CHƯƠNG 4
Đồn cảnh sát Bow Street và tòa án là một tòa nhà lớn với các tảng đá trắng nguyên khối nằm ở một bên góc của Vườn Covent. Khi đến gần, Sherlock đưa mắt nhìn kĩ ngôi nhà, cố gắng ghi nhớ từng chi tiết. Cậu có một cảm giác rất lạ là tòa nhà này sẽ trở nên quan trọng đối với mình, mặc dù cậu không muốn vậy vì chính tại đây anh cậu sẽ bị kết án treo cổ.
Tường của tòa nhà là những hàng đá nhấp nhô nối tiếp nhau, phần mái có đặt những lỗ châu mai khiến nơi đây trông giống như một lâu đài thời trung cổ hơn là chốn thực thi luật pháp. Sherlock bật cười khi nhìn đến những tảng đá này. Nếu Matty Arnatt có mặt ở đây, hẳn cậu ta sẽ lấy đó làm bậc thang để bám leo lên mái.
Các cánh cửa lớn phía góc tòa nhà mở ra ngang mặt đường, không có bậc thang để bước lên. Bên ngoài treo những chiếc đèn màu trắng. Amyus Crowe ngước nhìn lên mấy chiếc đèn rồi quay sang viên cảnh sát.
“Anh có chắc là dẫn chúng tôi đến đúng chỗ không?” ông hỏi. “Tôi cứ tin rằng tất cả các bót cảnh sát ở xứ này đều đặt đèn màu xanh bên ngoài, chứ không phải là màu trắng.”
“Có qui định như vậy,” viên cảnh sát thú thực. “Đó là cách đây khoảng 7 năm rồi, Nữ Hoàng không đồng ý việc đặt đèn màu xanh bên ngoài tòa nhà này. Lý do là Nhiếp chính vương chết trong một căn phòng màu xanh, cầu Trời phù hộ linh hồn Ngài, và từ đó Nữ Hoàng không thể nào chịu đựng nỗi khi thấy màu này. Nữ Hoàng thường đến Nhà hát nằm ở phía dưới con đường này một chút, và mỗi khi xe chạy qua những ngọn đèn xanh đều làm cho Người thấy khó ở. Vì thế ngài yêu cầu phải thay thế. Vâng, nói là “yêu cầu” nhưng tôi nghĩ Người chỉ là bảo Quan cảnh sát trưởng thay thế mấy cái đèn đó, nếu không Người cách chức ông ta.”
“Quả là điều thú vị,” Crowe nói to, “khi một người đàn bà có nhiều quyền hành đến thế tại một xứ sở từ chối quyền bầu cử và cơ hội sở hữu tài sản của phụ nữ.”
Viên cảnh sát dẫn họ vào bên trong, đi ngang qua một cái bàn lớn ở sảnh trước và vào tận bên trong của tòa nhà. Có nhiều người đàn ông mặc đồng phục và trang phục chỉn chu tấp nập qua lại, người nào cũng có vẻ đang lo một công việc quan trọng. Viên cảnh sát đưa họ đi dọc theo hành lang, vòng qua góc cua rồi lên một loạt bậc thang, sau đó ra hiệu cho họ đi vào một căn phòng trong đó có một cái bàn với 3 chiếc ghế xung quanh: 2 chiếc nằm một phía còn một chiếc nằm ở phía bên kia. Tường bao quanh làm bằng gạch sơn màu xanh lá xám xịt.
“Vui lòng chờ ở đây,” anh ta bảo. “Chút nữa Hạ sĩ sẽ đến. Và đừng rời khỏi phòng.”
Khi anh ta đi ra, ông Crowe gieo phịch người xuống ghế. Chiếc ghế kêu răng rắc vì sức nặng ở trên. “Cháu cũng nghỉ thoải mái chút đi,” ông ta nói. “Chúng ta còn ngồi ở đây lâu đấy. Chắc là anh ta muốn ta ngồi rục ở đây, mong cho ta cảm thấy bực mình mà trả lời ngay những câu hỏi của họ.” Ông khịt mũi. “Và dĩ nhiên, nếu chú là anh ta, chú sẽ tách đôi hai người ra để hỏi cung từng người một.”
“Tại sao ạ?” Sherlock hỏi, xích lại sát ông Crowe.
“Nếu hỏi cung riêng từng người, sau đó anh ta có thể kiểm tra lại xem chúng ta có trả lời khớp nhau hay không. Nếu không khớp, anh ta sẽ biết ngay những điểm mà chúng ta có thể nói dối. Nếu anh ta thẩm vấn chúng ta cùng một lúc, thì cháu có thể dựa vào câu trả lời của ta để nói cho khớp, và ta cũng thế.”
Ông ta dựa lưng vào ghế và nhắm mắt lại, kéo chiếc mũ lên để che bớt ánh sáng.
Sherlock đảo mắt quanh phòng, không có gì đáng chú ý cả. Họ cố ý để căn phòng trơ trụi, không bài trí chút gì.
Cậu lại nghĩ đến Mycroft. Chắc là anh ấy đang ở gần đâu đây, nhưng dù là ở đâu thì cũng không được tiện nghi như căn phòng mà Sherlock và Amyus Crowe đang ngồi.
Chừng 15 phút sau, cánh cửa bật mở, viên hạ sĩ Cloeman mà họ đã gặp sầm sập đi vào, trên tay cầm một cuốn sổ và một cây bút chì.
