CHƯƠNG 5
“Ông ơi, ông có một xu không?” Sherlock van vỉ, cố thu mình lại. “Tôi đói mấy ngày rồi. Chỉ xin ông một xu lẻ để mua bánh mì.”
“Mày đừng có chơi trò người bắt thỏ khờ với tao,” gã gầm lên. “Tao không mắc lừa đâu.”
“Được thôi,” Sherlcock đứng thẳng người lên, lấy lại giọng bình thường. “Thế thì người bắt thỏ khờ là gì?”
Gã nhe răng cười, khoe hàm răng sún đen. “Mày muốn biết con thỏ khờ là gì à? Thỏ khờ là một con thỏ được người ta nuôi để ăn thịt, vì vậy nó bị thuần hóa và không bỏ chạy khi bị tóm rồi vặn cổ. Người bắt thỏ khờ là người giả bộ đi bắt con thỏ khờ - để chuyện dễ trở thành khó.”
“Ồ, đó là một tên bịp,” Sherlock nói.
“Chính xác. Giờ dẹp chuyện này đi, tại sao mày theo đuôi tao?”
“Tôi không hề theo đuôi ông!” Sherlock chống chế.
Gã nhướng cao đôi mày rậm ri. “Nên nhớ, tao có thể nhìn thấu từng thớ giả tạo của mày, thằng nhãi con ạ. Mày bắt đầu theo tao ngay từ chỗ rạp hát, rồi bám tao đến tận đây. Điều tao muốn biết là tại sao?” Hắn ta nhìn Sherlock từ đầu đến chân. “Mày không phải là thằng giật dọc.” Hắn để ý đến biểu hiện tỏ vẻ không hiểu trên mặt Sherlock.
“Là đồ móc túi ấy,” gã giải thích. “Thế mày muốn tìm cái gì?”
“Tôi chẳng tìm gì cả.”
“Mày đã đi theo tao khắp cả London, đi ngang qua cầu Waterloo, đi cả vào đường hầm.”
“Chỉ là trùng hợp thôi,” Sherlock lên tiếng.
“Làm gì có chuyện đó hử.” Gã nhún vai. “Mày không cần phải nói, nếu mày không muốn. Bắt mày phun ra là chuyện dễ ợt. Mà tao thích thế. Cũng lâu rồi từ khi tao đập tan xác một thằng. Qui tắc của tao là làm việc gì cũng phải kín đáo. Mấy tuần rồi chưa thấy rượu vang đỏ, tao đang nhớ nó đây.”
“Rượu vang đỏ?” Sherlock lên tiếng hỏi mà biết rằng mình sẽ không thích nghe câu trả lời.
“Máu, máu đấy, con ạ.” Gã cho tay vào trong túi. Khi rút ra, trên tay gã có hai thứ đồ kim loại chạm nhau kêu xủng xẻng. “Tao chắc mười mươi là mày đang làm cho một băng nhóm nào ở quanh đây, bọn chúng muốn biết trong nhà hát xảy ra chuyện gì, hoặc là mày phát hiện có việc gì khác thường tại nhà hát và mày muốn tâu báo cho bọn cớm để lấy mấy đồng xu teng.” Gã thọc nhanh mấy ngón của bàn tay phải vào một trong hai món đồ kim khí. Sherlock thấy thứ này trông giống như một chuỗi vòng được kết lại với nhau, trên các khớp ngón tay tủa ra các gai nhọn. “Đằng nào đi nữa thì mày cũng phải trả giá cho cái tính tò mò này.” Gã tròng thứ đồ kim loại kia vào các ngón tay của bàn tay trái, rồi giơ cao tay lên để Sherlock nhìn thấy. Một tia sáng yếu ớt lóe lên từ các đầu đinh gai kim loại. Hai bàn tay của gã đã chuyển thành món vũ khí chết người mà chỉ cần để gần cũng có thể xé nát mặt Sherlock. “Nào, bắt đầu nào? Tao không rề rà đâu. Còn nhiều việc phải làm, nhiều người phải gặp lắm.”
Sherlock bắt đầu lùi lại, tim đập càng lúc càng nhanh. Gã ta đã chặn đường thoát ra khỏi cổng tò vò, nhưng chắc hẳn có một con đường khác, đâu đó phía sau lưng cậu, phía bóng tối. Sherlock phải tìm ra thôi.
Kẻ đối diện cười lạnh tanh, cho một tay vào túi áo, đinh gai trên quả đấm sắt cào vào lớp vải. Khi gã rút tay ra, giữa các ngón tay là một nắm xu bằng bạc.
“Thưởng nửa đồng crown cho đứa nào tóm được thằng nhóc này đầu tiên đem cho tao!” Gã gọi to. “Bọn mày có nghe rõ không? Bọn mày có thể sống như vua trong một tháng với món tiền này nếu muốn. Nửa đồng crown, gãy chân gãy tay cũng chẳng hề gì, chỉ cần nó còn miệng trả lời cho tao là được rồi.”
