← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

“Nước thì thế nào?” Matty nói nhỏ như thể sợ lũ bò sát nghe được và hiểu ý cậu ta. “Mình có thể lội xuống hồ nước và chờ cho chúng bỏ cuộc không?”

“Tớ nghĩ chúng là loài lưỡng cư,” Sherlock nói. “Cứ nhìn vào chân chúng thì biết. Đó là chân màng. Nhiều khi chúng lội còn giỏi hơn bọn ta nữa.”

“Mình không biết bơi,” Virginia thốt lên.

“Tớ biết chắc đó,” Sherlock nói. “Chắc chắn là chúng lội còn giỏi hơn chúng ta.” Cậu nhìn xung quanh một cách vô vọng, cứ mong tìm được một thứ gì gần đó dùng được, nhưng ngoài các tảng đá và bụi cây thì không còn gì nữa.

Lũ bò sát càng lúc càng tiến gần hơn, mùi thịt thối càng lúc càng trở nên nồng nặc không chịu nổi.

“Không biết thứ này có giúp ích gì không,” Matty lên tiếng, “tớ mới khoắng trong túi áo khoác của lão ấy.”

Sherlock quay lại thì thấy Matty đang cầm một khẩu súng lục nhỏ, hai nòng.

“Khẩu Remington Derringer đấy,” Virginia nói. “Hồi trước mình được cha cho một khẩu, nhưng mình làm mất rồi.”

“Làm thế nào mà cậu xoáy được của hắn vậy?” Sherlock hỏi.

Matty nhún vai. “Móc túi là một trong những tài kiếm sống của tớ mà.”

Sherlock nhìn vào khẩu súng rồi nhìn đến mấy con thú bò sát đang tiến gần rồi nói. “Hai viên đạn chì, ba quái vật. Chẳng cân sức tí nào.”

“Nhưng ta có thêm cơ hội,” Virginia nói thêm.

“Chỉ có nghĩa là sẽ có một người trong bọn ta sẽ bị chúng thịt thay vì ba người, thế thì không phải là một giải pháp có thể chấp nhận được.”

“Cậu có ý gì hay hơn à?” Matty hỏi.

“Có đấy,” Sherlock đáp. Cậu nhìn kỹ các bức tường. “Bằng cách nào để người ta đưa mấy con thú vào đây? Tớ không nghĩ rằng họ cho chúng bò trên tấm ván. Rớt xuống đất chúng dễ bị thương lắm.”

“Cậu nghĩ là có một cái cửa hoặc một cái cổng gì đó phải không?” Matty hỏi.

“Rất có lý. Việc ta phải làm bây giờ là tìm cho ra cái cửa đó.”

Sherlock quan sát kỹ hơn lũ bò sát đang đến gần. Chúng chậm hơn ta,” cậu đưa ra ý kiến, “nhưng cuối cùng chúng sẽ làm ta kiệt sức.” Sherlock nhìn về phía các tảng đá. “Nếu chúng ta bò nhanh lên mấy hòn đá đó, rồi nhảy qua đầu lũ bò sát để lọt ra phía sau chúng. Rồi ta tìm xem lối vô ở chỗ nào. Lũ này không nhanh nhẹn đâu.”

Trước khi Virginia và Matty kịp ngăn lại thì Sherlock đã phóng về phía mấy con vật. Ba cái mõm giương đầy răng nhọn nhơn nhởn, rồi bất ngờ chúng cùng rít lên điếc cả tai. Không kịp suy nghĩ, Sherlock chỉ kịp nhảy lên một hòn đá, rồi từ đó phóng lên một tảng đá lớn hơn. Tảng đá rục rịch dưới chân cậu, và Sherlock hiểu rằng nếu mà sẩy chân thì mấy con vật kia sẽ chồm lên người cậu nhanh như chớp. Mất thăng bằng, nhưng Sherlock vẫn nhảy tiếp. Khi vụt qua, Sherlock thấy lũ bò sát bên dưới đứng dựng lên trên hai chân sau, hai chân trước rướn những chiếc vuốt ra như thể muốn tóm lấy gót chân của cậu.

Sherlock tiếp đất an toàn xuống một khoảnh trống. Cậu quay người lại, nhìn thấy Virginia đang ập về phía mình. Cậu đỡ cho Virginia tiếp đất, rồi kéo cô bé sang một phía để dành chỗ trống cho Matty. Lũ bò sát há miệng ra táp khi Matty nhảy, một con trong bọn chúng quất mạnh cái đuôi đầy bắp cơ để vươn lên cao, hàm răng ngậm lại kêu “phụp” ngay sau khi cậu ta nhảy qua người nó. Matty đụng phải đất, lăn tròn một vòng trước khi tự đứng dậy.

Ba con vật lừng lững nhìn quanh rồi tiến công lần nữa, con nào cũng giương cặp mắt đen thò lõ nhìn chằm chằm vào Sherlock, Matty và Virginia.

