← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 6

Sherlock vô cùng thất vọng. Sau khi cố hết sức để chạy trốn, sau những vết gạch cào xước trên da, cậu vẫn chưa thoát được. Cậu quá mệt đến mức không thể làm được gì thêm nữa. Cậu đã hoàn toàn kiệt sức.

“Sao ông tìm được tôi?” cậu hổn hển nói.

“Tao làm sao mà chui qua được mấy cái lỗ đó, đúng không?” gã trả lời. “Nhưng tao biết ngay là thế nào mày cũng chui ra khu vực để hài cốt, vì thế tao chỉ cần đi vòng ra phía ngoài rồi đợi. Tao định bỏ cuộc thì nghe được tiếng mày cào vào gạch.” Gã ngưng lại. “Tao vẫn còn muốn mày nói cho tao biết vì sao mày theo dõi tao,” giọng gã đầy độc địa. “Rồi tao sẽ cho mày chết.”

Một bóng người đồ sộ từ khoảng trống của toa đầu máy và toa chở than, không một tiếng động, hiện ra sau lưng gã đàn ông có râu và tay đấm sắt. Cái bóng này có đội mũ.

Sherlock nhận ra Amyus Crowe ngay lúc ông quành cánh tay trái qua cổ tên vô lại, tay phải thì chộp lấy cổ tay của hắn. Cần cổ của gã nằm gọn trong khuỷu tay của Crowe. Sherlock thấy lớp vải cánh tay áo của Crowe căng ra khi ông lên gân.

Hai con mắt gã này như lồi ra. Gã giơ hai tay lên hòng bấu vào cánh tay của Crowe, nhưng không thể nhúc nhích được dù cố kéo hết sức. Khi Sherlock nhìn thì mặt gã ta đã chuyển sang màu tím bầm, nhưng cậu đã quá mệt để ngạc nhiên. Chắc là ông Crowe đã vận đủ sức để làm cho đối phương nghẹt thở.

Tên vô lại tuyệt vọng dùng chân phải mang ủng đá ngược ra sau, nhưng Crowe đã dang rộng hai chân nên tù nhân của ông không thể với tới được. Gã bèn quành tay thụi mạnh ra sau đầu, hy vọng sẽ giáng ngược những cái đinh gai trên quả đấm sắt vào Crowe, nhưng ông chỉ việc né đi và bóp mạnh hơn nữa vào cổ họng của gã.

“Chú rất thất vọng vì cháu đã sơ suất đến mức để cho tên này phát hiện là cháu đang theo dõi hắn,” ông nói một cách điềm tĩnh, mắt nhìn Sherlock qua vai gã kia.

Sherlock đưa bàn tay bám đầy bụi bẩn vuốt tóc. “Cháu xin lỗi,” cậu lên tiếng. “Cháu cứ nghĩ đã khéo giấu mình rồi.”

“Nhớ bài học này đấy,” ông Crowe nói thân tình. “Bẫy có thể bị đảo ngược. Đó là sự khác biệt giữa con người và thú vật - thỏ không đột nhiên chạy quanh để săn đuổi chồn được, nhưng con người thì có thể chuyển đổi vai trò. Con mồi trở thành thú săn mồi. Hãy nhận ra các dấu hiệu. Nếu con mồi nhử cháu đi đến chỗ nào vắng vẻ tức là nó có thể đã phát hiện được cháu và muốn tóm gọn.”

“Chú ngừng lên lớp được không?” Sherlock mệt mỏi lên tiếng, nhớ đến bài học trên hồ lúc họ câu cá.

“Cuộc đời luôn cho chúng ta bài học, miễn là ta có đủ tỉnh táo để hiểu nó.” Crowe liếc nhìn gã đàn ông càng lúc càng bị dồn máu với hai mắt như muốn lồi ra. “Nào,” Crowe lên tiếng, “giờ thì tao với mày tâm sự một chút. Tại sao mày dám dùng vũ lực hăm dọa cậu bạn, người mà tao đang che chở hử? Như thế là không được văn minh, anh bạn ạ.”

“Nó theo dõi tao,” gã thở phì phò.

Crowe nhìn qua Sherlock, nhướng mày nói. “Ta nghĩ là cháu có lí do,” ông nói. “Không phải là cháu đang thực hành kĩ năng truy tìm đấy chứ – mặc dù những kĩ năng này cũng cần được rèn luyện.”

“Cháu tìm được nhà in đã in cái danh thiếp,” Sherlock trả lời. “Người ở đó cho biết khi khách hàng vào bên trong đặt in thì gã này đứng chờ ngoài đường. Hai người đi chung với nhau.”

Crowe gật đầu. “Chú cũng giả định là mọi việc xảy ra như thế.” Ông quay lại với tên tù nhân. “Vậy thì câu hỏi là tại sao? Tại sao mày trả tiền cho một tay nghèo khó, bệnh tật để chỉ in độc một cái danh thiếp, và tại sao mày sai hắn ta đến gặp Ngài Mycroft Holmes tại câu lạc bộ?”