Bầu không khí xung quanh Sherlock hình như rung lên như thể nó cũng có sự sống riêng vậy. Lúc đầu cậu nghĩ chỉ có mình cậu và gã này trong khung vòm dưới chân cầu Waterloo, nhưng rồi sau đó bóng tối bắt đầu chuyển động, tách ra thành năm, sáu, mười khuôn mặt. Hình như chúng từ trong các bức tường bước ra và từ dưới nền đất lầy nhầy chui lên. Tất cả đều thấp bé – bé hơn Sherlock, bé hơn Matty bạn cậu – còn lớp da của chúng lộ ra qua lớp quần áo rách nát tả tơi, những mảng cáu ghét xám xịt lâu đời như ăn sâu vào da của chúng. Toàn là con nít. Lũ con nít sống dưới đường hầm, không cha mẹ, vất vơ vất vưởng cào bới trong đống rác để tìm những thứ khách bộ hành ở bên trên vất xuống. Mắt của chúng thao láo như lũ chuột, còn móng tay, móng chân dài nhọn cáu bẩn. Miệng mồm của chúng biến dạng: những cặp môi dộp, nứt nẻ, hở các nướu răng sưng phồng. Mấy chiếc răng còn sót lại đều đen nhẻm, lổm nhổm như các hòn núi cổ. Lũ trẻ thậm chí cũng không đứng thẳng được do nhiều năm bò lê qua các đường hầm chật hẹp, mò mẫm trong lớp bùn để tìm những đồng xu bị đánh rơi, thành ra chúng bị khòm lưng.Tay chân chúng khẳng khiu và vặn vẹo như cành cây, nhưng bụng ỏng ra một cách kỳ dị. Tóc chúng bê bết che đầy mặt. Sherlock không thể biết đứa nào là trai đứa nào là gái: đói ăn và cáu bẩn làm cho chúng trông giống hệt nhau. Còn mùi người nữa: lạy Chúa, mùi tanh tưởi, mùi thối rữa từ người chúng bốc ra nồng nặc đến mức Sherlock thấy không khí chung quanh chúng dường như dợn sóng. Cậu bước thụt lùi, tự hỏi, làm sao người ta có thể sống như thế này được. Khi chúng di chuyển về phía cậu, trong mắt chúng chỉ thấy cái đói cồn cào, ngoài ra không còn gì khác. Đối với bọn chúng, cậu chẳng là gì cả, chỉ là phương tiện để chúng kiếm một bữa ăn mà thôi.
Đầu óc của cậu di chuyển từ cực này sang cực khác. Trong khoảnh khắc này, bọn chúng là những quái vật, những sinh vật của bóng tối sẵn sàng lăn xả vào hạ gục cậu, để rồi ngay sau đó, bọn chúng chỉ là những đứa trẻ, chúng phải làm vậy chỉ vì quá đói. Xúc cảm của cậu lay động dữ dội giữa nỗi kinh khiếp và sự thông cảm. Làm sao mà người ta – làm sao mà lũ trẻ con - lại phải sống như vậy được? Như thế là k hông đúng.
“Mấy em không cần phải làm thế,” cậu lên tiếng, chân vẫn tiếp tục đi lùi. Lũ trẻ hoang dại ngẩng đầu lên khi nghe những lời này, nhưng Sherlock không chắc là bọn chúng hiểu được không. Mà nếu hiểu được, chúng cũng chẳng quan tâm. Những gì mà chúng biết là người đàn ông có râu kia sẽ trả nhiều tiền để chúng bắt Sherlock đem nộp, và nếu chúng phải bẻ gãy tay chân Sherlock để cậu khỏi trốn thoát thì cũng chỉ là việc mà chúng phải làm mà thôi.
Sherlock có cảm giác là chúng đã từng làm những chuyện tệ hơn thế nữa, ngay trong bóng tối kia.
Cậu quay lưng định chạy, nhưng đã có bốn – không, năm - đứa trẻ đứng ngay sau cậu. Chúng lặng lẽ chui ra từ bóng tối. Có một bàn tay bấu vào ống tay áo của Sherlock.
Cậu rùn người lại, giật ngược ống áo ra khỏi mấy ngón tay xương xẩu, nghe tiếng vải bị móng tay nhọn xé rách toạc. Cậu đã bị bao vây.
Qua ánh đèn hắt từ phía ngoài đường vào, Sherlock có thể nhìn thấy cái bóng kềnh càng của người đàn ông kia. Cả tiếng hắn cười nữa.
Tuyệt vọng, cậu cố hết sức nén nỗi kinh hoàng đang dâng lên trong lồng ngực. Cậu phải suy nghĩ, mà phải suy nghĩ thật nhanh.
Một bàn tay khác bấu vào cùi chỏ. Cậu hất mạnh nó ra. Làn da cậu vừa chạm phải có vẻ nhầy nhụa. Một cách vô thức, cậu đưa tay chùi vào áo khoác.
Trong nháy mắt chúng sẽ bu quanh cậu. Cậu nhìn quanh, cố tìm thứ gì đó, bất cứ thứ gì để thoát ra khỏi chỗ này.