“Nhanh, nhanh lên,” Sherlock la to, nhào về phía bức tường phân cách cái chuồng với thế giới bên ngoài. Bức tường nằm phía bên phải của cậu hoàn toàn không có một kẽ nứt nào từ dưới lên trên, nhưng phía bên trái có một đống đá che mất chân tường. Cậu chạy dọc theo bức tường, tìm xem sau đống đá có khoảng trống nào hay không. Chẳng có gì cả! Chỉ có một khoảng đất trống nhỏ, rồi có một bụi cây lớn che khuất bức tường. Cậu đẩy bụi cây sang một bên, và tim cậu như muốn nhảy ra ngoài khi nhìn thấy một tấm lưới kim loại, cao khoảng thắt lưng tính từ dưới đất lên, bản lề nằm phía bên trái và được chốt lại bằng một thanh trượt đơn giản.

Tiếp đến cậu lại thấy một ổ khóa to đùng móc vào đầu cái chốt.

Matty vừa đến sát bên. “Có thể dùng súng để bắn bay cái ổ khóa không?” Matty vừa đưa khẩu Derringer ra vừa hỏi.

Sherlock cân nhắc một chút rồi nói. “Không được, ổ khóa này to quá. Đạn chì bắn vô chỉ dội ra thôi.”

“Còn bản lề thì sao?”

“Ba chiếc bản lề, hai viên đạn. Vẫn cùng một bài toán.”

Virginia đứng xích lại, ngước nhìn, giọng đầy lo ngại. “Mình nghĩ rằng ta không có lựa chọn nào khác đâu.”

Matty đá vào tấm lưới sắt. Cú đá mạnh chẳng làm cho tấm lưới lay động chút nào cả.

Trong đầu Sherlock đang quay cuồng các ý nghĩ trái nghịch. Có hai lựa chọn: bắn vào lũ bò sát và vẫn còn một con sống, hoặc bắn vào ổ khóa, và có lẽ chỉ làm mất toi hai viên đạn. Chọn cái nào đây?

Trong đám ý nghĩ quay cuồng đó, bật ra một giọng nói nhỏ nhẹ: “Mycroft sẽ nói gì? Amyus Crowe sẽ nói gì?” Và cũng giống như lúc còn ở trên tàu hỏa, có tiếng trả lời: Khi chỉ có hai lựa chọn, mà ta chẳng thích cái nào, thì hãy tìm một lựa chọn thứ ba.”

Cậu nhìn qua phía hồ nước mà ba đứa vừa nhảy vào, rồi bất thần cậu nhớ lại sát bên các bậc tam cấp đi lên ban công là cầu thang

dẫn xuống phía dưới. Cầu thang này không dẫn tới chỗ tấm lưới kim loại mà cắm xuống phía nền phẳng. Cầu thang đó phải dẫn tới một chỗ khác. Hồ nước nằm cùng phía với chuồng nhốt, và lão Balthassar có nói đến việc quan sát lũ bò sát cất giữ thực phẩm dưới những hòn đá bên dưới mặt nước. Có khả năng là các bậc thang này dẫn tới chỗ quan sát dưới đất, là một cái phòng nằm dưới sâu có cửa kính dày nhìn ra phía đáy của hồ nước, để cho lão Balthassar và khách khứa nhìn lũ bò sát bơi lội.

Nhưng mà làm sao đập vỡ tấm kính đó được - nếu thật sự có tấm kính? Kính này phải dày thì mới chịu đựng được áp lực của nước.

Như thế việc mà cậu định làm là tạo ra một áp suất lớn hơn sức chịu đựng của khung cửa kính.

Cậu giật lấy khẩu Derringer trong tay của Matty. Có hai cò thì dĩ nhiên phải có hai nòng súng. Ta có thể siết cò riêng cho từng cái. Cậu nhìn kỹ vào hai nòng súng rồi nói với Virginia. “Cậu đã từng sử dụng súng loại này. Nạp đạn như thế nào?”

“Cậu cứ cho một ít thuốc súng đen vào nòng súng, rồi nhồi viên đạn chì có bọc giấy tới sát chỗ thuốc súng,” Virginia giải thích, “nhưng phải cẩn thận đừng để cho khí lọt vào giữa viên đạn và thuốc súng. Sau đó cậu bật cái ngòi nổ vào đầu kia của nòng súng. Như thế là súng đã nạp đạn và sẵn sàng để bắn thôi.”

“Đạn chì có bọc giấy?” Sherlock vừa hỏi vừa chăm chú nhìn dọc theo nòng súng. “À đây rồi, viên đạn được bọc trong giấy. Chắc là để giữ cho khỏi bị ẩm.”

“Bọc bằng giấy sáp. Có quan trọng gì không?”

“Tức là nó kín hơi,” Sherlock nói. “Ít nhất cũng trong một thời gian ngắn. Mà nếu kín hơi, thì nước cũng không vô được.”

Trước khi Virginia mở miệng thì Sherlock quay người lại, vừa chạy về phía hồ nước vừa hất ngược hai cái kim hỏa ở đuôi khẩu Derringer lên. Khi đến rìa hồ nước cậu hụp người xuống, hai tay giơ ra trước, bàn tay phải giữ khẩu Derringer. Nước ào qua đầu cậu: nước ấm, lềnh bềnh bụi bẩn và rong rêu. Đột nhiên mọi thứ tiếng động như bị chặn lại. Cậu đạp mạnh chân để lấy trớn phóng tới bức tường phía đằng xa, bức tường nằm dưới bao lơn.