Gã đàn ông bíu vào tay Crowe, vùng vẫy. “Ông làm tôi ngạt thở!”

“Nhận xét đúng lắm. Tao đang cho mày nghẹt thở đấy!”

“Ông đang bẻ cổ tôi!”

“Chưa đâu. Chỉ cần tao ép mạnh một chút nữa là cái cổ của mày sẽ gãy đánh tách như một cành cây mục, vậy đó, nhưng chưa tới lúc đó đâu. Mày sẽ bị nghẹt họng trước.”

“Ông đang giết tôi!”

“Đúng,” Crowe xác nhận. “Tao nghĩ là tao sẽ làm. Giờ thì nói mau.”

“Có người thuê tôi!”

“Hẳn là thế rồi. Mà tao cũng không nghĩ mày làm thế là vì yêu Nữ hoàng và tổ quốc. Câu hỏi là: ai đã trả tiền cho mày?”

“Tôi không biết tên của họ!” Gã đập mạnh vào cánh tay trái cứng như sắt của Crowe. “Làm ơn cho tôi thở một chút!”

Crowe nới tay một chút, gã lập bập hít mạnh một hơi. Mái tóc rũ xuống như bết dính ngang mặt. Vẻ tím bầm trên mặt gã bớt đi đôi chút.

“Họ gặp tôi tại quán Shaftesbury một tối nọ,” gã thở hổn hển. “Ai cũng biết tôi là người môi giới. Tôi có thể sắp xếp, tìm đúng người cho một vụ đút lót hoặc bất cứ thứ gì mà ông muốn. Họ bảo tôi đi tìm một tay nào sắp về chầu trời mà lại cần tiền cho gia đình nữa. Họ bảo tôi thuyết phục người này làm một việc cuối cùng, mà nếu anh ta làm tốt, anh ta sẽ có tiền để bảo đảm cho tương lai của gia đình.”

“Và mày đã tìm được người này?”

“Tôi biết hàng trăm người kiểu đó! Chỉ cần mười xu là họ có mặt ngay. Bệnh lao, nghiện rượu, loét dạ dày - có khối bệnh để chết tại London này.”

“Thế cái việc cuối cùng mà hắn ta phải làm là gì?” Gã nín bặt.

Crowe siết cổ tên vô lại chặt hơn. “Chỉ cần tao mạnh tay hơn chút nữa,” ông thì thầm, “thì cái âm thanh cuối cùng mày nghe được là tiếng mày bị gãy cổ. Tao đã từng bẻ cổ báo sư tử, cá sấu, thậm chí cả một con bò mộng nữa. Cứ tin tao đi, cái cổ của mày cũng chẳng phải là một thách đố lớn lao gì cho tao đâu.”

“Hắn phải đi đến một câu lạc bộ tại khu Whitehall,” gã nói gấp gáp, “và xin gặp riêng một người. Chỉ gặp riêng người đàn ông tên là Mycroft Holmes. Rồi đưa cho ông này tấm danh thiếp vừa mới in. Chỉ có một tấm duy nhất. Và khi chỉ có hắn với người cần gặp, hắn phải xịt một thứ gì đó vào mặt người kia – thứ gì giống như chai nước hoa. Khi người đàn ông bị mê đi, khuỵu xuống, thì hắn phải đặt con dao thật vào tay người này rồi dùng một con dao nước đá đâm thẳng vào ngay chỗ tim của mình. Hệt như tuồng kịch câm vậy.”

“Thế ai đưa mấy con dao đó?”

“Họ cho tôi biết là sẽ có một thằng nhóc đến tìm khi bọn tôi đi vào câu lạc bộ. Thằng nhóc này sẽ đưa một cái hộp trong đó có chứa hai con dao. Bọn tôi phải làm như đã dặn, nếu không con dao nước đá sẽ tan mất, thậm chí ngay ở trong hộp.”

Crowe cười. “Mày không thấy việc này hơi kì lạ sao?”

“Tôi còn làm nhiều thứ còn kì lạ hơn,” gã thú nhận “mà còn được trả hậu hĩnh nữa.”

“Mày có biết tên người đàn ông thuê mày không. Mô tả xem hắn như thế nào?”

“Tôi có nói là một gã đàn ông à?”

Cặp chân mày của Crowe dựng ngược lên vì ngạc nhiên. “Đúng là mày không nói thế. Tao nhầm. Thế - một phụ nữ thuê mày à?”

Gã gật đầu lia lịa khi cánh tay của Crowe siết quanh cổ. “Một phụ nữ, đúng là một phụ nữ.”

“Tả hình dong xem sao.”

“Hơi trẻ. Mảnh dẻ. Quần áo lượt là.”