“Có một số chi tiết cần phải làm rõ,” chưa kịp ngồi xuống anh ta đã nói. “Tôi không nghĩ đây là trường hợp khó khăn gì cả. Mọi thứ khá rõ ràng.”
Ông Amyus Crowe giở mũ ra và nhướng mày. “Biết đâu ngài sẽ ngạc nhiên,” ông nói.
“Các tình tiết có lẽ không thể chối cãi được,” viên hạ sĩ bảo. “Các ông có thể ngắt lời nếu tôi nói sai, nhưng cửa phòng thì đóng, chỉ có một lối ra vào duy nhất – đó là cái cửa lớn. Bên trong là hai người. Khi cửa phòng mở ra, một người thì phát hiện đã chết, người kia đang cầm trên tay một con dao. Liệu tôi có kể thiếu chi tiết nào không?”
“Không thấy dấu máu trên con dao,” Sherlock đưa ra ý kiến.
“Máu đã được lau vào áo sơ mi của người chết khi con dao được rút ra rồi.”
“Vậy ông có kiểm tra dấu hiệu lau máu trên áo sơ mi hay đó chỉ là giả định?” ông Crowe hỏi.
“Ngài không thể phủ nhận là trên áo sơ mi có dính máu,” viên hạ sĩ quả quyết.
“Máu từ vết thương vọt ra, đúng là thế, nhưng có dấu hiệu nào chứng tỏ lưỡi dao bị cố ý hay vô tình được lau vào cái áo không? Dấu vết máu do lau và do phun vọt ra rất khác nhau.”
“Chẳng có liên quan gì cả,” Coleman ngắt lời ngay. “Máu lúc nào chả là máu, và trong phòng chỉ có một con dao. Còn bây giờ, quí ông cần cho tôi biết là quí ông đến thăm bị cáo để làm gì?”
“Anh ấy là anh trai tôi,” Sherlcock nói khẽ. “Ông Crowe là người bạn của gia đình. Chúng tôi đến gặp anh Mycroft để ăn trưa.”
“Tức là án mạng này không có chủ mưu,” Coleman nói, dùng bút chì ghi chú vào quyển sổ. “Không ai giết người khi họ biết khách của mình sẽ đến ăn trưa trong ít phút. Đây chỉ là việc xảy ra trong chốc lát.”
“Nhưng vì động cơ gì mới được chứ?” Ông Crowe hỏi.
Viên hạ sĩ rời mắt khỏi quyển sổ nhìn lên. “Việc làm ăn không suôn sẻ, cãi nhau vì một người đàn bà – biết bao nhiêu là lý do. Nói cho cùng, đó chỉ là một tiểu tiết. Cái quan trọng là có án mạng và có sát nhân. Đó là tất cả những gì các quan tòa quan tâm.” Anh ta dừng một chút. “Còn bây giờ xin hai người cho biết tên họ đầy đủ và địa chỉ để tôi đưa vào hồ sơ.”
Ông Crowe cung cấp các thông tin, Coleman chăm chú ghi vào sổ. Nhìn theo cái cách viên hạ sĩ này để tay trên bàn, chân dợm đứng dậy, Sherlock biết rằng buổi thẩm vấn sắp xong. Cậu có cảm tưởng như thể mình đang đi tàu hỏa, và khi tàu đã đi vào đường ray qui định, thì lúc này không còn cách nào để dừng và rẽ sang hướng khác.
“Chúng tôi có thể gặp anh Mycroft không?” cậu buột miệng. “Chỉ vài phút thôi?”
Viên hạ sĩ Coleman tỏ vẻ lưỡng lự.
“Có chết ai đâu?” Ông Crowe lên tiếng nhẹ nhàng. “Dù thế nào đi nữa, họ là anh em. Biết đâu khi gặp được em mình thì tù nhân của anh lại dễ bảo hơn. Có nhiều khả năng tự thú hơn.”
Sherlock liếc nhìn ông Crowe, kinh ngạc, nhưng người Mỹ đồ sộ này đã lén nháy mắt với cậu, không để cho Coleman thấy.
Tay cảnh sát suy nghĩ một hồi, lộ vẻ bất đắc dĩ. “Thôi được,” cuối cùng anh ta cũng miễn cưỡng. “Tôi cũng nghĩ chẳng hại gì.”
Anh ta tiến về phía cánh cửa, mở ra. Một viên cảnh sát, người đã hộ tống họ từ chỗ câu lạc bộ Diogens, đang đứng gác phía bên ngoài.
“Dẫn hai người này đi gặp bị cáo,” Coleman ra lệnh. “Chỉ cho họ gặp mười phút thôi, rồi dẫn họ ra cửa trước.” Anh ta quay lại nhìn ông Crowe và Sherlock. “Tôi không muốn làm mất thì giờ của quí ông. Đây chỉ là chuyện không may, nhưng xin nhớ cho là nếu không có người phạm tội thì chúng tôi cũng chẳng có việc gì để làm, tôi chỉ có nước về nhà nối nghiệp cha tôi chăm sóc cửa hàng buôn bán kim chỉ của gia đình.”
Coleman bỏ đi, còn viên cảnh sát ra hiệu cho hai người đi theo mình. Anh ta dẫn cả hai quay lại đi xuyên qua nhiều lối vòng vèo như mê cung, xuống nhiều cầu thang đến tầng hầm, xung quanh là tường gạch không tô và trên sàn gạch ánh lên mấy vũng nước đen ngòm. Dọc suốt chiều dài hành lang là một loạt các cánh cửa sắt. Đi được một phần ba hành lang, viên cảnh sát dẫn họ đến một cánh cửa, rồi móc ở thắt lưng ra một xâu chìa khóa, chọn một cái để mở cửa phòng. Anh ta ra hiệu cho họ đi vào trong. “Chỉ được mười phút thôi, không thêm một giây. Tôi đứng bên ngoài đây để canh chừng nếu có sự cố.”