Và ở đó, nơi mà cậu biết là

chỗ đó, nơi sự suy luận đã mách cho cậu biết là có một khung cửa sổ bằng kính gắn vào một cái khung kim loại. Trước khi nước thấm vào bên trong khẩu Derringer, cậu dí sát khẩu súng vào mặt tấm kính.

Rồi siết cùng một lúc cả hai cò súng.

Ở một nơi nào đó trong đầu cậu là một chi tiết mà cậu đã đọc một lần và không bao giờ quên, đó là nước không thể nén được. Dù ta có nén đến mức nào đi nữa thì nước cũng không thể trở thành chặt hơn. Việc sẽ xảy ra là cái áp lực mà ta tạo ra đó sẽ chuyển sang một chỗ khác đâu đó. Bất cứ chỗ nào mà nước tiếp xúc.

Vì thế khi hai cái kim hỏa ở cuối nòng súng đập vào hai cái ngòi nổ, chất thủy ngân phát nổ nằm bên trong bắt lửa. Lửa này làm cho lưu huỳnh, than và potassium nitrate trong bột thuốc súng đen bắt cháy rất nhanh, tạo ra một lượng lớn chất khí nóng. Lượng khí này đẩy viên đạn chì chạy dọc theo nòng súng, làm cho lớp giấy bọc cũng cháy theo. Viên đạn đập vào lớp nước nằm trong lòng súng, nước này sẽ tống mạnh vào khung cửa kính.

Lớp kính nứt ra và vỡ tan ra thành những mảnh vụn.

Toàn bộ khối lượng nước chứa trong hồ đổ ào vào căn phòng ngầm dưới đất, kéo theo luôn Sherlock. Cậu mò mẫm tìm về phía góc phòng nơi có đặt cầu thang, mong Virginia và Matty hiểu được điều cậu đã làm rồi làm theo. Cậu có báo cho họ biết trước không? Chưa. Cậu chỉ làm theo những gì mà mình suy luận mà không biết rằng hai bạn của mình có thể không hiểu.

Hai lá phổi của cậu rát bỏng khi phải cố nín hơi, còn tim thì đập thình thình trong lồng ngực. Hai cánh tay vùng vẫy liên hồi để cố đưa mình ra khỏi làn nước đục nhờ nhờ. Bất thần cậu cảm thấy mấy đốt ngón tay đụng phải mép đá của một bậc tam cấp. Cậu hướng người lên phía trên và ra sức bơi.

Khi đầu ngoi ra khỏi làn nước ngang tầm với phần đáy khung cửa dẫn ra bên ngoài, ra phía có ánh nắng, cậu hít mạnh vào phổi nhiều hơi liên tiếp và chờ cho nhịp đập thình thịch của tim chậm lại.

Đầu của Matty cũng ngoi ra khỏi mặt nước ở phía sau.

Virginia sau đó một lát.

Matty vừa thở phì phò vừa lên tiếng. “Cậu đúng là thiên tài. Tớ không biết cậu đã làm gì, nhưng cậu đã cứu cả bọn.”

“Không chắc lắm đâu,” Virginia lập bập nói.

“Cậu nói gì thế?” Matty hỏi.

“Sherlock nói chúng là loại lưỡng cư.”

Cả ba đứa nhìn nhau một lúc, rồi nhanh chân thoát ra khỏi căn phòng đầy nước.

Những bậc thang dẫn xuống căn phòng quan sát bên dưới mặt đất và dẫn lên ban công đều nằm khuất bên ngoài ngôi nhà. Cả bọn ngồi thở một lát.

“Bây giờ thì chúng ta sẽ làm gì nữa đây? Matty hỏi.

“Một việc mà tớ có thể nghĩ ra là chúng ta phải đi theo đường tàu hỏa để đến thị trấn gần nhất,” Sherlock trả lời. “Ở đó có chỗ để đánh điện tín. Ta có thể gởi cho cha của Virginia một bức điện. Ta phải báo cho ông biết về đội quân của Balthassar và kế hoạch xâm lăng Canada.”

“Tức là cuốc bộ ư.” Matty lên tiếng.

“Ta có thể ăn cắp ngựa,” Sherlock có ý kiến, “nhưng chắc chắn là sẽ bị bắt. Tớ nghĩ họ canh giữ ngựa rất cẩn thận, nhất là khi họ lên kế hoạch xâm lăng.”

Matty thở dài nói. “Được thôi. Đi bộ sẽ làm khô quần áo vậy.”

Để tránh tầm nhìn từ phía trong nhà, ba đứa đi len qua những dãy chuồng và lồng nhốt thú của lão Balthassar. Nhiều cái còn bỏ trống, nhưng một vài thứ nhốt trong chuồng mà Sherlock thấy được sẽ làm cậu nhớ suốt đời – những con vật chỉ thấy trong sách có minh họa, mà trên thực tế bằng xương bằng thịt trông như những quái vật chỉ có trong mơ hoặc trong cơn ác mộng. Đó là những con vật có chân dài lêu nghêu, cổ dài ngoằng còn da thì có những mảng lông to màu nâu; hay một con vật đồ sộ có cái đầu vuông chúi xuống phía trước, phía trên là hai cái sừng nằm giữa hai con mắt, còn da thì dày như áo giáp; những con vật giống như con lợn nhưng toàn thân phủ đầy lông cứng trùi trủi, hàm chĩa ra đầy răng nanh. Tất cả hội lại như một quyển sách động vật chứa đầy các con vật hoang đường.

