ góc xa của chuồng nhốt chợt làm cậu chú ý. Cậu nhìn về hướng đó mà trống ngực đập thình thình. Cái gì ở phía đó đang dành cho ba đứa?
Nhất thời cậu không thấy gì cả, nhưng rồi một cái đầu quái dị chỉ có trong ác mộng xuất hiện từ một khe hở đen thui giữa hai tảng đá. Một cái đầu dài, nhọn, hai con mắt nhỏ hai bên. Lớp da con quái vật có màu xanh xám bẩn, các nếp gấp thụng xuống mặt dưới chiếc hàm dài xọc. Khi nó há miệng, Sherlock nhìn thấy lởm chởm những chiếc răng to bằng ngón tay út của cậu, chiếc nào chiếc nấy đều cong vào phía trong để giữ cho con mồi bị đớp đừng hòng thoát thân được.
Matty há hốc mồm còn Virginia cố nén không rên thành tiếng.
“Cái gì thế?” Matty nói nhỏ.
Con vật bò ra ngoài chỗ trống. Nó dài tương đương chiều cao Sherlock, nhưng một nửa thân là cái đuôi dài toàn cơ bắp. Nó khệnh khạng đi trên bốn chân choãi ra hai bên. Bàn chân nào cũng đầy các vuốt cong, các vuốt này bấu quắp vào mặt đá khi chúng di chuyển. Lớp da màu xanh xám của nó nhìn như bộ quần áo bùng nhùng, thõng tận xuống chân trước, đong đưa qua lại mỗi khi di chuyển.
Khi con vật đến gần, Sherlock không thấy có chút cảm xúc nào trong đôi mắt của nó cả: chỉ có một vẻ nhanh nhảu lạnh lùng và háu đói mà thôi.
“Một loài bò sát, nhưng lớn hơn nhiều.” Sherlock nói. “Mình chưa bao giờ thấy thứ nào như thế này.”
“Chúng nó to như người vậy,” Wirginia nói nhỏ. “Mình nghĩ có thể đây là một loại cá sấu Mỹ - có nhiều tại Florida, nhưng con này lại khác. Lũ cá sấu Mỹ chậm chạp và ngốc nghếch, chúng chỉ ưa nằm trong nước, còn con này thì nhanh nhẹn, thông minh, lại còn bò được trên mặt đá nữa.”
Sherlock nhìn kỹ vào bàn chân của con vật. “Chân nó có vuốt, chắc là leo cây được đây,” cậu lên tiếng. “Dù rằng xung quanh đây chẳng có cái cây nào để leo cả.”
Con quái vật bò ra chỗ tảng đá bằng phẳng và nhìn trừng trừng vào ba đứa, cái lưỡi của nó đánh qua đánh lại chĩa về phía Sherlock và các bạn. Nó biết thức ăn đang kề bên.
Phía bên kia có thứ gì bò ra. Sherlock nhìn theo. Một quái vật thứ hai đang chui ra từ một khe hở giữa các tảng đá. Con này còn to hơn con trước.
“Nhìn này!” Virginia báo động. Lúc đầu Sherlock cho rằng cô ta cũng nhìn thấy con quái vật thứ hai như mình, nhưng khi nhìn về Virginia, Sherlock thấy cô bé đang nhìn sang hướng khác. Sherlock trông theo hướng ngón tay Virginia chỉ. Con vật thứ ba đang di chuyển dọc theo bờ tường hướng về phía họ. Cái đầu lắc lư qua lại khi nó chằm chằm nhìn vào cả bọn.
Con vật thứ nhất mà Sherlock đã nhìn thấy di chuyển theo một hướng khác còn con thứ hai thì nhắm về phía họ, thân mình nó lắc lư qua lại trong khi các móng vuốt quặp vào mặt đất như tìm điểm tựa.
Dường như ba con quái vật đang hợp lực tác chiến giống như loài chó. Chúng tính ghìm Sherlock, Matty và Virginia xuống đất để không có chỗ thoát thân.
Đầu óc Sherlock suy nghĩ lung lên. Tầm vóc to lớn cùng với hàm răng đồ sộ và bén nhọn cho thấy đây rõ ràng là loài thú ăn thịt. Cách chúng di chuyển cho biết chúng đang đói và chúng biết rằng thức ăn đang có sẵn trong chuồng. Chúng không hề e dè hoặc thận trọng như lũ chó. Dường như mỗi cử động của chúng đều có chủ đích. Sherlock có cảm giác rằng loài bò sát này không hề biết sợ là gì. Vì bộ não của chúng không được cấu tạo để sợ. Chúng cứ xấn tới, dù Sherlock và các bạn có làm gì đi nữa cũng mặc. Tiếng động cũng không cản được chúng, các động tác bất ngờ cũng chẳng hề hấn gì. Có lẽ đá ném vào chúng cũng thế. Chúng giống như một cỗ máy trang bị đầy răng.
Lũ quái vật gớm ghiếc cứ lù lù tiến đến gần. Sherlock, Matty và Virginia nhích dần về phía bức tường phía sau. Những quái thú thông minh này đã chặn dần các phương án thoát thân của bọn họ.
“Mùi gì thế?” Matty nhăn mặt hỏi. Sherlock cũng ngửi thấy một thứ mùi thịt thối. Nếu mấy con vật này nuốt chửng con mồi rồi sau đó phải mất nhiều tuần lễ mới tiêu hóa hết thì có lẽ cái mùi này phải toát ra từ chúng.
“Sherlock,” Virginia không dừng được phải kêu lên, “làm gì bây giờ?”
“Suy nghĩ thôi,” Sherlock lên tiếng, mà quả thật cậu đang suy nghĩ. Chưa bao giờ trong đời mình mà Sherlock phải suy nghĩ nhanh như thế.
Con vật ở phía bên phải của họ dấn tới vài bước. Matty cúi xuống đất nhặt một hòn đá. Cậu vung tay ném vào nó. Con vật chẳng thèm động đậy khi hòn đá va phải bức tường bên cạnh và văng đi. Không chút sợ hãi, không chút dè chừng.
Nó không thèm chú ý. Vài giây sau, nó dấn thêm hai bước, bốn chân lặt lè choãi ra hai bên.
Con vật bên trái rít lên, đầu ngẩng cao như thể hít hít mùi trong không khí. Hai con kia cũng rít lên. Sherlock không biết có phải chúng đang thông tin cho nhau, hay chỉ phát ra những âm thanh để làm con mồi chết khiếp vì sợ.
Khoảng cách giữa lũ bò sát và ba đứa giờ chỉ còn một nửa, mỗi lúc lại gần hơn khi ba con quái vật dấn tới từng bước. Không chút vội vã, không cần tấn công đột ngột, chúng cứ tiến lên từng chút một cách thông minh, dồn con mồi vào một góc để sau đó chúng đánh chén tùy thích.
Còn Sherlock thì không nghĩ ra được cách gì để cản được chúng.