Bức tường. Niềm hy vọng duy nhất của cậu là vòm tường nằm ở bên tay trái. Xung quanh cậu là lũ trẻ hoang dã, nhưng ngay phía bức tường thì không có đứa nào.
Cậu chạy về phía trước, nhảy lên khi còn cách bức tường vài bước. Hai chân cậu đạp cuống cuồng để tìm kẽ hở nơi gạch bị tróc đi, còn hai tay tìm cách bấu vào những hòn gạch nằm cao hơn ở phía trên. Cậu đu người lên, cảm thấy đầu mình như sắp đụng phần cong của mái tò vò. Cậu cố bò lên càng cao càng tốt. Sức nặng của thân thể trì cậu xuống. Phía bên dưới, lũ trẻ cũng đang bấu vào bức tường để đuổi theo, nhưng phần cong của mái vòm cho biết cậu đang ở gần chính tâm của đường hầm.
Cậu đạp mạnh chân vào tường để bật ra ngoài, nửa rơi, nửa nhảy vượt qua đầu lũ trẻ. Cậu chạm phải lớp đất nhão ở ngay giữa đường hầm, tuy lảo đảo nhưng đã lấy lại được thăng bằng. Trước khi những kẻ truy đuổi kịp nhận ra, thì cậu đã cắm đầu chạy biến vào bóng tối – là hướng duy nhất mà cậu có thể thoát.
Trong tích tắc, cậu bị bóng tối nuốt chửng. Cậu có thể nghe được tiếng chân trần giậm trên nền đất ẩm ướt xa xa đằng sau lưng. Lũ trẻ vẫn không bỏ cuộc.
Cậu chạy mãi, cố mong gặp may không húc phải tường của đường hầm. Không biết do mắt cậu giờ đây đã quen dần với bóng tối hoặc có chút ánh sáng từ đâu trên cao hắt xuống, hay có đám rêu mốc phát sáng nào đó bám vào vách đường hầm, nhưng cậu thấy mình có thể nhận ra đường gờ của các viên gạch khi chạy qua.
Cậu phát hiện ra đường cong của cổng tò vò thứ hai nằm ở một bên – một đường hầm khác nối với đường hầm mà cậu đang chạy qua. Sherlock rẽ sang đường hầm đó. Nếu có cơ may nào giúp cậu thoát được đám trẻ đang truy kích phía sau, thì đây là chỗ làm cho chúng lúng túng không biết cậu đã biến đi đâu. Nếu cứ tiếp tục chạy thẳng, chắc chắn chúng sẽ tóm được cậu, và khi đó… cậu không chắc liệu lời hứa thưởng đồng nửa crown có giúp cho chúng vượt qua được cơn đói ngay, hay chúng vẫn cứ muốn sục sạo lấy sạch mấy đồng xu cậu có trên người.
Một bức tường đen chắn ngang đường hầm, và Sherlock suýt đâm đầu vào bức tường đó. Nhờ mùi hôi thối đột ngột xộc lên trong không khí, cảnh báo cho cậu biết là phía trước đã bị chắn. Cậu đứng lại, đưa tay ra phía trước dò dẫm. Bước tường trước mặt cậu cao chừng năm tấc. Nếu không nhận ra đúng lúc, chắc hẳn cậu đã đụng đầu vào đó, bất tỉnh và trở thành mồi ngon cho đám trẻ hoang dại đang truy sát.
Có nên quay trở lại và tìm cách trốn thoát khỏi bọn chúng chăng?
Có một luồng gió thổi nhẹ trên mặt cậu, một làn hơi ấm và tù hãm, nhưng chắc chắn là luồng gió. Có lẽ đây không phải là đường cụt. Có lẽ đây là chỗ nối giữa phần cuối của đường hầm với một đường hầm khác.
Cậu rẽ sang trái và bắt đầu chạy, tay giơ về phía trước phòng khi đụng phải bức tường. Nhưng không có gì – đường hầm cứ mở ra phía trước đến nơi quái quỉ nào đó có luồng gió mà cậu không hề biết.
Một tiếng động bất ngờ như sấm dội phía trên đầu làm Sherlock chùn bước. Nó cứ ầm ầm như không bao giờ dứt. Những giọt nước nặng mùi từ trên nóc đường hầm rớt xuống trán cậu. Một chuyến tàu chăng? Có lẽ cậu đang đứng dưới đường tàu tỏa ra từ ga Waterloo.
Có lẽ đây là chuyến tàu chạy về Farham nơi có bạn bè của cậu. Liệu cậu có còn được gặp lại họ hay sẽ chết ở đây, trong bóng tối, và bị chôn vùi mãi mãi?
Cậu cảm thấy nghẹn thở. Nơi nào đó ở trên kia là thế giới bình yên, trật tự với những con người ăn mặc tươm tất, đi lại nhộn nhịp vì công việc. Ở phía trên là bầu trời xanh, những bức tường gạch vững chắc, các sàn nhà bằng đá cẩm thạch bóng loáng và ánh đèn hơi khí. Đó là thiên đường. Còn dưới đây là những khối gạch mục nát rỉ nước, với nền đất chỗ cứng chỗ mềm nhũn, quyện với mùi nồng nặc của những thứ cáu cặn, phân người, cây cỏ mục nát và những đứa trẻ khốn khổ không khác gì con vật. Nơi đây đúng là địa ngục.