Khi họ ra đến ngoài rìa của chuồng nhốt và các lồng chứa, Sherlock thận trọng nhìn xung quanh. Phía trước mặt là một khu đất trống phủ đầy cỏ, còn tít đằng xa ở phía bên tay phải có thể nhìn thấy được ngôi nhà của lão Balthassar. Hướng của ngôi nhà là hướng mà đường tàu phải chạy qua mặc dù bị cỏ mọc cao che khuất. Ở tít phía xa nữa là hàng rào ranh đất, và xa hơn nữa, theo hướng đường tàu là thị trấn tên Perseverance. Có ít nhất một cái cầu gỗ bắt ngang qua một vực sâu, đó là những gì mà cậu nhớ được.

Chẳng còn có lựa chọn nào khác.

“Đi nào,” Sherlock giọng đầy mệt mỏi. “Phải đi thôi.”

Ba đứa băng qua đồng cỏ. Phải mất đến mười phút mới thấy được hai thanh đường ray của đường tàu được đặt trên những thanh ngang bằng gỗ, và mất thêm nửa giờ nữa mới đi đến chỗ hàng rào ranh đất, và tới chỗ mà đoàn tàu bị bẻ ghi chuyển về hướng nhà lão Balthassar. Khi thấy đường tàu, Matty bỏ ra mấy phút nhảy từ thanh tà-vec này sang thanh tà-vec khác, nhưng khoảng cách giữa hai thanh tà-vec rộng hơn bước nhảy của cậu ta nên mới mấy bước đã đau chân, cậu đành phải đi bộ dọc theo đường ray cùng với Sherlock và Virginia.

Sau khi đi thêm nửa giờ nữa thì cái hàng rào lẫn ngôi nhà cũng biến mất dần vào đường chân trời mờ mờ do hơi nóng ngụt lên. Còn lại chỉ là hai thanh đường ray kéo dài hun hút và cánh đồng cỏ. Sherlock nghĩ rằng mình có thể nhìn thấy hình thù mờ mờ của các rặng núi mãi tít đằng xa ở bên trái, nhưng không chắc là đúng vì bị lớp màn sương che khuất.

Lũ chim đang bay vòng vòng trên đầu họ. Matty nghĩ có thể đây là diều hâu, nhưng Virgina cho rằng đó là diều cắp gà con. Sherlock không nói gì. Cậu không biết con nào là diều hâu con nào là diều cắp gà con, nên chẳng mất công suy đoán làm chi.

Vừa đi Sherlock vừa suy nghĩ miên man các kế hoạch mà lão Balthassar đã giải thích. Tất cả đều thật nực cười – một đôị quân Liên minh miền Nam phục hưng tìm cách xâm lăng một thuộc địa kế bên của người Anh nhằm thành lập một quốc gia mới để cai trị tự do theo cách họ muốn hơn là theo cách mà chính phủ Liên bang thắng trận muốn. Sherlock không tán thành chế độ nô lệ, nhưng cậu cũng không ưa cách một nhóm người dùng vũ lực để buộc một nhóm khác phải sống giống như mình. Có cách nào khác hay không? Mỗi người có được phép sống theo những qui định đạo đức riêng của mình hay không? Mà nếu đúng như vậy, việc gì sẽ xảy ra nếu người hàng xóm tin rằng mình được phép ăn trộm, và nếu anh không tin như thế, anh có cho phép hắn bắt trộm heo, cừu hoặc ngựa của anh hay không? Hay là cứ để người ta áp đặt một qui định đạo đức buộc anh phải tuân theo mà bản thân anh không muốn, nhưng vẫn phải tuân thủ.

Lạ lùng là, tất cả những điều này khiến cho Sherlock nghĩ đến quyển sách

Nền Cộng Hòa của Plato mà anh Mycroft cho cậu trước khi rời Southampton. Hơn hai ngàn năm trước, Plato đã từng nghĩ đến tất cả những câu hỏi này. Và từ đó đến nay, chưa ai xây dựng được một xã hội mà mọi người đều nhất trí và thực sự vận hành được.

Phải chăng đó là điều mà chính bản thân Mycroft, theo cách riêng của mình, đang cố làm - xây dựng nước Anh thành một xã hội vận hành ở mức tốt nhất có thể được?

Sherlock nhận thấy càng trưởng thành thì cậu càng kính nể anh mình nhiều hơn.

Sherlock và các bạn cứ tiếp tục đi. Phía sau lưng, mặt trời tiếp tục hạ thấp về phía chân trời, rọi vào người họ tạo thành những cái bóng khổng lồ đổ ra trước trên cánh đồng cỏ nhấp nhô gợn sóng. Nhất thời, Sherlock nghĩ rằng mình thấy một vệt đen cắt ngang cánh đồng cỏ rực ánh trời chiều, rồi khi mặt trời hạ thấp và tắt dần, thì vệt đen này chính là hẻm núi mà con tàu đã băng qua lúc trước, nằm trên đường ray chạy tới nhà của lão Balthassar. Những tia nắng cuối ngày chiếu xiên vào chiếc cầu khiến nó trông giống như một thứ mô hình đồ chơi của con nít hơn là một cái gì có thực.