Crowe khịt mũi. “Khuôn mặt - anh bạn - tả khuôn mặt đi.”

“Không thấy được. Cô ta che mạng, đội mũ rộng vành.”

“Còn màu tóc?

“Cái mũ che hết không thấy được.”

“Nhưng mày có theo dõi cô ta đúng không? Sau khi cô ta thuê mày?”

Sherlock thấy mắt gã trố lên ngạc nhiên, giọng rít lại. “Làm sao ông biết được?”

“Tao thừa biết mày, anh bạn ạ. Hoặc ít nhất cũng biết tỏng lũ chúng mày. Một phụ nữ cầm theo một xấp tiền – đương nhiên là mày phải theo dõi rồi. Mày muốn biết cô ta sống ở đâu, để rồi sau đó mày lẻn vào nhà và nhón đi cái xấp tiền còn lại cất kĩ trong nhà. Lũ chúng mày bao giờ cũng tìm một kẽ hở, một cơ may. Thế thì cô ta đi đâu?”

Gã nhún vai, đẩy lơi vòng tay của Crowe ra một chút. “Chẳng có nhà nào cả mà là một bảo tàng ở Bow. Tên là Passmore Edwards, đúng thế. Chỗ này từng là một trang viên lớn. Tôi chờ đến mấy tiếng, nhưng chẳng thấy cô ta đi ra. Tôi không biết cô ta có ở tại đó không, hay chỗ này có cổng hậu, nhưng không hề gặp lại.”

“Còn gì nữa không? Có thứ gì khác mà mày muốn chia sẻ với tao không?”

“Hết rồi, hết rồi, tôi thề đấy!”

Ông Crowe bất thình lình thả tên tù nhân ra. Hai đầu gối gã sụm xuống, nghẹt thở, gã đưa tay ôm lấy cổ họng.

“Chú nghĩ là ta đã khai thác hết những thứ ta cần ở tên này.” Ông nói với Sherlock. “Nếu cháu còn sức, ta ghé vào một quán cà-phê để giải khát đôi chút.” Crowe đưa mắt lướt qua bộ quần áo, giày ủng dính đầy bùn, bụi gạch của Sherlock. “Có lẽ ta phải tìm một tiệm bán quần áo trước. Bộ dạng như thế này thì không tạo được ấn tượng tốt đẹp gì đâu.”

Trước khi Sherlock kịp trả lời, gã đàn ông nhỏ bé từ dưới đất bất ngờ chồm lên, vung hai tay ra, chĩa nắm đấm sắt tua tủa gai đinh vào mặt Amyus Crowe. Gã gầm lên, mặt méo mó lại thành chiếc mặt nạ hung dữ. “Mày dám bóp cổ ông hả?”

Ông Crowe nghiêng ra sau để tránh mớ đinh gai tua tủa lia qua trước mặt, chỉ cách cặp mắt vài phân. Khi nắm đấm có đinh bay vụt qua, ông oằn người qua trái, rồi tung cú đá bằng chân phải. Chân ủng của Crowe chạm phải đầu gối đối phương. Sherlock nghe có tiếng gì đó bật lên kêu rắc một tiếng. Gã đàn ông sụm ngay xuống đất, rú lên đau đớn.

“Ta đi thôi,” ông Crowe ra hiệu cho Sherlock. “Chú biết có một chỗ bán cà phê, bánh kem ngon có tiếng. Ta đi tìm thôi.”

Ông đi trước, Sherlock theo sau để lại tên vô lại nhỏ bé ngồi thu lu ôm cái đầu gối bị vỡ nát.

“Ta có nên báo cho cảnh sát không?” Sherlock lên tiếng.

“Họ không bắt hắn ta sao?”

Crowe nhún vai. “Nếu để làm cho cháu cảm thấy an tâm hơn thì ta có thể báo, nhưng nếu lời khai của hắn chống lại chúng ta cộng thêm chứng cứ vết thương lâu dài mà chú giáng cho hắn thì bất cứ viên cảnh sát nào có chút suy nghĩ đều sẽ bắt chú chứ không phải là hắn. Hoặc là họ sẽ bắt cả hai chúng ta cho đến khi nào hắn phun ra những gì thực sự đã xảy ra.”

“Nhưng như thế là không công bằng!” Sherlock phản ứng.

“Có lẽ là không, nhưng đó lại là công lý. Nếu cháu chưa phân biệt được hai điều đó, thì cần phải học.”

Crowe đi trước dẫn đường quay lại những con phố, ngõ hẻm và các lối đi có mái vòm của khu vực quanh nhà ga Waterloo.

“Làm sao mà chú tìm được cháu?” Sherlock đi bên cạnh hỏi.

“Câu trả lời đơn giản: chú theo đuôi cháu.”

“Nhưng cháu chẳng thấy chú đâu cả.” Sherlock chống chế.