Ông Crowe ra hiệu cho Sherlock đi vào trước rồi theo sau.
Mycroft đang ngồi thẳng lưng trên một chiếc ghế dài kê dọc theo vách, hai bàn tay đặt trên đùi. Hai mắt nhắm nghiền, nhưng khi Sherlock bước vào, anh mở mắt ra và ngước lên nhìn. Căn phòng lấy ánh sáng từ một khe hở hẹp có chắn song và lợp kính trên bức tường xa xa mà có lẽ hướng ra đường. Phòng giam quá nhỏ cho ba người. Chẳng có chỗ nào để cho Sherlock và Crowe ngồi nên họ đứng luôn.
“Cám ơn hai người đến thăm,” Mycroft lên tiếng. “Xin lỗi vì hoàn cảnh bất tiện này.”
Ông Crowe nhìn quanh rồi lên tiếng. “Cũng khá ấm cúng.
Hồi tôi đi tàu từ Mỹ sang Anh tình cảnh còn tệ hơn nữa.”
“Đúng thế,” Mycroft xác nhận, “nhưng anh còn có cơ hội đi xuống khi tàu cập bến.”
“Một nhận định đúng,” ông Crowe ghi nhận, “nhưng ít ra anh không phải trả tiền chỗ ở này. Tôi phải trả tiền đấy.”
“Hai người thôi được không!” Sherlock chen ngang. “Chuyện này nghiêm trọng đó.”
Mycroft gật đầu. “Anh hiểu. Anh chỉ muốn làm cho tình hình bớt nghiêm trọng thôi mà.”
“Giờ thì anh thấy thế nào?” Sherlock hỏi.
“Đầu nặng như búa bổ, anh thấy người như mụ đi. Có lẽ do choáng khi bị mấy tay cảnh sát bự con lôi qua nhiều con phố.” Anh nhún vai. “Chẳng mấy khi anh bước một trăm thước quá câu lạc bộ Diogenes. Chỗ làm việc và chỗ ở của anh đều ở gần đó thôi.” Anh liếc nhìn Crowe. “Ông có nghĩ thêm được điều gì về vụ án mạng không? Tôi nghĩ đến bảy giả thuyết khác nhau nhưng thiếu chứng cứ để tách bạch chúng.”
Sherlock cau mày. Đến bảy giả thuyết ư? Còn mình một cái cũng chẳng có.
“Người đàn ông đến gặp anh có mang một cái hộp.” Ông Crowe lên tiếng.
“Tôi nhớ ra rồi”.
“Cái hộp này bên trong lót vải. Có chứa 2 món đồ. Ít nhất một trong hai thứ bị ẩm nước – hoặc ít nhất thứ này cũng để lại dấu vết là chất lỏng.”
Myroft nhăn trán lại. “Thứ chất lỏng này có mùi gì đặc biệt không? Có dính vào da không?”
Crowe lắc đầu. “Chỉ ngửi có mùi nước.”
“Thế trên sàn nhà có vũng chất lỏng gì không?”
“Có đấy, Sherlock tìm thấy một vũng.”
“Thông tin có ích đây,” Mycroft gật đầu, “điều đó thu hẹp đáp án vào một khả năng.”
“Đúng thế,” Crowe tán đồng, “nhưng bằng chứng lại biến mất.”
Sherlock cảm thấy hai tay mình siết chặt lại thành nắm đấm. “Hai người đang nói cái quái quỉ gì thế? Đáp án gì?”
Hai người đàn ông đưa mắt nhìn nhau. Rồi Mycroft ra hiệu nhờ Crowe giải thích.
“Cứ cho là không thể có người khác trong phòng,” ông Crowe bắt đầu. “Phòng không có cửa sổ, không có chỗ nào để nấp, mà chúng ta cũng chẳng thấy ai khi cậu Holmes ra mở cửa.”
“Đồng ý,” Sherlock nói.
“Mà cậu Holmes cũng không giết người đàn ông đó.”
“Đương nhiên là không rồi.”
“Thế thì anh ta tự sát.”
Sherlock cảm thấy như chỗ đất mình đang đứng bỗng nhiên sụt xuống. “Anh ta làm gì?”
“Anh ta tự giết mình. Có hai người trong phòng, một người bị giết, còn người kia ta đã biết là không hề giết anh ta. Như vậy, chính anh ta tự giết mình.”
“Nhưng mà…” giọng Sherlock lạc đi một lúc. “Nhưng mà anh Mycroft lại đang cầm con dao đó”.
“Anh ta đang cầm một con dao.” Crowe chỉnh. “Nạn nhân bước vào phòng mang theo một cái hộp bên trong chứa hai món đồ vật. Một thứ là con dao mà ta bắt gặp anh cậu đang cầm. Không có vết máu trên con dao, bởi vì đây không phải là con dao làm anh ta chết.”
“Nhưng mà có con dao nào khác đâu!” Sherlock chống chế.
“Nhưng,” Mycroft ngắt lời, “có một chỗ ẩm trong chiếc hộp và một chỗ ẩm trên tấm thảm.”
Crowe liếc mắt nhìn Mycroft, anh nhún vai.