“Ta có phải vượt qua

cái đó không?” Matty nhỏ giọng hỏi khi ba đứa dừng lại bên mé vực và nhìn về phía cây cầu.

Sherlock hất hất bàn tay chỉ xuống độ sâu của hẻm núi. “Tớ không nghĩ là bọn ta nên trèo xuống đó để rồi trèo lên trở lại đâu.”

“Mình thì nghĩ,” Virginia lên tiếng, “ý của Matty là “bọn mình có phải vượt qua cái đó trong đêm nay hay không?” và mình đồng ý với Matty.”

“Bọn ta không được dừng lại và ngủ tại đây,” Sherlock nói. “Ngay từ đầu, tớ không biết cái gì sẽ xảy ra ở đây. Nào là báo sư tử, gấu...”

“Cả gấu mèo nữa,” Virginia lẩm bẩm.

“Thứ gì cũng có thể có ở đây,” Sherlock tiếp tục. “Mà ta còn phải ăn nữa. Từ sáng đến giờ tớ chỉ có một ly nước cam với một lát bánh mì thôi.”

“Ăn à...” Matty rên rỉ. “Tớ

đang chết đói đây. Các cậu có nghĩ là ta có thể làm thứ gì ở đây không, như

đi săn chẳng hạn?”

“Nên tìm cách khác,” Sherlock có ý kiến. Cậu hít mạnh một hơi, và bắt đầu bước từ thanh tà-vec này sang tà-vec khác để vượt qua hẻm núi.

“Việc gì xảy ra nếu có đoàn tàu chạy tới?” Matty kêu lên.

“Ban đêm không có tàu chạy đâu,” Virginia bảo. “Dễ tông phải trâu rừng, hoặc đất lở hoặc thứ gì khác lắm.Tàu dừng ở thị trấn gần nhất để cho hành khách xuống. Có khách sạn cho khách trọ để chờ lên tàu sáng hôm sau.”

“Thế à,” Matty nói. Có lẽ cậu ta đang tìm lý do để không phải vượt qua cầu.

Sherlock nhận thấy, cũng giống như Matty đang đi đằng trước, dang chân bước từ tà-vec này sang tà-vec khác đúng là mệt mỏi. Mặc dù có đôi chân dài, nhưng cậu vẫn phải dang chân ra mỗi khi bước tới. Cậu có thể nhìn xuống phía dưới ở khoảng giữa hai tà-vec, nhưng do những tia nắng cuối cùng của ngày chiếu ngang qua cánh đồng cỏ, cho nên chỗ hẻm núi là một khoảng tối đen, và dưới chân cậu chỉ nhìn thấy một khoảng trống trơ trọi. Do quá chăm chú nhìn nên cậu bị hẫng chân. Có hai lần cậu bị sẩy chân, suýt té. Cuối cùng, cậu quyết định là chỉ nhìn về phía đằng trước, và cứ để cho đôi chân tự tìm lấy các tà-vec theo bản năng. Khoảng cách giữa các tà-vec đều nhau, cho nên cậu nhận thấy không cần để ý mình vẫn có thể đặt chân đúng bước.

Thỉnh thoảng cậu quay lại nhìn ra phía sau, thấy dáng Virginia và Matty in trên nền mặt trời đỏ rực đằng sau lưng họ. Có vẻ hai người kia biết cách xoay sở. Sherlock tự nhủ, như vậy cậu chẳng cần phải giúp gì cho họ nữa. Mỗi người phải tự mình tìm cách để vượt đoạn đường dài bắt qua hẻm núi.

Sherlock chợt nghe một tiếng động sau lưng mình. Cậu dừng lại và ngoái nhìn. Virginia đang bò trên đường tàu. Trông cô như kiệt sức. Cô bé nói nhỏ, “Xin lỗi, mình bị trật bước.”

Sherlock bất lực đáp, “Mình không thể lùi lại để giúp cậu được. Quay lại có thể bị rơi, còn nếu cúi xuống để kéo cậu lên thì mình cũng rơi xuống vực mất!”

“Mình biết, mình biết mà.” Virginia nói nhỏ giọng.

Từ sau lưng Virginia, Matty la lên,” Virginia, cậu phải đứng lên đi chứ!”

“À ra thế, cám ơn nhiều,” cô lấy hơi, cố đứng dậy. “Làm như mình không nghĩ ra vậy!”

Họ lại tiếp tục đi, người này sau người kia. Thời gian dường như tan biến, mỗi giây, mỗi phút hòa lẫn vào nhau, cho đến khi Sherlock nhận ra được là mình đặt chân lên nền đất cứng giữa hai đường ray thì họ đã đi được chừng một trăm mét cách bờ vực rồi.

“Ta nghỉ lấy hơi một lúc đi,” cậu nói. “Chỉ mười phút thôi.” Matty rên rỉ. “Tớ cần ngủ.”

“Anh tớ bảo là người ta có thể không ngủ trong nhiều ngày liên tiếp nếu công việc đang làm quan trọng và thú vị.”