“Đó là những gì mà cháu mong đợi khi chú đi theo cháu. Nhưng khác với cháu, chú ẩn mình trong bóng tối, hoặc lẫn trong đám đông hay nấp sau các góc phố.”

“Chú đi theo để làm gì?”

“Sau khi kiểm tra cái địa chỉ trên danh thiếp – toàn dối trá cả thôi – chú nghĩ rằng chú nên đuổi theo tìm cháu. Chú rà các nhà in theo thứ tự ngược lại – tức là bắt đầu bằng nhà in nằm ở cuối danh sách rồi đi lên. Chú thấy cháu đi ra khỏi nhà in thứ hai mà chú vô – tức là nhà in thứ ba cháu đã vô. Chú cố bắt kịp cháu, nhưng cháu đi nhanh quá. Rồi cháu dừng lại để quan sát một quán rượu. Chú đoán là cháu đang dò tìm manh mối, chú không muốn cháu để ý nên khom người xuống nấp vào ô cửa để xem chuyện gì xảy ra. Được một lúc cháu bắt đầu đi theo gã có râu, vì vậy chú cũng bám sát xem cháu đi đâu. Chú thấy hắn dồn cháu vào một góc trong nhà vòm, nhưng sau đó cháu bỏ chạy trước khi chú ra tay. Cả một tiếng đồng hồ sau đó chú cứ lòng vòng bên ngoài, cố gắng tìm cái chỗ mà cháu có thể ló đầu ra được.

“À ra là vậy,” Sherlock nói, giọng ỉu xìu. “Hèn chi mọi việc như thế.”

Lúc này họ đã đi đến mặt tiền nhà ga. Crowe chú ý thấy một tiệm may nhỏ cách tiệm sửa giày mấy thước. Chừng mười phút sau, Sherlock đã có được một cái quần mới, một áo khoác mới, một sơ mi mới và đôi ủng mới. Crowe trả tiền không hề mặc cả. Sherlock đoán rằng ông sẽ thu xếp việc này với anh Mycroft – nếu Mycroft còn có cơ hội được tự do.

Sau khi ra khỏi tiệm sửa giày, Crowe hướng về phía một quán trà của Công ty Aerated Bread ở gần đó. Họ chọn một cái bàn gần cửa sổ. Sherlock có cái cảm giác lạ lùng là mình bị tách rời khỏi thực tại. Mới một giờ trước đây cậu phải chạy thục mạng qua các đường hầm tối đen, còn bây giờ cậu lại ngồi dưới ánh mặt trời chờ người mang bánh ngọt đến. Cuộc đời đôi khi thật lạ. Mà thực ra, cậu suy ngẫm, quá nhiều lúc cuộc đời trở nên kì lạ.

“Vậy, sắp tới là gì đây ạ?” cậu lên tiếng hỏi khi khay đựng cà phê và bánh ngọt được mang tới.

“Hãy xâu chuỗi lại những gì mà ta biết.” Ông Crowe cắn một miếng bánh xốp ngọt. “Có ít nhất là một tay trung gian môi giới giữa người ra mệnh lệnh và người thực hiện mệnh lệnh.”

Sherlock nhíu mày lại. “Chú nói sao, “tay trung gian môi giới”?”

“Chú muốn nói là người đàn ông tự sát tại câu lạc bộ Diogenes chưa bao giờ gặp người đàn bà mang mạng che mặt. Người đàn bà này thuê tay có râu, rồi tay có râu thuê người đàn ông sẵn sàng tự sát để bảo đảm tài chính cho gia đình sau khi hắn chết.”

“Có thể người phụ nữ này cũng được người nào đó thuê. Biết đâu đó là trung gian tay ba.”

“Có thể,” ông Crowe trầm ngâm. “Tay nào bố trí việc này đúng là hết sức kín đáo. Họ bảo đảm là không ai có thể truy ra họ được. Lý do duy nhất giúp ta lần đến mức này là nhờ hai sự cố không ngờ tới – đầu tiên là người ở nhà in mà cháu gặp đã nhận ra tay có râu, thứ hai là tay có râu quá tham lam và đồi bại này đã dò theo người phụ nữ bỏ tiền thuê hắn đến viện bảo tàng mà hắn ta nhắc tới. Không bao giờ nên đánh giá thấp giá trị của một sự trùng hợp ngẫu nhiên.”

“Nhưng để làm gì?” Sherlock hỏi. “Chính xác là họ muốn đạt đến cái gì?”

Ông Crowe nhún vai. “Mục tiêu trước mắt dường như là hạ uy tín của anh cháu, hoặc nói cách khác là gạt cậu ta ra rìa. Mục tiêu lâu dài – chưa rõ lắm. Ta cần thêm nhiều thông tin.”