Sherlock hầu như không bước nổi. Cậu muốn ngồi xuống, co người lại và mong giữ được đầu óc tỉnh táo không phải nghĩ đến cơn ác mộng này. Phải chăng đây là một cơn ác mộng? Không thể nào có một chỗ như thế này trong cái thế giới tươm tất trật tự mà cậu đang sống.
Nhưng đây là sự thật. Cậu biết đó là thật. Cậu không thể đầu hàng được. Cậu phải tìm một lối thoát.
Mycroft đang chờ đợi cậu.
Xa đằng trước cậu có thể thấy một luồng sáng từ trên rọi xuống vắt qua đường hầm. Có lẽ đây là một chút ánh sáng mặt trời yếu ớt chui qua khe gạch nứt nhưng với đôi mắt đã quen với bóng tối của cậu, nó trông giống như một chiếc cột bằng vàng. Cậu mò mẫm đi về phía đó, hy vọng là một khe nứt đủ lớn để cậu có thể bám vào và trèo lên phía nhà ga. Ở trên kia là sự an toàn và trật tự.
Nhưng không. Khe nứt chỉ đủ lớn để cậu đút mấy ngón tay vào, và chỗ ánh sáng thực ra chỉ là một chút le lói, lấp lánh qua dòng nước nhỏ rỉ từ trên cao xuống. Sherlock bực bội cào mạnh vào chỗ gạch, không ngừng hy vọng là mình có thể mở rộng được cái khe nứt. Lúc đầu chẳng hề hấn gì, nhưng sau đó lớp gạch vỡ vụn ra, rớt xuống sàn của đường hầm.
Bên dưới lớp gạch, cậu chợt thấy có gì đó động đậy: một thứ màu đen cứng mà lại lấp lánh. Cậu trố mắt nhìn, không hiểu chuyện quái quỉ gì đây, nhưng sau đó khựng lại vì kinh sợ khi nhận ra là mình đang nhìn thấy một đám bọ cánh cứng, hoặc là lũ gián đang cuống cuồng chạy trốn ánh sáng và không khí do cậu đã phá bỏ bức tường che sào huyệt của chúng. Trong nháy mắt chúng biến mất ngay, tất cả chỉ còn lại là một cái hõm xù xì. Sherlock nhìn quanh quất, ớn lạnh. Chẳng lẽ phía sau mỗi bức tường, hòn gạch nào trong đường hầm cũng là cảnh tương tự như thế? Chẳng lẽ có một thế giới thứ hai, khuất kín đầy những con dán không có mắt, sống trong các hang hốc, bới nhặt những thứ mà thậm chí lũ trẻ con hoang dã cũng vất đi?
Khi chăm chú lắng tai, cậu nghĩ mình đã nghe thấy tiếng lũ gián đang lặng lẽ di chuyển ở khắp xung quanh. Để bao vây. Chôn vùi cậu.
Ú ớ kêu lên với nỗi sợ hãi tột cùng, cậu bắt đầu bật chạy.
Nhưng xuống đường hầm chừng mười bước, có một cái gì từ bóng tối phía trên rớt xuống người cậu.
Sherlock kêu thét lên, hai tay cào vào cái thứ đang phủ trước mặt mình. Trong đầu cậu nghĩ đến một khối lúc nhúc những con bọ cánh cứng quấn vào nhau, hoặc có lẽ đó chỉ là một con gián khổng lồ to bằng đầu người, nhưng khi mấy ngón tay của cậu vồ trúng nó Sherlock mới nhận ra mình đang chạm phải một đống giẻ rách và lớp da xương xẩu. Một bàn tay cố tìm cách bấu vào cằm cậu. Một bé gái! Một trong những đứa bé hoang dã đang lùng sục tìm cậu trong đường hầm! Bằng cách nào đó nó đã vượt qua trước, dán chặt thân mình của nó vào các hốc gạch, chờ đợi nhào xuống người cậu phía bên dưới. Sherlock sờ đụng cổ nó, vừa đúng lúc cảm thấy cái miệng của nó với mấy cái răng còn sót lại, cố gắng ngoạm một miếng vào má cậu. Con bé vừa nhỏ con vừa yếu ớt, và dù bị nó bám chặt, cậu dùng bàn tay kia cố giật lấy cái chân, hoặc có lẽ là cái tay của nó. Cậu hơi chần chừ khi biết rằng đó là một đứa trẻ, một bé gái, và biết rằng người văn minh không làm hại đến trẻ con, phụ nữ, nhưng mà mấy ngón tay của nó cứ cào vào da cậu đau điếng. Sherlock không có lựa chọn nào khác. Cậu giật mạnh nó ra khỏi người mình và ném qua phía bên kia đường hầm. Người nó bay xuống lớp đất mềm nhoẹt rồi lăn ra xa. Qua chút ánh sáng nhá nhem trong đường hầm, cậu thấy mắt nó rực lên. Nó rít lên rồi lủi vào bóng tối nhưng cậu biết nó không đi xa. Nó chỉ quanh quất ở đây, rình chờ cơ hội.