“Đi bộ đến thị trấn gần nhất có thể là việc quan trọng, nhưng chắc chắn là không thú vị tý nào.” Matty lên tiếng.

Sherlock cho phép họ nghỉ mười phút, nhưng nói là ba mươi giây hoặc một giờ cũng được tùy theo cách co giãn của thời gian, trước khi cậu buộc cả bọn phải đứng dậy và bắt đầu đi tiếp. Họ tiếp tục đi lặng lẽ dọc theo đường ray. Hai lần Sherlock nghe có tiếng sói tru từ phía đằng xa. Cậu hoảng sợ nghĩ ngay đến việc lão Balthassar phát hiện họ đã bỏ trốn và cho lũ báo sư tử đi truy bắt, nhưng Virginia chỉ nói nhỏ, “sói đồng cỏ đấy.”

“Cái gì là sói đồng cỏ?” Matty ở đằng sau nói to.

“Giống như chó sói vậy,” Virginia trả lời.

“Vậy hả,” Matty dừng một lúc. “Tớ không biết nó có vị gì nhỉ.”

“Buồn cười thật,” Viriginía lên tiếng, “tiếng hú đó có lẽ cũng có nghĩa là chúng đang suy nghĩ giống cậu đấy.”

Mặt trăng đã lên cao khỏi đường chân trời: nó là một cái đĩa trắng đầy đặn dường như to hơn nhiều so với mặt trăng mà Sherlock nhớ hồi còn ở nước Anh. Chẳng lẽ nước Mỹ gần mặt trăng hơn? Thật ra thì quả đất hình tròn. Bất cứ điểm nào trên bề mặt trái đất cũng có khoảng cách như nhau đến mặt trăng. Cậu tìm được lời giải thích duy nhất là sự liên quan đến bầu không khí, chẳng hạn như do không khí nóng hơn nên hình ảnh bị phóng đại khiến mặt trăng

trông như to hơn.

Một lúc sau, Sherlock phát hiện là Matty đang lầm bầm một mình. Sherlock cứ nghĩ là cậu ta đang nói chuyện với Virginia, nhưng Matty đang đi nhanh phía trước còn Virginia thì chưa bắt kịp. Dường như Matty nghe được một giọng nói mà người khác không nghe được. Bị ảo giác chăng? Có lẽ do cậu ta quá mệt và ăn uống thất thường. Nói đúng ra, thì mấy tuần nay cậu ta đã phải chịu quá nhiều áp lực.

Dù rằng cậu đang nghĩ đến việc Matty bị ảo giác, nhưng điều đó cũng chẳng hề lạ đối với Sherlock vì bà Eglantine, quản gia của chú thím cậu, thỉnh thoảng cũng xuất hiện như vậy. Chẳng hề nói năng gì, bà ta chỉ nhìn cậu với ánh mắt không vừa ý, miệng trề ra, đầu thì lắc hết bên này sang bên khác. Cậu không biết khi nào bà ta đến, khi nào bà ta đi. Tất cả những gì mà cậu biết là trong một chặng đường nào đó, bà ta có mặt ở đó như một người đồng hành lặng lẽ. Lạ thật, cậu nghĩ, trong tất cả những người mà cậu tưởng tượng được đi cùng, tại sao lại là bà ta? Tại sao không phải Mycroft, hoặc Amyus Crowe? Về điều này, nếu đầu óc của cậu không có vấn đề, thì tại sao không phải là những người mà cậu có liên quan đến mạng sống của họ - như lão Surd, Gilfillan, Ives hoặc Grivens? Thậm chí Plato cũng là một bạn đường tốt chán so với bà Eglantine.

Nếu Virginia thấy bóng một người nào đó cùng đồng hành thì có lẽ cô cũng chẳng bao giờ nhắc đến nó dù bây giờ hay về sau chăng nữa.

Nhờ ánh trăng, Sherlock thấy ở đằng xa tận chân trời in dáng một kho thóc hay trang trại nào đó. Cậu nghĩ đến việc đổi hướng đi rồi dừng lại để tìm sự giúp đỡ hoặc ít nhất cũng để xin đồ ăn thức uống, nhưng có một cái gì đó buộc cậu cứ phải đi dọc theo đường ray. Muốn giải thích được cần phải có thời gian, mà cũng chỉ tổ thêm rắc rối. Hơn nữa, cái duy nhất họ cần đó là bưu điện, và chỉ nhà ga tàu hỏa trong thị trấn mới có một cái mà thôi.

Một lúc sau, đến hàng chục kho thóc và trang trại bắt đầu xuất hiện nhiều hơn, rồi sau đó đến một khu dân cư với nhà cửa rải rác. Họ đang ở phía ngoài của một khu gì đó. Nếu may mắn, thì đây là một thị trấn. Sherlock không nhớ được là đoàn tàu có chạy qua một nơi nào có nhiều nhà cửa hay không sau khi rời nhà ga Perseverance, vì không phải lúc nào cậu cũng dán mắt vào cửa sổ tàu để quan sát. Có những thứ khác xảy ra làm cho cậu bị mất tập trung. Có lẽ đây là một thị trấn khác, một thị trấn không có nhà ga hoặc bưu điện, và trong trường hợp này, cậu sẽ quyết định dừng lại, dù chỉ một chút thôi. Cũng có thể họ sẽ bỏ tiền ra thuê người đưa đến Perseverance.