Sherlock thở dài. Cậu nghĩ là mình đói bụng sau tất cả những chuyện dông dài đó, nhưng bây giờ mấy chiếc bánh ngọt chẳng còn chút hấp dẫn gì đối với cậu nữa. “Thế ta làm gì bây giờ ạ?” Cậu hỏi.

“Theo chú thì,” ông Crowe nói, “ta có ba lựa chọn. Thứ nhất: báo cho cảnh sát những gì ta biết rồi quay về Farham, hy vọng rằng luật sư của câu lạc bộ Diogenes có thể đưa Mycroft ra khỏi nhà giam và chứng minh cậu ta vô tội.”

“Phần thắng là bao nhiêu?” Sherlock hỏi.

“Mong manh lắm. Cảnh sát chẳng thèm bỏ công để điều tra một tội ác khi họ có đủ chứng cứ chống lại người đang bị tạm giam, mà chẳng có ai trên đời lại thơ ngây tin dễ dàng vào câu chuyện chúng ta kể. Mà chứng cứ của chúng ta cũng đã tan thành nước rồi.”

“Nhưng ta còn lọ thuốc xịt cồn laudanum!”

Crowe nhún vai. “Chỉ là thuốc trị bệnh, như anh cháu nói. Mà ta cũng không thể trưng ra làm bằng chứng. Thứ đó có thể mua được tại tiệm thuốc tây dưới phố.”

“Còn lựa chọn thứ hai?”

“Chúng ta ở lại London và tìm gặp các ông sếp của anh cháu tại Bộ Ngoại giao - nhờ họ ra tay can thiệp để đưa cậu ta ra ngoài.”

Sherlock nhăn mặt. “Ngay cả đối với cháu, cách này coi bộ không thành công nổi.”

“Đúng thế. Có nhiều khả năng là Bộ Ngoại giao sẽ để mặc cho anh cháu tùy ý xoay sở. Họ chẳng dại gì để bị xấu hổ với công chúng đâu.”

“Thế thì ta chọn cái thứ ba vậy,” Sherlock nói dứt khoát.

Crowe cười. “Cháu còn chưa biết như thế nào kia mà.”

“Cháu có thể đoán.” Ánh mắt của Sherlock chạm phải cái nhìn chăm chú thân thiện của ông Crowe. “Ta phải xoay sở tìm cho đủ bằng chứng để chứng minh Mycroft vô tội. Ta đi đến bảo tàng ở Bow và tìm cho ra người đàn bà che mạng.”

Ông Crowe gật đầu. “Đó là điều ta muốn nói. Nói thẳng ra, chú cũng không có mấy hy vọng là chúng ta có nhiều cơ hội. Cú này quả là khó chơi, khó chơi thật.”

“Tại sao ta không đi tìm một ai đó?” Sherlock giận dữ hỏi. “Tại sao không có ai đi điều tra những thứ mà cảnh sát không muốn hoặc không thể điều tra? Một dạng như các thám tử độc lập, những người tư vấn, có thể làm cho ra ngô ra khoai, giống như Công ty Pinkerton ở Mỹ mà chú đã nói tới chẳng hạn?”

“Việc này phải cần đến một người có đầy đủ các khả năng phù hợp, chắc chắn như vậy,” nét mặt ông Crowe trở nên xa xăm. “Nhưng ở xứ Anh này hiện nay chưa có ai ra tay làm việc này.” Rồi ông Crowe dường như bừng tỉnh, quay về thực tại. “Bây giờ thì chú nghĩ ta nên tìm một chiếc xe ngựa hai bánh để nhờ người đánh xe đưa chúng ta đến viện bảo tàng ở Bow.”

Họ lập tức đón một chiếc xe ngựa, mặc dù Sherlock đã để ý thấy rằng ông Crowe cố ý bỏ qua không gọi hai chiếc xe trống, cuối cùng lại chọn chiếc thứ ba khi chiếc này sắp chạy qua chỗ họ đang đứng.

“Tại sao chú không chọn chiếc xe đầu tiên?” Sherlock vừa leo lên xe vừa hỏi.

“Bởi vì chúng ta hiện đang lớ ngớ ngoài rìa chiếc mạng nhện mà một tay nào đó đang giăng ra.” Crowe trả lời, “và chú cũng muốn bảo đảm chiếc xe này là do ta chọn chứ không phải người khác chọn cho ta.”

“Còn chiếc thứ hai có vấn đề gì?”

Crowe cười. “Con ngựa bị què. Chú ngờ rằng nó sẽ què suốt trên quảng đường tới Bow. Vả lại, chú cũng không thích bộ râu của tay đánh xe.”

Họ ngồi xuống ghế, người đánh xe ló mặt qua ô cửa hỏi, “Ta đi đâu đây, các ngài?”

“Anh có biết bảo tàng Passmore Edwards không?”ông Crowe hỏi lại.