Trong lòng Sherlock dấy lên sự thương cảm, và cậu cảm thấy se lại khi nghĩ đến Matty, đang vất vả mưu sinh, lúc nào cũng phải lo nghĩ đến việc kiếm từng bữa ăn. Cần phải có bao nhiêu bước để đẩy Matty đến một cuộc sống như thế này? Sherlock ngờ rằng cũng không nhiều lắm. Bọn chúng chỉ là trẻ con, trời ạ! Chúng không phải là lũ dơi hút máu!
Cậu tiếp tục di chuyển, tai vẫn còn nghe tiếng quờ quạng trong bóng tối của con bé đang theo đuôi cậu từng bước. Ở nơi nào đó đằng sau là tiếng kêu ư ử không thành lời của lũ trẻ còn lại đang lục lọi.
Trẻ con hay dơi hút máu, điều này không quan trọng. Cậu sắp chết đến nơi. Không tìm ra đường thoát. Cậu cảm thấy tim mình đập thình thịch trong lồng ngực, phổi không còn thở được, các bắp cơ ở chân thì như bốc lửa khi người cậu lảo đảo. Cậu không hề muốn thế.
“Một đồng farthing để đổi lấy mạng đi,” một giọng nói the thé rít lên ngay sau lưng cậu.
“Được rồi,”Sherlock thở một hơi dài. “Thì một đồng farthing vậy.”
“Phải đưa ra coi mới được,” giọng nói khăng khăng.
Sherlock thọc tay vào túi và móc ra một nắm các đồng xu lẻ. “Cho mày hết chỗ này nếu mày cứu tao ra được bên ngoài.”
Đứa bé đứng trong bóng tối cũng hít một hơi dài. “Chưa bao giờ thấy nhiều xu như thế này!” Nó thầm thì. “Chắc anh giàu lắm nhỉ.”
“Giàu cũng chẳng giúp gì nếu tao phải chết ở đây,” Sherlock lập bập nói, nghe ngóng những âm thanh đang mò mẫm trong bóng tối. “Mày đưa dùm tao về chỗ cũ đi!”
“Không làm được đâu. Bọn chúng đang rình chờ. Đi đường khác thôi.”
“Đường nào?” Sherlock nuốt nước bọt.
“Cứ theo tui.”
Một hình thù hiện ra sát bên Sherlock, như thể chui ra từ bức tường. Hình thù này - phải chăng là một thằng bé? - chỉ đứng tới ngực Sherlock, nhưng có cái gì đó trong mắt nó làm cho nó trở nên già hơn. Chắc hẳn thằng bé này đã thấy được những thứ mà Sherlock mong là mình không bao giờ phải nhìn thấy.
“Mày tên gì?” Sherlock lên tiếng hỏi khi thằng bé lẹ chân lủi nhanh như con cá lẩn vào bóng tối.
“Không có tên,” giọng nó thầm thì đáp trả.
“Ai mà không có tên.” Sherlock dấm dẳng.
“Dưới đây không cần. Tên chẳng được tích sự gì cả.”
Sherlock lờ mờ thấy thằng bé vừa rẽ sang phía bên, nó quay về phía bức tường vòm nơi cậu mới qua. Cậu bước về phía tường gạch. Có một lỗ hổng kéo dài từ dưới đất đến ngang đầu: không phải là một vết nứt, mà là một khoảng trống do con người tạo ra. Có lẽ chỗ này được dùng để thông gió hoặc dành cho mục đích gì đó. Sherlock nghe có tiếng cào nhẹ bên trong. Lấy hết can đảm, cậu bước theo.
Năm phút tiếp sau đó là quãng thời gian tồi tệ nhất mà Sherlock chưa từng trải qua. Bị ép chặt giữa hai bờ tường gạch thẳng đứng mục nát, ẩm ướt, cậu nghe thấy, hoặc có lẽ chỉ cảm nhận, lũ côn trùng đui mắt bò lúc nhúc qua các kẽ hở chỉ cách mặt cậu mấy phân, Sherlock càng lúc càng dấn sâu vào chốn chưa hề biết tới. Mặt và tay cậu bị lớp gạch xù xì cào rách. Tóc cậu dính đầy mạng nhện giăng tứ tung. Đủ thứ từ mạng nhện rơi xuống, chui vào cổ áo của cậu, và cậu phải dằn lòng lắm mới không phủi mạnh vào quần áo trên người để giết đi lũ côn trùng đang cuống cuồng tìm chỗ nấp. Thỉnh thoảng bàn tay lùng sục của cậu bỗng gặp phải một cái gì đó ẩm ướt rỉ ra từ bức tường gạch. Cậu nghĩ đó là nước, nhưng trong bóng tối cậu không thể nhìn ra đó là cái gì, và nếu là nước thì thứ nước này không giống với mùi nước cậu đã từng ngửi. Nó là một thứ nhớp nháp, nhầy nhụa, như thể cậu đang dấn sâu vào bên trong cổ họng của một con rồng khổng lồ cổ quái nào đó, và cái mà cậu cảm nhận là một thứ nước miếng ăn mòn. Cậu cảm thấy mặt đất – nếu quả là mặt đất mà không phải là lưỡi của con rồng - ở dưới chân cậu như nhão nhoét dưới mỗi bước chân, và Sherlock có một cảm giác khủng khiếp là nếu phải đứng lại cậu sẽ lún dần xuống vũng sình này, lún xuống đầu gối, xuống tới háng, rồi đến cổ và nếu chân không chạm phải thứ gì vững chắc thì đám bùn nhão nhoét kia sẽ chụp lên đầu cậu và sau đó chỉ có nước chết ngạt.