Một dải sáng màu hồng đang vắt ngang chân trời. Mặt trời sắp mọc. Phải chăng họ đã cuốc bộ suốt đêm? Sherlock ngờ rằng đúng như thế vì các bắp cơ trên người cậu dường như muốn cứng đơ, cổ họng cậu khô rát cháy.

Hoặc đó chỉ là một ảo giác khác, giống như ảo giác về bà Eglantine?

Sau khi đi hàng giờ theo đường thẳng băng qua cánh đồng, con đường giờ đây uốn cong, hướng về phía trung tâm thị trấn. Và cuối cùng, trước mặt họ là một cụm các công trình xây dựng mà Sherlock đã thấy khi ba đứa đã xuống tàu trong một thời gian ngắn ngủi – đó là nhà ga, và các nhà phụ. Họ đã đến nơi. Qua bao cực khổ, cuối cùng, họ cũng tới nơi.

Một con tàu đang đỗ trên đường tránh tàu bên cạnh nhà ga. Con tàu này ngắn hơn con tàu mà Sherlock nhớ được của đêm hôm trước. Trên tàu tối thui không một bóng người.

Quang cảnh xung quanh vắng hoe khi ba đứa thất thểu bước lên nền sân ga. Ngay cả nhà bưu điện cũng khóa cửa.

Sherlock đập mạnh vào cửa để xem có ai đang ngủ bên trong không, nhưng chẳng ai trả lời cả. Cả thị trấn dường như còn đang ngủ say, dù rằng trên bầu trời xanh thẳm ánh ban mai đã bắt đầu ló dạng.

“Ta cứ đi tiếp,” cậu nói, họng khô không thốt ra tiếng, “tìm một khách sạn rồi kiếm cái bỏ bụng. Bưu điện chắc sẽ mở cửa muộn đấy.”

Matty nói giọng khàn hẳn, “Ăn, rồi ngủ thôi.”

Virginia chỉ gật đầu. Mặt cô bé trắng bệch - mấy cái tàn nhang lúc này lộ rõ như vết mực đen - trông giống như người không còn chút sức lực nào.

Khách sạn nằm ở phía bên kia đường đối diện với nhà ga. Đường phố là đường đất khô, đầy các vết lún bánh xe, và Sherlock cảm thấy lạ là đất trên mặt đường lại cứng hơn đất trên cánh đồng cỏ.

Cánh cửa không bị khóa, có lẽ đây là lần đầu tiên ba đứa gặp may từ trước tới giờ.

Một người đàn ông đang đứng cạnh chiếc bàn đặt ngay giữa căn phòng lớn đang mở cửa, cúi nhìn tấm bản đồ trải rộng ra trước mặt. Người đó là Amyus Crowe.

Ông ta ngước mắt nhìn lên khi nghe tiếng ba đứa bước vào, và trong tích tắc trên mặt ông biểu lộ nhiều cảm xúc khác nhau đến mức Sherlock có cảm giác rằng mình đang nhìn phải nhiều người khác nhau trong cùng một thời gian ngắn ngủi.

Virginia chạy ào tới, hai tay ôm chầm lấy cổ cha mình. Matty thì gieo mình xuống một chiếc ghế lớn và nhắm nghiền mắt lại.

“Chú theo dấu bọn cháu à?” Sherlock lên tiếng hỏi. Cậu nhận thấy giọng mình không có chút xúc cảm nào. Có lẽ việc phải đi bộ suốt đêm đã làm cạn đi xúc cảm trong người cậu.

Cậu chỉ cảm thấy quá mệt.

“Chú có nói chuyện với mấy đứa bán báo,” ông Crowe nói. Rõ ràng là ông ta cố giữ giọng bình tĩnh. “Chẳng có việc gì xảy ra trong thành phố mà chúng không biết, và chúng chú ý đến những thứ mà phần lớn người khác không để ý. Chúng báo cho ta biết là cháu bị theo dõi, và đang cố gắng lật ngược tình thế. Mà này, việc đổi mũ, đổi áo khoác và mua xấp báo là một mánh hay đấy. Một đứa thấy cháu ở nhà trọ, một đứa khác gặp cháu và Virginia tại nhà ga. Còn những việc khác thì chú tự ráp nối lấy.” Ông ta hít một hơi mạnh làm rung cả người. “Chú nghĩ mình có thể đoán ra được những việc gì buộc cháu phải đi đến đây. Nếu mà chú nghĩ rằng những việc trên do cháu chủ ý, thì con trai ạ, ta sẽ bỏ cháu lên chuyến tàu sớm nhất để về nước Anh, và tin rằng ta với cháu sẽ không bao giờ gặp nhau lần nữa, nhưng ta nhận ra rằng những gì đã xảy ra chỉ là một chuỗi các sự cố nhỏ, và cuối cùng là cháu đi đến tận một nơi xa xôi mà ta cũng không đến giúp được vì quá xa.”

Sherlock nói. “Vấn đề là ở chỗ đó. Bọn cháu không hề có ý định. Không một chút nào.”