Phải mất khoảng nửa tiếng xe mới tới nơi, Sherlock lợi dụng thời gian này để quan sát những lát cắt của cuộc đời thực xảy ra xung quanh cậu: những dây phơi quần áo được căng giữa các khung cửa sổ ở phía bên kia đường; cánh đàn ông mặt mày cau có vật vờ quanh các góc phố; những người bán hàng rong mang các khay chứa bánh kẹo, hoa quả; thợ mài dao vừa đẩy xe cút kít vừa rao xem có ai muốn đem dao ra mài trên những hòn đá mài đạp bằng chân của họ không.

Bảo tàng là một tòa nhà xây bằng đá nâu sáng, các góc xung quanh nhà nhô ra ngoài, cổng ra vào có cột trụ được trang trí cầu kỳ. Ngôi nhà nằm xa đường, cách vỉa hè bằng một dải cỏ xanh và một hàng rào sắt cao ngang gối. Bên cạnh cửa trước là một khối đá lớn gắn vào tường, trên khắc dòng chữ Bảo tàng Passmore Edwards trưng bày các vật quí hiếm trong tự nhiên.

“Cứ đi qua,” Crowe bảo người đánh xe. “Rồi cho chúng tôi xuống ở góc đường.”

Người đánh xe dừng xe ngay tại chỗ ông Crowe đã chỉ.

Crowe trả tiền, rồi hai người xuống xe.

“Đừng có nhìn thẳng vào tòa nhà,” Crowe dặn dò. “Ta chỉ đứng đây và nói chuyện vài phút. Hãy cảm nhận bất cứ điều gì trong tầm mắt.”

“Bảo là ngốc cháu cũng chịu,” Sherlock lên tiếng, “nhưng cháu thấy đây chỉ là một bảo tàng. Chẳng có vẻ gì đây là mặt tiền của thứ gì mờ ám cả.”

“Chỗ này khá thuận tiện để hội họp,” Crowe trầm ngâm. “Chẳng qua là được chọn ngẫu nhiên, chứ không phải là tổng hành dinh của một âm mưu. Nếu đúng như vậy, thì ta chẳng tìm kiếm được gì ở đây, vả lại ta cũng đã mất khá nhiều dấu hiệu để theo dõi rồi.”

“Ít nhất ta cũng có thể nhìn quanh,” Sherlock nêu ý kiến. “Ta có thể nhìn, nghe thấy cái gì đó, hoặc có người nhớ là đã thấy người đàn bà che mạng.”

“Nhận xét có cơ sở,” Crowe nói. Ông đi trước dẫn đường, ra vẻ một ông bố dẫn con đi tham quan bảo tàng.

Họ bước vào một cái sảnh trống trơn, trong sảnh có cầu thang hướng lên phía trên rồi tẽ thành hai nhánh trái và phải. Nếu không có một ngăn tủ khổng lồ bằng kính nằm chễm chệ giữa sàn nhà được lát gạch, thì chắc người ta sẽ nghĩ đây là tiền sảnh của một ngôi nhà to trong phố. Bên trong ngăn kính được bày biện khá chính xác một phần của cảnh rừng rú, với nhiều loại thú nhồi rơm được sắp đặt: một con cáo, nhiều con chồn ecmin, vô số chuột nhắt, chuột nhà và chuột đồng, và cả một con rái cá trông có vẻ tả tơi như thể lạc loài từ nơi khác. Những con thú này được bố trí theo các bộ dạng bị chộp bất thình lình, như thể chúng bị bắt khi đang chăm chú dò tìm một tiếng động lớn đột ngột từ đâu tới. Những cặp mắt trong vắt của chúng dường như đang nhìn trừng trừng khắp các hướng.

Một người đàn ông mặc đồng phục và đội mũ tuyền một màu xanh dương lại gần. “Các ngài lấy hai vé chứ?” Anh ta hỏi. “Mỗi vé chỉ hai xu thôi, các ngài cứ xem bao lâu cũng được. Lúc này vắng lắm.”

“Cám ơn anh,” Crowe nói và đưa cho anh ta mấy đồng tiền.“Theo anh thì xem những thứ trưng bày này như thế nào?”

Người này cân nhắc một lúc. “Gian trưng bày các thú có vú nhỏ, ở phía tay phải trên lầu, được khen là giống như thực. Nếu không, thì gian trưng bày loài lưỡng cư cũng ở trên lầu phía tay trái có nhiều mẫu vật lạ trẻ con vốn rất thích.”

“Ta sẽ tách theo hai phía,” Crowe nói khi người đàn ông dời bước. “Chú sẽ tạt qua bên gian lưỡng cư, cháu bên loài có vú. Hẹn gặp lại tại đây sau nửa giờ, còn nếu không phát hiện điều gì đáng chú ý thì lúc đó ta sẽ đi sang gian khác.”