Dường như thằng bé hoang dã ở phía trước đang trèo hơn là đi. Ngón tay, ngón chân nó của nó bám vào các kẽ nứt trên tường gạch, nó di chuyển ở phía trên chứ không phải băng qua lớp bùn mỏng. Tiếng móng tay bấu sàn sạt vào lớp gạch làm cho Sherlock muốn kêu lên. Rõ ràng là thằng bé biết cách di chuyển trong đường hầm và khung vòm nhưng Sherlock thì không tài nào làm được.
Thình lình khoảng tường gạch thu hẹp dần đến mức Sherlock phải nghiêng người mới chui qua được. Ngực và lưng của cậu bị kẹt dính giữa khoảng tường chung quanh. Cậu dồn hết hơi thở ra để cho lồng ngực dẹp đi được chừng nào hay chừng ấy. Cậu cố lách người về phía trước càng xa càng tốt, nhưng cuối cùng một viên gạch lồi ra ấn mạnh vào xương sườn làm cho cậu không thể nào nhúc nhích.
Sherlock không thở được. Bằng mọi cách đều không ổn.
Cậu bị ép chặt đến nỗi không thể nào hít thở.
Một nỗi kinh hoàng dâng lên trong cậu, đen kịt và chua loét. Cậu cố lùi lại, nhưng có cái gì đó bên trong khe hở hẹp này đang thay đổi. Có lẽ khi cố lách người qua, cậu đã làm chuyển dịch một vài viên gạch. Không rõ đó là cái gì, nhưng khe hở ở phía sau cậu đã thực sự trở nên hẹp hơn sau khi cậu lách qua. Khi cố đưa người ra phía sau, cậu cảm thấy có một cái gì đó cứng ngắt ép sát vào xương sống. Không thể nào tiến hoặc lùi nữa. Cậu đã bị kẹt!
Sherlock muốn gào lên, nhưng lại không thể nào hít đầy hơi vào phổi được. Trước mắt cậu dường như có một lớp sương đỏ kéo ngang. Tim cậu lẩy bẩy, đập liên hồi và loạn xạ, như thể muốn tung ra khỏi lồng ngực một cách vô vọng khi cậu cố đưa người lách ra khỏi cái khe hở đó.
Một bàn tay nắm lấy khuỷu tay của cậu và kéo mạnh. Gạch cào vào lưng và ngực Sherlock, rồi sau đó lớp gạch vỡ vụn đi thành một lớp bụi lổn nhổn quật mạnh vào đám côn trùng và cậu như một cái nút chai bung vọt ra ngoài chỗ rộng hơn.
Thằng bé hoang dã đang đứng trước mặt cậu. Chính bàn tay của nó đã kéo Sherlock ra ngoài.
“Mày có thể đã bỏ tao lại,” Sherlock gấp gáp thở. “Mày có thể chỉ việc chờ tao chết ngạt rồi móc hết tiền của tao mà.”
“Ồ,” thằng bé nói giọng dửng dưng. “Vâng, đáng lẽ tui nên làm thế mới đúng.” Nó quay lưng bỏ đi, rồi ngoái đầu nhìn qua vai Sherlock. “Đi nữa đi. Bọn chúng ở đằng sau không xa đâu.”
Ở phía trước chừng vài mét là một cầu thang hẹp. Sherlock theo thằng bé trèo lên và bước vào một khoảng không gian giống như ở trong hang. Cậu há hốc miệng, không tin nổi những gì trước mắt mình.
Cậu và thằng bé đã chui vào một chỗ dường như là một nhà kho khổng lồ, chất đầy ắp những chiếc hộp đến mức Sherlock không thấy đâu là tường. Tuy nhiên vẫn thấy được trần nhà. Trần làm bằng các khung kính đầy bụi mờ gắn trên một cái khung sắt, ánh nắng chiếu xuyên qua lỗ chỗ, chói đến mức cặp mắt quen với bóng tối của cậu phải nheo lại mới thấy rõ chút ít. Phía bên dưới khung sắt là những thanh rầm bằng sắt lớn hơn. Sherlock nghe đâu đó ở phía trên cao tiếng chim vỗ cánh.