“Đúng đấy, cha ạ,” Virginia nói, giọng bị khuôn ngực của cha cô chẹn lại. “Bọn con đi theo mấy người bắt Matty, chưa kịp xuống đất thì tàu đã chạy rồi.”

“Nhưng hai bạn đã cứu cháu,” Matty xen vào, mắt vẫn nhắm nghiền.

“Đúng là họ đã cứu cậu,” ông Crowe thừa nhận. Ông ta liếc nhìn cả ba đứa trẻ. “Ta nghĩ rằng mấy đứa cần ăn, uống và nghỉ ngơi, còn phần ta, khi ba đứa ăn uống, ta phải tìm hiểu xem việc gì đã xảy ra cho mấy đứa.” Ông ta quay đầu về phía cuối phòng, chỗ có một cánh cửa mở ra ngoài. “Bà Dimmock! Bốn phần ăn sáng, nước cam và cà phê để cho mấy đứa nhỏ tỉnh lại!” Rồi ông nhìn sang Sherlock và Matty và hô to. “Thôi thì

tám phần đi. Có người đang đói lắm đây!”

Một giờ trôi qua rất nhanh. Trong khi chờ thức ăn mang lên, ba đứa kể cho Amyus Crowe mọi chuyện đã xảy ra, và sau đó họ mãi lo nhồi vào miệng nào là dồi, khoai tây chiên, đủ thứ trứng và nước hoa quả đến mức quên cả nói.

“Lão ta tính chuyện xâm lăng Canada,” Sherlock kể cho ông Crowe khi họ ăn gần xong. “Lão đang tập trung lưc lượng quân đội, lên kế hoạch dựng nên một quốc gia mới bên trong nước Canada và tuyên bố đó là Tân Liên minh.”

“Khá phù hợp với những gì mà người bên Pinkerton đã phát hiện,” ông Crowe gật đầu nói. “Bọn họ đã để mắt đến tay Duke Balthassar này từ lâu. Họ cũng biết là trên thực tế, lão ta dùng John Wilkes Booth làm con rối nhằm hô hào lực lượng của lão và cũng để cho quốc gia mới này có chút danh chánh ngôn thuận dưới mắt người dân miền Nam, và thực tế này đã nói lên điều mà hắn đang chờ đợi.”

“Thế thì Pinkerton sẽ làm gì đối với việc này?” Sherlock hỏi. “Họ không thể để chuyện đó xảy ra phải không ạ? Như thế sẽ làm xấu đi mối quan hệ giữa nước Mỹ và nước Anh trong nhiều thế hệ mất,”

Ông Crowe lắc cái đầu bù xù đồ sộ. “Họ có kế hoạch đấy” Ông nói to. “Chú không thể nói nhiều được về việc này, nhưng ngài Bộ trưởng bộ Chiến tranh Stanton đã đích thân phê chuẩn, chú chỉ có thể nói đến thế thôi.”

“Họ sắp tấn công à?” Matty lên tiếng, mồm đầy khoai tây chiên.

“Quân đội đã được huy động, họ đang lập phòng tuyến bao vây tại một nơi nào đó giữa khu vực này và biên giới,” ông Crowe nói. “Nhưng họ đang chuẩn bị một thứ gì đó. Chính phủ muốn giải quyết gọn việc này mà không phải xáp chiến, nếu có điều kiện.” Ông ta thở dài, rồi nhìn về phía cửa trước của khách sạn. “Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Stanton đã từng cho sử dụng khí cầu để do thám trong Nội chiến. Ông ta cho rằng trong tương lai sẽ dùng khí cầu làm vũ khí. Vì vậy mà ông đã ra lệnh cho các Kỹ sư công binh triển khai tất cả các khí cầu bay bằng khí nóng hiện có. Khi chiều đến, ông ta sẽ thả các khí cầu bay trên doanh trại của quân Balthasar rồi thả các thiết bị nổ xuống đầu họ.”

“Nhưng...” Sherlock nhổm người dậy, rồi ngồi xuống, giọng đầy vẻ kinh hoàng. “Nhưng đấy là sự tàn sát! Cháu biết họ đang chuẩn bị xâm lăng một quốc gia khác, nhưng sao lại thả bom xuống đầu họ! Ngài bộ trưởng ít nhất cũng cho họ cơ hội đầu hàng chứ?”

Ông Crowe lắc đầu. “Vấn đề không phải như thế. Ngài Bộ trưởng chiến tranh Stanton muốn gởi đi một thông điệp. Ngài muốn mọi người biết rằng chiến tranh đã chấm dứt, Chính phủ liên bang đã thắng trận, và bất cứ âm mưu nào nhằm khôi phục cơ đồ của phe miền Nam đều phải bị đè bẹp.”

“Nhưng hàng trăm, có lẽ hàng ngàn người sẽ bị giết!” Sherlock phản đối. “Dù không có đánh nhau đi nữa, thì họ cũng phải có quyền tự vệ. Chắc chắn họ sẽ chết khi lửa từ trên trời dội xuống đầu họ! Như thế là

không đúng!”

“Có thể không đúng,” ông Crowe nói giọng bình thản, “nhưng việc sẽ xảy ra như thế. Chào mừng cháu đến cái thế giới mà người Đức gọi là Nền Chính Trị Thực dụng, cậu Sherlock ạ.”