“Tôi xin lỗi,” Mycroft nói thêm, “Tôi không thể không chen ngang.” Anh ta nhìn lại về phía Sherlock. “Giờ nói anh nghe, chỗ ẩm trên tấm thảm có còn lạnh không?”
“Còn lạnh,” Sherlock nhớ lại, rồi cậu hiểu ra. “Nước đá?”
Cậu kêu lên. “Con dao được làm bằng nước đá?”
“Rõ như ban ngày,” Crowe nói. “Món đồ thứ hai nằm trong chiếc hộp là một con dao làm bằng nước đá. Miếng lót là để cho nước đá khỏi tan, mặt dù nước có thấm qua lớp lụa satanh. Chắc hẳn là chiếc hộp đã được giữ lạnh trước khi đem ra dùng, để tránh làm cho con dao tan ra nước.”
“Người khách này đã làm cho tôi mất khả năng kháng cự,” Mycroft khẳng định.
“Bằng cách nào, hồi sau chúng ta xem xét tiếp. Sau khi làm cho tôi bất tỉnh, anh ta đặt con dao thật vào tay tôi. Sau đó anh ta ngồi xuống và lấy con dao bằng nước đá đâm vào chính mình. Còn chút sức tàn, anh ta rút con dao nước đá ra khỏi lồng ngực và ném xuống sàn ở cái chỗ mà ta thấy nó tan ra vì nhiệt độ trong phòng.”
“Cũng có rủi ro là anh ta chết nhanh quá không kịp rút con dao ra,” Crowe chỉ ra, “nhưng trong trường hợp này, chút hơi ấm còn sót lại trên cái xác lạnh dần của anh ta cũng đủ làm cho nước đá tan đi.”
“Nhưng tại sao phải dùng đến hai con dao?” Sherlock phản biện. “Tại sao anh ta không đâm một nhát bằng con dao thật rồi cứ để nguyên tại chỗ?”
Crowe liếc nhìn Mycroft đầy thông cảm. “Kẻ bày ra trò ma mãnh này đã muốn cho cậu Holmes không còn đường cựa quậy. Nếu cậu Holmes bị phát hiện ở trong phòng có một xác chết, mà trên ngực lại có con dao, thì cậu ta có thể khai là đã thấy nó nằm ở đó, và định kêu lên tìm người giúp đỡ. Nhưng khi cậu Holmes bị phát hiện tay đang cầm một con dao, còn tại vết thương thì không có con dao nào, thì làm sao mà giải thích cho người ta tin được.”
“Một sự sắp xếp tinh vi,” Mycroft thừa nhận. “Tôi hoàn toàn nể phục tay nào đã nghĩ ra kịch bản này.”
“Thế thì vì sao người đó lại tự giết mình?” Sherlock cáu tiết hỏi. “Lý do gì mới được chứ?”
“Đó chỉ là suy đoán của chúng ta mà thôi,” Crowe nói, “nhưng tôi cho rằng con người này trông vẻ rất bệnh hoạn. Anh ta xanh xao gầy ốm, phải đi khám bệnh. Giả sử rằng anh ta không có tiền, lại sắp chết vì bệnh lao hoặc ung thư gì đó chẳng hạn. Lại giả sử rằng có một người nào đó mà hiện nay ta chưa biết tìm gặp anh ta đề nghị một thỏa thuận. Người giấu mặt này trả cho gia đình anh ta một món tiền lớn nếu anh ta đồng ý chết trước vài tuần bằng cách tự sát để phục vụ cho mục đích của hắn. Con người sắp chết kia đồng ý, và được cấp cho một bộ cánh tử tế, một cái hộp chứa một con dao thật và một con dao nước đá, kèm theo các chỉ dẫn phải làm gì.”
“Một câu hỏi đặt ra là,” Mycroft ngắt lời, “bằng cách nào mà anh ta làm cho tôi bị mê đi để có thể đặt con dao vào tay tôi.”
“Anh nhớ được những gì?” Crowe hỏi.
Mycroft nhắm mắt lại cố nhớ. “Anh ta đi vô phòng, đặt chiếc hộp lên trên bàn. Anh ta lên cơn ho. Tôi hỏi thăm có thể giúp được gì không. Anh ta bảo không, nhưng nói thêm rằng anh ta có mang theo một thứ thuốc giúp cho mình thở dễ dàng hơn. Anh ta cho tay vào áo khoác và lấy ra một chiếc lọ con. Chiếc lọ này có cái nắp khá lạ, giống như là một cái nút bấm hơn là nắp đậy. Anh ta nhờ tôi giúp một tay. Tôi bước đến gần anh ta và rồi… không biết gì cả. Sau đó tôi nhớ là có nghe tiếng hai người gõ cửa.” Anh ta dừng một chút, rồi nói tiếp. “À về cái mùi. Tôi nhớ là có cái mùi. Rất nặng, rất gắt.”
“Tôi dám cá rằng,” ông Crowe nói, “cái chai đó thực ra là một chai thuốc xịt chứa dung dịch cồn thuốc phiện. Hắn ta xịt dung dịch này vào mặt anh, làm cho anh bị mê đi một lát. Anh không nhớ gì hết là do bị đánh thuốc mê theo kiểu này. Nhờ đó anh ta có đủ thời gian để dàn cảnh.”