“Thế nào mới được gọi là đáng chú ý?”

“Như chú đã nói lúc ở câu lạc bộ Diogenes - bất cứ thứ gì mà không ăn khớp. Bất cứ thứ gì nổi bật.”

“Trong một nhà bảo tàng thú nhồi rơm ư?”

Crowe cười một cách khoan dung. “Còn tùy theo bối cảnh. Ở ngoài đường, nếu có con chó chạy ngang thì không phải là bất thường. Nhưng trong một bảo tàng thú nhồi rơm, thì đúng là bất thường,”

“Cháu hiểu rồi,” Sherlock nói với vẻ hồ nghi.

Họ cùng đi lên cầu thang làm bằng đá cẩm thạch đến tầng một, sau đó tách ra khi tới nhánh rẽ. Sherlock qua bên phải, ông Crowe bên trái.

Các cầu thang dẫn tới ban công ôm lấy tiền sảnh. Gờ ban công được viền bằng một hàng chấn song bằng đá cao đến thắt lưng. Có nhiều cửa lớn dường như dẫn tới nhiều phòng trưng bày khác nhau. Một bộ đèn chùm với những hạt thủy tinh hoa văn chìm, có chân nến treo ở giữa trần nhà.

Sherlock nhắm vào cánh cửa thứ nhất đi tới. Cậu vào một căn phòng dài mà ở tít đằng xa là một dãy hộc tủ kính chắn ngang khiến tầm nhìn phía dưới bị khuất. Ánh nắng chói lòa rọi xuống từ một ô cửa trên mái nhà. Cậu nghe được đâu đó trong phòng có tiếng nói, nhưng lại không thấy người.

Cậu hướng về phía cuối phòng, đi ngang và nhìn qua những ngăn trưng bày ở đây xem bên trong có gì. Như người phục vụ cho biết, đây là gian trưng bày các động vật có vú nhỏ. Trong một ngăn có đặt một con chồn hương ở tư thế vênh váo trên lớp cỏ khô; bên cạnh là con mèo lớn lông nâu hai tai vểnh lên, đang ngồi trên một dải cát vùng sa mạc. Một con lửng vằn vện sọc đen trắng thập thò trong hang và cách vài tấc là một con chồn có đôi tai lớn quá khổ đang vĩnh viễn sải chân trên một cảnh quan chỉ toàn là tuyết và băng nhân tạo. Những thứ này dường như có nghĩa gì đó.

Sherlock đứng trước con lửng một lúc. Hình ảnh con vật này làm cậu nghĩ tới thời gian còn ở Farnham, cậu đã đem một con lửng chết để đánh lừa con chó giữ nhà của Bá tước Maupertuis. Dường như đó là khoảnh khắc tồi tệ nhất trong đời cậu. Giá mà cậu biết được…

Cậu đi qua những ngăn trưng bày chuột, chuột nhắt, mèo và chó tí hon trước khi đến cuối căn phòng. Những cặp mắt vô hồn dường như nhìn theo bước chân người đi qua. Cánh cửa ở cuối phòng dẫn vào một sảnh trưng bày nhỏ hơn, sảnh này có hai cửa thông ra ngoài. Sherlock chọn hú họa một cửa và bước vào.

Một hình thù chồm lên người cậu, hai cánh tay giơ cao, từ bàn tay nhô ra những gai nhọn gớm ghiếc. Sherlock giật mình lùi lại, suýt té nhào trước khi nhận ra hình thù đó đang nằm bên trong một ngăn trưng bày, còn những gai nhọn thực ra chỉ là các móng vuốt. Hình thù này không phải là người đàn ông có râu mà cậu gặp tại nhà ga Waterloo. Khựng lại, cậu ngượng ngùng đưa tay phủi phủi áo khoác. Đó là một con gấu không rõ loài, có bộ lông màu nâu rối bù, cái mõm được xử lý bằng cách nào đó trông như thấm nước. Con gấu này to xác hơn ông Amyus Crowe, và điều này gợi lên một cái gì đó chưa rõ.

Căn phòng được con gấu canh giữ có chứa mấy ngăn trưng bày lớn hơn. Ngoài con gấu ra, còn có một con nai sừng tấm với bộ sừng xòe ra như cành cây, một bầy heo rừng có lông cứng và răng nanh đứng thành nhóm, và một con thú khác hình như là bò có bộ lông màu nâu dài đến mức Sherlock thậm chí không nhìn ra được cặp mắt nó.

Cánh cửa ở cuối phòng dẫn vào một phòng khác. Sherlock bắt đầu có cảm giác là mình đang đi vào một dạng mê cung nào đó. Ngoài những ngăn trưng bày kê dọc theo tường, ở giữa phòng cũng đặt nhiều ngăn. Mỗi ngăn đều có một con chim khác loài, nhưng Sherlock nhận thấy tất cả đều là chim săn mồi.