Nhưng chính những chiếc hòm mới làm cho cậu chú ý. Mỗi chiếc hòm dài khoảng trên hai thước – bề ngang hẹp, nhưng lại không đều đặn. Chỗ phình ra rộng nhất lớn hơn phía trước chừng một phần tư, rồi hẹp trở lại. Sherlock nhìn trừng trừng những chiếc hòm này một lúc, cố đoán đó là thứ gì, và rồi cậu chợt hiểu. Thực ra ngay từ giây phút đầu tiên nhìn thấy cậu đã biết đó là thứ gì, nhưng đầu óc không cho phép cậu chấp nhận một sự thật kinh khiếp.
Đó là những chiếc quan tài.
“Đây là nơi nào?” Cậu há hốc miệng hỏi.
“Đây là nơi chứa xác chết trước khi chở đến khu Nekrops.”
“Khu Necrops?” Cậu chưa hề nghe đến từ này.
“Ừ. Chỗ của người chết ấy mà.”
Đầu óc Sherlock quay nhanh suy nghĩ. “Ý mày nói là nghĩa địa phải không?” Rồi cậu hiểu ra. “Ý mày muốn nói là Necropolis.” Vốn tiếng Hi Lạp hồi học ở trường Deepdene dồn dập quay trở lại: Necropolis là thành phố của người chết.
“Ừ. Ở chỗ dưới Brookwood ấy. Nơi tàu hỏa sẽ đến.”
Brookwood à? Gần Farnham, nơi chú thím của Sherlock đang ở. Nơi cậu đang ở tạm. Rồi cậu sực nhớ đến những gì mà Matty Arnatt đã nói khi gặp cậu ta lần đầu, là chẳng có gì đáng để vòng vèo tới Brookwood cả. Cậu ta đã không nói lý do, mà Sherlock cũng không hỏi cho cặn kẽ. Giờ thì cậu hiểu. Có một nghĩa địa khổng lồ tại Brookwood: nơi tập kết các thi thể chở từ xa tới.
“Nhưng tại sao lại không chôn tại London?” Cậu hỏi.
”Không còn chỗ,” thằng bé cứu mạng cậu nói ngắn gọn. “Các nghĩa trang ở đây đều đầy ứ. Xác này chôn chồng trên xác kia. Hễ cứ có một trận mưa dông ra trò là quan tài nổi lềnh bềnh ai cũng thấy.”
Sherlock nhìn quanh quất lên đống quan tài, cậu thấy chiếc nào cũng có đánh số bằng phấn ở bên hông. Có lẽ những con số này tương ứng với con số ghi chép trong danh sách mà người ta lập ra ở đâu đó, tức là mỗi chiếc quan tài có liên quan đến một đám tang. “Và chiếc nào cũng có… xác bên trong?”
Thằng bé gật đầu. “Từng chiếc một.” Rồi nó ngừng. “Thu hoạch khá lắm.”
“Ý mày là sao?”
“Đôi khi quan tài cũng bị rơi rớt. Bị vỡ tung ra. Đôi khi người ta chôn của cải theo người chết – nào là đồng hồ, nhẫn, mọi thứ đủ cả. Quần áo nữa. Có người trả sộp để mua một chiếc áo khoác đẹp. Cũng chẳng cần quan tâm ai đã mặc trước đó.”
Sherlock cảm thấy tởm lợm. Đây là cả một thế giới mới, cái thế giới mà cậu không hề muốn có mặt ở đó. Nhưng dù vậy, cậu cứ muốn hỏi thêm. Cậu cần phải biết. “Thế thì những quan tài này đến Brookwood bằng cách nào?”
“Tàu đặc biệt.” Thằng bé chỉ về phía xa. “Đường sắt Nekrops. Đường tàu ở đằng kia.”
“Tàu này chỉ chở xác chết?
“Và những thân nhân còn lại.” Thằng bé cười để lộ cái miệng chỉ còn sót mỗi một cái răng sâu. “Vé hạng nhất, hạng nhì và hạng ba chỉ cho quan tài thôi. Khi anh chết, anh có thể chọn hạng xịn, nếu anh muốn.” Nó khoát tay. “Cũng tốt là người ta không thấy được người thân của mình được chăm sóc ra sao khi đã đặt lên toa tàu, phải không?”
Sherlock lại nhìn quanh, nhìn vào những hàng quan tài san sát nhau, chồng lên nhau cao quá đầu cậu. Cái nào cũng có xác chết bên trong. Cậu đang đứng chung với một đám xác chết nhiều bằng dân số của cả một thị trấn nhỏ. Quả là đáng sợ.
“Được rồi. Ta đi thôi.” Cậu lên tiếng.
Thằng bé lắc đầu. “Từ chỗ này trở đi anh tự lo lấy, anh bạn ạ”.
“Được thôi.” Sherlock móc trong túi ra một nắm tiền lẻ và đưa cho nó. “Cám ơn.”
Thằng bé gật đầu. “Đúng là một quí ông.” Nó bước lùi ra sau, cho tay lên môi huýt lên một tiếng to đến nỗi Sherlock nhức cả tai. Nó cố hết sức rống to. “Anh ta đang ở đây. Anh ta đang cố chuồn đây!”
“Tao cứ tưởng là mày giúp tao chứ,” Sherlock khựng lại.