Dung dịch cồn thuốc phiện, còn gọi là dung dịch cồn laudanum - là thứ mà Bá tước Maupertuis đã dùng để làm cho Sherlock bị mê đi khi bắt cóc cậu từ Anh đem sang Pháp. Sherlock còn nhớ lại cái cảm giác bất tỉnh mê mệt, những giấc mơ và sự mất trí nhớ khi mình bị đánh thuốc. Một cảm giác lạ, nhưng dễ chịu, cảm giác hơi rã rượi. Cậu lắc đầu để xua đi những kí ức đó. Không có thời gian để hồi tưởng nữa.
Ông Crowe tiếp tục: “Nếu thứ này bị cảnh sát hoặc bác sĩ pháp y tìm thấy, thì họ sẽ cho rằng anh ta chỉ mang theo để chữa bệnh. Chẳng hạn như làm dịu bớt cơn đau do chứng bệnh đang làm cho anh ta chết mòn.”
“Thế thì lọ thuốc đâu rồi?” Mycroft hỏi.
“Sherlock cầm rồi.” Crowe nhún vai. “Còn hơn là để cho cảnh sát làm mất.”
Mycroft gật đầu. Anh suy nghĩ trong giây lát. “Một lọ thuốc xịt có thể làm cho người ta mất tri giác tạm thời. Thú vị thật. Tôi có thể thấy những cách sử dụng chính thức và không chính thức thứ này.”
“Được rồi.” Sherlock ngần ngừ, cố sắp xếp lại dòng tư tưởng. “Ta đã biết cách thức họ thực hiện rồi. Ta có một lý thuyết phù hợp với tất cả các sự kiện. Câu hỏi là: Tại sao? Tại sao phải làm vậy?”
Mycroft nhún vai. “Về điểm này mà nói, thì anh có tham gia nhiều cuộc thương lượng đầy khó khăn với các chính phủ nước ngoài. Có lẽ có chính phủ nào đó muốn loại anh ra trong một thời gian để có lợi cho họ. Ngoài ra, trong quá khứ công việc của anh làm nhiều khi lại dẫn đến việc ký kết hiệp ước với nước này mà lại không kí với nước khác. Có lẽ những nước đó phản đối các hành động của anh và muốn trả thù.” Một ý nghĩ như lóe lên trong đầu anh. Theo những gì biểu lộ trên nét mặt thì đó là một ý nghĩ cực quan trọng.
“Ngoại trừ…”
“Ngoại trừ cái gì?” Ông Crowe hỏi.
Thay vì trả lời, Mycroft cho tay vào trong áo khoác. “Tôi còn giữ tấm thiếp mà người chết đưa cho Brinnell. Có mấy chữ viết trên ấy. Mấy chữ này khiến cho tôi phải tiếp anh ta.”
Mycroft lấy ra một tấm danh thiếp để ở túi trong. “John Robertshaw,” anh đọc lên, “cùng với địa chỉ tại khu Chelsea – Đường Glassblowes. Có thể đây là địa chỉ giả, chỉ để làm cho tấm thiếp có vẻ đúng cách thôi.”
“Nhưng ta cũng nên kiểm tra lại,” ông Crowe nêu ý kiến.
“Đúng vậy. Tôi không muốn bỏ đi một manh mối nào vì sơ suất.” Anh xoay tấm thiếp lại. “Có tên tôi, chữ viết tay, để cho Brinnell biết là anh ta cần gặp ai. Và ba chữ khác.” Anh ngước mắt lên nhìn Sherlock. Bốn ánh mắt chạm nhau. “Viện Paradol,” anh nói, giọng nghiêm trọng.
Sửng sốt. Đầu Sherlock thoáng nhớ lại thời gian cậu bị Bá tước Maupertuis bắt giữ. Bá tước có nhắc tới Viện Paradol. Ông ta không nói đó là cái gì, nhưng lại ám chỉ như thể đó là cơ quan ông ta làm việc cho họ, hoặc phải báo cáo cho họ.
Như thể đó là một điều đầy quan trọng và bí mật.
“Giờ thì tôi nhớ ra rồi,” Mycroft tiếp tục. “Khi thấy những chữ này, và nhớ là em đã từng nói Bá tước Maupertuis có đề cập đến chúng, anh gọi Brinnell dẫn anh ta vào để hỏi cho ra lẽ. Nhưng tấm thiếp này là một cái mồi nhử trong một cái bẫy.”
“Và rồi anh đã mắc bẫy,” ông Crowe khẽ khàng nhận xét. “Chính tại chỗ của tôi,” Mycroft chống chế, “lúc tôi đang ở một nơi quen thuộc, và không hề mong chờ sự gây hấn nào cả.”
“Thế mà có đấy,” ông Crowe khoát mạnh tay. “Không sao cả. Ta phải tiếp tục hành động thôi. Tôi sẽ tìm cho anh một luật sư tin cậy. Sherlock, cháu còn giữ tên và địa chỉ của luật sư mà người hầu bàn đưa cho khi ở câu lạc bộ Diogenes không?”
Sherlock gật đầu và đưa ra mảnh giấy cậu còn giữ trong túi áo.
“Và Sherlock này,” ông Crowe tiếp tục, “cháu sẽ tìm hiểu thêm về tấm danh thiếp này.” Crowe đưa cho Sherlock tấm thiếp mà Mycroft tìm thấy trong áo khoác. Sherlock lật ngược tấm danh thiếp, rùng mình khi đọc lên những dòng chữ hắc ám Viện Paradol.
“Cháu phải làm như thế nào đây?” Sherlock hỏi.
“Hãy ngửi xem tấm thiếp có mùi gì,” ông Crowe chỉ dẫn.