Ngăn gần nhất chứa một con đại bàng đơn độc có thế đứng thanh thoát. Phía sau nó là một phông nền bằng gỗ vẽ cảnh bầu trời xanh biếc không gợn mây và các ngọn núi xa xa.

Sherlock đi sâu hơn vào căn phòng. Cậu nghe thấy cái gì đó đang chuyển động - tiếng giày loẹt xoẹt trên sàn nhà.

Rõ ràng là có ai đó đang ở trong phòng cùng với Sherlock dù rằng cậu không nghe tiếng nói. Có lẽ đó là một người khách lẻ.

Sherlock đi qua nhiều ngăn trưng bày bên trong chứa đủ loại cú. Con nào cũng ở tư thế đậu trên cành – Sherlock không biết đó là cành cây thực hoặc là cành làm bằng thạch cao. Vuốt của chúng bấu vào cành cây: thứ vũ khí giết người nhọn hoắt ẩn dưới lớp da sần sùi, được thiết kế để quắp vào cơ thể con mồi và nhấc bổng lên rồi mang về tổ để đánh chén.

Lúc bước ngang qua, cậu nghĩ là mình vừa thoáng thấy một chuyển động. Cậu quay phắt lại để nhìn kỹ hơn. Lũ chim đều nhìn cậu chòng chọc. Chẳng phải đầu chúng đều quay về phía cánh cửa khi cậu bước vào hay sao? Thế mà bây giờ những cái đầu này lại quay về phía giữa phòng. Hoặc là những con cú này có những điểm đặc biệt gì đó nên ta khó mà nói chúng đang nhìn về phía nào?

Một thứ gì đó đang vỗ cánh ở phía bên kia của gian phòng. Phải chăng có một con chim, một con chim thực sự bị kẹt lại trong phòng? Một con chim sẻ, hoặc bồ câu, hay chim gì đó?

Mấy ngăn trưng bày tiếp theo chứa một loạt chim săn mồi. Sherlock nhận ra đó là diều hâu, chim cắt, chim ưng biển và nhiều loại chim khác mà cậu chưa biết.

Mặc dù đây đều là những con chim đã chết và được nhồi rơm, nhưng chúng có nhiều nét bí hiểm hơn so với các thú có vú nhỏ hoặc các động vật lớn hơn. Có lẽ lớp lông vũ trông giống thực hơn là lớp lông mao khi những gì nằm bên dưới là lớp rơm thay vì xương thịt. Hoặc có lẽ có cái gì đó liên quan đến hình dạng sọ của chúng, và do cơ thể chúng không có lớp mỡ nên khi nhồi xác người ta làm cho chúng lúc nào cũng giữ được tư thế như ngoẹo đầu và chuẩn bị rỉa lông, hoặc dang rộng hai cánh để làm giãn các bắp cơ. Dù rằng mắt của chúng là những viên bi, nhưng Sherlock nghĩ mình có thể thấy trong đó sự lạnh lùng, đúng hơn là dữ tợn. Chuột nhắt và chuột đồng thấy khách tham quan là thú săn mồi, còn lũ chim trong phòng nhìn họ như là con mồi.

Cậu tưởng tượng tiếp nhiều điều khác. Nhưng chẳng ích gì, cậu tự nhủ. Chúng chỉ là thú nhồi rơm. Chúng không có thực. Chúng không cử động được.

Cậu lại nghe một chuyển động đột ngột nào đó ở phía cuối căn phòng. Có lẽ là bước chân người. Có tiếng vải chạm vào thành gỗ của một ngăn trưng bày. Chẳng có việc gì phải lo: cậu sắp gặp các khách tham quan khác khi sang tầng khác.

Bỗng Sherlock giật nẩy người vì một tiếng bùm lớn! Cậu choáng người một lúc, tự hỏi không biết chuyện gì, rồi sau đó nhận ra là cánh cửa ở cuối phòng đã dập lại mạnh. Có lẽ do gió lùa mạnh.

Sherlock đi quanh một ngăn trưng bày đang chắn lối. Trước mặt cậu là một ngăn lớn bên trong có một con kền kền với cái đầu trọc lóc, mỏ cong quắp lại một cách dữ dằn; đôi cánh xòe ra như muốn chặn không cho cậu đi tới.

Shwerlock nhìn lên. Có thêm một con chim khác mà cậu nghĩ là chim ưng. Nhưng con này lại không ở phía sau mặt kính. Nó đứng lơ lửng trên chóp của ngăn trưng bày như thể vừa đáp xuống.

Một tiếng huýt còi ảm đạm với ba nốt chợt vang lên trong không khí.

Khi Sherlock đang chăm chú quan sát, con chim quay đầu lại để nhìn cậu cho rõ hơn và chồm về phía trước như thể muốn lao xuống nhào thẳng vào con người dưới kia.