“Giúp rồi đấy chứ.” Thằng bé dứ nắm tay đang cầm mớ đồng xu. “Thỏa thuận xong rồi. Còn bây giờ thì tui giúp cho bọn nó. Biết đâu bọn nó chia cho tui đôi giày của anh.”
Sherlock nghe thấy những tiếng động từ cái lỗ hổng mà cậu vừa thoát ra – tiếng của móng tay, móng chân cào trên gạch. Nhìn vào trong tối cậu thấy ánh nhấp nháy của những cặp mắt bé tí khi gặp ánh sáng.
Cậu bước tới và chụp lấy cổ tay thằng bé, rồi xoay nó lại, nhét nó vào cái kẽ hở. Cậu hét to. “Nó lấy tiền của tao rồi. Nó đang giữ tiền!”
Thằng bé kinh hãi nhìn trừng trừng vào Sherlock trước khi bị hàng chục bàn tay bé xíu lôi tuột vào trong bóng tối. Sherlock nghe tiếng nó kêu gào, rồi sau đó không còn gì nữa ngoài tiếng đánh nhau và tiếng quần áo bị xé.
Cậu bỏ chạy. Trong khi chúng nó không để ý, cậu có cơ may thoát được.
Tuy vẫn còn thở hổn hển, vẫn còn cảm giác thiêu đốt trong buồng phổi và các bắp cơ, cậu vẫn cố hết sức chạy vượt qua đống quan tài. Được một lát, cậu thoát ra ngoài chỗ trống.
Trước mặt cậu là ba con tàu chạy bằng hơi nước. Cả ba đều có mắc toa, nhưng lại nằm ở cuối đường tàu, sát ngay thanh chắn. Tất cả đều giống như con tàu đã chở cậu và Amyus Crowe đến London, trừ việc toa máy và toa chở hàng đều sơn màu đen. Phía trước và phía sau mỗi toa hàng đều có vẽ một chiếc sọ người màu trắng. Mỗi hình chiếc sọ có hai xương chéo bên dưới.
Sherlock cho rằng tàu này chỉ chạy ban đêm. Quả là một trải nghiệm đau buồn cho những ai thấy đoàn tàu này ban ngày. Và cũng là nỗi sợ với những ai đột ngột nhìn thấy trong màn đêm, qua đám khói dày dặc một chiếc nồi hơi đỏ rực đầy than nóng rực lửa.
Sherlock quay đầu lại nhìn đống quan tài. Trong cái bóng tối trùm lên đó, cậu nghĩ có thể nhìn thấy những ánh mắt lấp lánh đang nhìn mình, nhưng cũng không chắc lắm. Điều quan trọng là chúng không đuổi theo cậu.
Chúng không ra được chỗ có ánh sáng bên ngoài, còn cậu thì chắc chắn không quay lại chỗ tăm tối. Mọi việc đã kết thúc. Ít nhất trong thời điểm này.
Cậu quay đầu lại và bước một bước về phía trước. Có cái gì lạo xạo dưới chân. Nhìn xuống đất cậu thấy một khúc xương trắng từ dưới đất nhô lên. Cậu đã dẫm phải và làm nó gãy thành hai khúc. Thằng bé hoang dã đã từng nói, đôi khi những chiếc hòm bị rớt xuống đất. Vỡ ra thành từng mảnh. Dường như những thứ đựng bên trong cũng bị hất ra ngoài khi chiếc hòm rớt xuống. Tất cả những thứ hào nhoáng và nghi lễ dành cho người chết - con tàu đặc biệt, một thành phố khổng lồ dành cho người chết tại Brookwood – nhưng nắm xương tàn lại bị bỏ lại cho thối rữa khi rớt xuống đất lúc quan tài rớt vỡ. Dường như cái cảnh tượng này quan trọng hơn là thực tế. Người đưa tang không biết, mà có lẽ cũng chẳng cần biết, là khi hạ huyệt trong quan tài có cái xác người thân của họ hay không.
Phía đằng sau các con tàu là những đường tàu hướng ra phía ngoài trời rộng rãi. Một làn gió nhẹ thổi qua cuốn theo cái mùi hầm mộ, nơi Sherlock vừa bị săn đuổi và cũng là nơi mà cậu suýt mất mạng. Cậu mệt nhọc lê bước về phía có ánh nắng yếu ớt. Một nơi nào đó bên ngoài chỗ này, nơi thế giới đời thực, Mycroft vẫn còn đang đối mặt với tội danh giết người và Sherlock cần phải giúp để mang lại thanh danh cho anh mình. Sherlock mệt nhoài, người đau nhức, nhưng điều này cũng không quan trọng. Mycroft cần cậu giúp đỡ.
Trong khi đầu óc còn đang miên man suy nghĩ, phải mất đến vài giây sau Sherlock mới thấy được người đàn ông có mái tóc bết lại bước ra từ phía sau đầu máy của một trong những con tàu.
“Mày hết đường chạy rồi, con ạ” gã lên tiếng, giơ tay lên. Chút ánh sáng héo hắt làm cho những đinh gai kim loại trên quả đấm sắt lấp lánh. “Hình như tao đã tiết kiệm được nửa crown khi trả giá.”