Sherlock đưa tấm thiếp lên mũi. Có một mùi hăng nhè nhẹ nhưng còn nhận ra được. Cậu lên tiếng. “Cái gì thế ạ?”
“Mực in đấy,” Crowe trả lời. “Tấm thiếp này mới in, có lẽ là chỉ in có một cái để giúp cho người đàn ông lọt vào câu lạc bộ. Xét cho cùng, thì không có câu lạc bộ danh giá nào lại tiếp một người đến mà không có danh thiếp. Căn cứ theo địa vị xã hội, thì anh ta chưa bao giờ có đến một tờ danh thiếp, và ông chủ giấu mặt của anh ta thì không thể giao cho anh ta danh thiếp của chính mình. Không, tấm danh thiếp này mới in đây thôi, tức là in ở gần đâu đây.” Ông quay sang anh của Sherlock. “Anh Holmes, trong khu vực này có bao nhiêu nhà in?”
Mycroft suy nghĩ một chút. “Tôi có thể nhớ được bốn cái, tất cả đều nằm ở khu vực đường Chancery. Tôi có địa chỉ đây.” Anh lấy trong túi ra giấy bút và bắt đầu viết.
“Hãy đi kiểm tra từng nhà in một,” ông Crowe bảo Sherlock. “Hỏi xem họ có nhận ra tấm thiếp này không. Hỏi xem họ biết gì về người đã đặt in thiếp này.”
“Vâng.”
“Hai giờ nữa thì quay lại gặp chú bên ngoài khách sạn Sarbonnier. Cháu còn nhớ chỗ đó không?”
“Chỗ mà lần trước chúng ta nghỉ tại London à? Vâng, cháu nhớ rồi.”
“Thế thì tốt.”
Cánh cửa bật ra khi ông Crowe đang nói dở dang. “Hết giờ rồi,” viên cảnh sát lên tiếng. “Mời quí ông đi thôi.”
“Mycroft, đừng lo lắng nhé, chúng tôi sẽ đưa anh ra khỏi nơi này.” Ông Crowe nói.
“Tôi chỉ mong sẽ ra khỏi đây trước bữa ăn tối,” Mycroft cười giọng mệt mỏi. “Buổi cơm trưa đi tong rồi, nhưng cũng không chắc là thức ăn ở đây có hợp khẩu vị của tôi hay không.”
Anh ta chìa tay cho Sherlock nói. “Cố đừng nghĩ đến anh trong tình trạng này.”
“Dù ở đây, ở câu lạc bộ, hay bất cứ nơi đâu,” Sherlock vừa cầm tay Mycroft vừa nói, “anh là anh trai của em. Anh đã lo cho em. Giờ là lúc em phải lo cho anh - nếu em có thể làm được.”
“Em làm được,” Mycoft nói. “Và em sẽ làm được. Anh biết là khi em đã quyết làm việc gì, thì việc đó phải xong. Đây là tính cách mà anh em ta thừa hưởng từ cha chúng ta.”
Viên cảnh sát hắng giọng, Sherlock đành bước theo Amyus Crowe ra khỏi phòng giam.
Tiếng cửa sập mạnh đằng sau lưng khiến cho tim Sherlock thắt lại. Cậu ghét khi phải nghĩ đến những gì mà Mycroft phải chịu đựng khi nghe thứ tiếng động này.
“Giờ thì chúng ta đi đâu?” cậu lên tiếng hỏi khi họ ra ngoài hít thở không khí trong lành tại công viên Covent.
“Cháu đi tới đường Chancery Lane, tức là theo hướng này.” Crowe giơ tay chỉ đại khái. “Còn chú…” ông nhìn lại tấm danh thiếp, “đến đường Glassblowers, khu Chelsea. Ta sẽ gặp nhau sau.”
Crowe quay lưng lại và sải chân bước về phía trước không hề ngoái lại, để Sherlock ở lại nhìn theo với lòng đầy bất an. Cậu lại một mình đơn độc tại London. Và không thể không nhớ đến những gì đã xảy ra trong lần trước.
Cuối cùng cậu cũng quay lưng, bắt đầu đi theo hướng mà Crowe đã chỉ. Cậu đi qua những quán rượu, cửa hàng, các quầy bán hàng trong chợ và người bán hàng rong đứng ở các góc đường. Đủ các hạng người – từ người sang trọng quần áo bảnh bao đến lũ nhóc rách rưới. Quả thật London là nơi tụ tập của tất cả các thành phần trong xã hội.
Cậu định hỏi thăm đường đến Chancery Lane thì chợt để ý một bảng hiệu bên hông một con đường mà mình vừa đi. Cậu quay lại. Khu vực này có vẻ trong lành hơn khu vực cậu vừa đi qua: căn cứ theo những tấm bảng đồng gắn trên các tòa nhà cho thấy con phố này chủ yếu là văn phòng của các luật sư, thỉnh thoảng có xen kẽ một phòng mạch khám bệnh.
Chừng năm phút sau cậu gặp cái nhà in đầu tiên. Đến giờ cậu mới hiểu được ý nghĩa của địa điểm này: rõ ràng là các luật sư và trạng sư ở khu vực này cần nhiều đến dịch vụ in ấn. Hồi hộp, cậu đẩy mạnh cửa bước vào.
Bên trong nồng nặc một thứ mùi mà cậu đã ngửi được từ tấm danh thiếp: một thứ mùi vừa khô, vừa mốc và cay xộc vào mũi. Đó là chưa kể đến tiếng ồn. Tiếng lách cách ồn ào của nhiều máy in ở phía sau làm cho cậu hầu như không nghe được tiếng mình nói: “Làm ơn cho tôi hỏi thăm!”
Một người đàn ông quay lại nhìn Sherlock. Ông ta mặt áo sơ mi trần nhưng lại đội mũ quả dưa, có một bộ râu rậm rạp không chỉ che mất cái miệng mà còn phủ luôn cả cằm.
“Không có việc làm ở đây đâu,” ông ta cất tiếng, “đã có đủ thợ in rồi. Đi ngay cho.”
“Tôi chỉ muốn hỏi một câu thôi,” Sherlock nói.
Người đàn ông nhìn trừng trừng, tỏ vẻ nghi ngờ. “Cái gì?” Sherlock đưa ra chiếc danh thiếp. “Ông có in cái này không?”
Ông ta lật qua lật lại xem kỹ càng. “Không hề. Giờ thì xéo đi.”
Sherlock quay lưng đi khi người đàn ông trở lại công việc. Nếu nhà in nào cũng thô bạo như thế này thì cậu có thể hoàn tất công việc chỉ trong vòng vài phút, và sẽ không biết làm gì trong suốt thời gian còn lại chờ gặp Amyus Crowe.
Nhà in thứ hai thân thiện hơn. Lần này Sherlock có thể nhìn vào bên trong cửa hiệu, nơi có mấy cậu con trai tuổi còn nhỏ hơn Sherlock đang dùng hết sức nặng cơ thể quay đẩy mấy chiếc tay cầm của những ống đồng lớn có khắc các con chữ nhỏ xíu trên bề mặt kim loại. Mấy cái ống ép mạnh vào các băng giấy bên dưới, khi băng giấy kéo qua, chữ sẽ được in trên giấy. Bọn nhóc đứa nào cũng dính mực, trên da đầy những mảng trắng đen loang lổ.
Sherlock lập lại cùng câu hỏi, cũng đưa ra tấm danh thiếp đó, nhưng tiệm này cũng không in mặc dù ông chủ luôn tươi cười và cố gắng giúp đỡ.
Sherlock gặp may mắn với nhà in thứ ba.
Người đàn ông này gầy cao lêu nghêu, có bộ tóc mai màu hung phủ như một dải ruy-băng trên hai gò má gầy gò. Khi nhìn ông ta, Sherlock nhớ đến những gì mà Amyus Crowe đã chỉ dạy trên tàu lửa là mỗi người đều mang dấu ấn nghề nghiệp của mình, Sherlock bắt đầu nghĩ đến những đặc điểm của một người thợ in: mực in ăn sâu vào mặt dưới của móng tay, những gờ chai da trên đầu ngón tay do nhiều năm dùng móng tay cạy con chữ kim loại ra khỏi máy in, những vết đứt trên lòng bàn tay do băng giấy chạy nhanh qua cắt phải. Tất cả những dấu vết đó đều hiện diện trên con người mà Sherlock muốn gặp.
“Ồ vâng,” ông ta gật đầu nói. “Tôi nhớ ra cái này rồi. Một yêu cầu kỳ lạ. Bình thường thì người ta đặt in bốn năm trăm cái, để gởi lại cho người cần gặp, đúng không? Ý tôi là cậu chẳng khi nào đưa danh thiếp ra xong sau đó lại thu về. Nhưng kẻ này chỉ muốn in độc nhất một chiếc. Anh ta đưa cho tôi một mẩu giấy nhỏ với mấy chữ nguệch ngoạc.” Ông ta nhún vai. “Thế là tôi mở máy lên và chỉ in đúng một chiếc. Tôi cũng đã bảo anh ta là nếu có in đến một trăm chiếc cũng chỉ tốn có một bảng, nhưng anh ta từ chối.” Ông ta suy nghĩ một lát. “Thực ra, anh ta cũng không nói không – mà anh ta đi ra ngoài để trao đổi với một tay khác và sau đó quay vào nói không cần.”
“Còn người kia - ông tả sơ qua được không ạ?”
“Gã này không mấy xa lạ,” người thợ in nói, “nhưng tôi nhận ra hắn ta. Còn hắn không biết tôi. Chẳng ai thèm nhớ đến những người phục vụ họ cả.”
“Còn cháu, cháu sẽ nhớ,” Sherlock hứa hẹn.
“Thế thì cậu tốt hơn những người kia. Lúc trước tôi làm cho một nhà in ở dưới đường Drury Lane trước khi dời về đây.Tôi từng in nhiều thứ cho các nhà hát: nào là chương trình, tuồng kịch, áp phích quảng cáo – đại loại những thứ như thế. Gã này – tay đứng ở phía ngoài ấy – thỉnh thoảng cũng có đến đấy. Hắn có dây mơ rễ má với một quán rượu gần đây. Hắn bảo vệ quán, có nhiệm vụ tống ra khỏi quán người nào quá say xỉn, không trả được tiền rượu hoặc muốn gây ẩu đả. Quán Shaftesbury thì phải. Tôi thường in cho họ nào là thực đơn, áp phích quảng cáo cùng với nhiều thứ khác.”
“Ông tả qua hắn ta được không?” Sherlock nín thở hỏi.
Người thợ in nhún vai. “Nhỏ con, trông như giống chó đua. Tóc dài và bết lại. Râu đen. Mặc một chiếc áo khoác sờn cũ. Kiểu mà người ta gọi là áo lông asktrakhan. Không nhớ được tên hắn.”
“Cám ơn ông,” Sherlock nói. “Nếu khi nào cần in cái gì, cháu sẽ nhớ đến ông.”
Lòng đầy phấn chấn, cậu bước đi. Nhìn đồng hồ, Sherlock thấy còn đến một tiếng rưỡi nữa mới đến hẹn gặp ông Amyus Crowe. Còn đủ thời gian để kiểm tra quán rượu Shaftebury không nhỉ? Làm vậy, ít nhất cậu cũng có thể nói cho Crowe biết ai là người đã thuê người đàn ông đến gặp Mycroft, và còn theo dõi được anh ta nữa.
Sherlock hỏi thăm một phụ nữ đi ngang đường Drury ở chỗ nào, rồi đi theo hướng đó. Chỉ mất có mười phút.
Hai bên đường Drury là các rạp hát và quán rượu. Một số nhà hát rõ ràng là các phòng ca nhạc, nơi trình diễn nhiều chương trình tạp kỹ như nhào lộn, hát và ảo thuật trốn thoát. Một số nhà hát cao cấp hơn, trình bày các vở kịch cổ điển. Một số nhà hát khác dành cho các nhạc sĩ độc tấu, và Sherlock chợt nhớ việc học vĩ cầm khi thấy một phụ nữ tên Wilma Norman-Neruda (một nữ nhạc công vĩ cầm cơ đấy!) trình diễn tại một trong những nhà hát đó.
Sherlock phát hiện quán Shaftebury ở nửa đường phía dưới. Quán này sát bên hông một nhà hát đang quảng cáo một vở giao hưởng hài kịch của F. C. Burnand and A. Sullivan mang tên Thuyền trưởng và Chiếc hộp. Nghe không được lôi cuốn lắm.
Sherlock ngồi xuống bậu cửa một quán rượu nằm ở bên kia đường và chờ đợi. Cậu ngồi sụp xuống, đầu ngoẹo sang một bên dựa vào khung cửa ra vẻ như đang ngủ, nhưng thực ra cậu đang căng mắt để trông chừng sự xuất hiện của người đàn ông nhỏ con tóc dài bết lại thành lọn.
Khoảng chừng bốn mươi lăm phút sau, trước quán rượu, một người đàn ông đúng như những gì mà Sherlock được mô tả ở đường Shaftebury xuất hiện. Gã này ăn mặc y như người thợ in đã phác họa. Gãta nhìn trước nhìn sau con đường, sau đó rẽ sang phía tay phải.
Sherlock đi theo. Có lẽ người này sẽ dẫn Sherlock tới nơi hắn ở. Như thế cũng sẽ có cái gì đó để báo cáo cho Amyus Crowe!
Người đàn ông dẫn Sherlock đi dọc theo đường Drury, băng ngang qua chỗ gọi là Ngã Bảy rồi sau đó đi dọc theo Quảng trường Trafalgar. Sherlock đã bắt đầu biết chút ít về London và cậu cố ghi nhớ được càng nhiều càng tốt. Khi đến quãng trường Trafalgar gã rẽ trái, lướt qua mặt tiền lộng lẫy của nhà ga Charing Cross và khách sạn Charing Cross. Gã rảo bước nhanh, Sherlock phải tất bật mới theo kịp.
Đến đường Aldwych, gã ta rẽ phải, lúc này Sherlock nhận ra là gã hướng về phía sông Thames, vượt qua cầu Waterloo. Gã ngừng lại trước một trạm nhỏ ở chân cầu và đưa ra vài đồng xu. Sherlock tự hỏi không biết có nên tiếp tục đi theo hay quay về để gặp Amyus Crowe? Nhưng có gì để báo cáo cho Amyus Crowe đây? Báo rằng mình đã tìm thấy người đàn ông này sau đó lại để mất dấu? Không, cậu phải đi tiếp – ít nhất cũng qua phía đầu cầu bên kia để xem gã ta đi về hướng nào.
Sherlock mò trong túi để tìm mấy đồng xu lẻ. Giá qua cầu là một xu. Cậu trả tiền rồi lách qua người thu phí cầu, và cố đuổi kịp con mồi.
Gã nhỏ con này vẫn cứ lầm lũi đi mãi không hề ngó quanh quất trước sau.
Qua đầu cầu bên kia, gã đi về phía mà Sherlock nhận ra là nhà ga Waterloo, nhưng thay vì đi thẳng đến nhà ga, gã rẽ trái. Sherlock đi theo, cố núp đằng sau những người khác để phòng gã đột ngột quay lại.
Gã không quay lại, nhưng bất ngờ rẽ phải, đi vào một lối đi có mái vòm.
Khi Sherlock đi đến cổng lối đi, cậu dừng bước và nhìn vào mé bên trong của khung vòm bằng gạch đổ nát. Bên trong cổng tối om nên cậu không tài nào thấy được gã đàn ông nọ.
Sherlock bước lên một bước, rồi một bước nữa cho khi đến chỗ tranh tối tranh sáng. Không thấy tăm hơi của gã đâu cả.
Sherlock quay lại, định về gặp Amyus Crowe.
Gã đàn ông nhỏ thó, tóc dài bết lại thành lọn đang đứng ngay sau lưng cậu.
“Nãy giờ mày đi theo tao à,” gã nói. “Tao muốn nghe mày nói lý do. Rồi sau đó, chỉ để cho vui, tao muốn nghe tiếng mày khóc thét.”