← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 7

Sherlock chợt nhìn thấy một ánh lóe. Có thứ gì đó được buộc vào chân con chim ưng: đó là những lưỡi dao bằng kim loại xòe ra như những cái vuốt phụ. Khi con chim di chuyển trên ngăn tủ, Sherlock có thể thấy lớp gỗ bóng bị cào ra khi chạm phải kim loại.

Bất ngờ, chỉ với một cái vỗ cánh, con chim nhào thẳng về phía Sherlock. Hai chân nó dang rộng ra vững vàng, các vuốt kim loại xòe ra. Sherlock nhảy lùi ra sau, nhưng lại vướng chân té nhào. Cậu như đang ngả người ra sau trong một đoạn phim quay chậm, nhìn thấy con chim ưng phóng xuống, bộ vuốt của nó chĩa vào mắt mình. Con chim ở gần đến nỗi Sherlock có thể thấy được từng chiếc lông dưới ức của nó. Gió lướt qua mặt cậu khi con chim vỗ cánh bay qua. Thời gian như kéo dài ra, khiến Sherlock tự hỏi phải chăng mình đang lơ lửng trong không khí, nhưng khi vai cậu bất ngờ đập mạnh xuống sàn nhà tạo ra một tiếng phì lớn thoát khỏi lồng ngực thì mắt bắt đầu nảy đom đóm.

Sherlock lăn tròn, ép người vào phần gỗ lót chân của tủ kính trưng bày rồi lồm cồm bò về phía trước, chờ từng giây để cảm thấy những móng vuốt của con chim cắm vào da thịt ở vùng cổ. Các cơ lưng của cậu co thắt lại vì đau. Mắt vừa thoáng thấy một đám lông vũ màu nâu vụt tới, cậu nhào ngay sang một bên, nhưng rồi thấy mọi vật vẫn bất động, Sherlock nhìn kĩ hơn và nhận ra đó là một con chim cắt nhồi rơm được đặt đằng sau chiếc tủ kính. Cậu ở gần con chim đến nỗi có thể thấy được những đường chỉ may ở phần cổ và lớp bụi nằm trên cặp mắt thủy tinh đen lánh của nó.

Thận trọng, cậu ngẩng đầu nhìn lên.

Không thấy con chim ưng đâu cả.

Sherlock đứng dậy và nhìn quanh quất, đảo mắt tìm ở mọi góc mờ tối, mọi xó xỉnh bị che khuất. Chẳng có gì cả.

Con chim ưng đã biến mất.

Cậu nghe tiếng chim vỗ cánh ở một nơi xa xăm nào đó, nhưng đó chỉ là những âm thanh dội vào các bức tường trống nên không biết được chúng xuất phát từ đâu.

Sherlock dựa lưng vào mặt kính của chiếc tủ. Cậu cảm thấy cái lạnh từ mặt kính xuyên qua hai lớp áo khoác, vào cả chiếc áo sơ mi.

Cách xử trí tốt nhất lúc này là gì? Cậu có thể đi tiếp, nhưng như thế chỉ đưa cậu đến một nơi xa lạ. Hay là quay lại tiền sảnh. Cậu có thể đứng đó chờ Amyus Crowe, hoặc đi qua khu vực trưng bày động vật lưỡng cư và bò sát để tìm ông ta.

Sherlock chợt nghĩ, có khi nào Amyus Crowe đang sống mái với một con cá sấu, hoặc một loại thằn lằn lớn như con vật mà cậu với Matty và Virginia đã gặp phải tại Mỹ, tương tự như cảnh Sherlock đang chiến đấu với một con chim ở khu vực chim nhồi rơm không. Ý nghĩ này rõ ràng là ngốc nghếch – không lý nào những con thú nhồi rơm lại sống dậy và thoát ra khỏi các tủ trưng bày – nhưng suy nghĩ này cũng làm đầu óc cậu căng lên. Một con chim ưng còn sống đang làm gì trong một bảo tàng nhỉ? Thậm chí nó đang làm gì tại London này? Và tại sao vuốt của nó lại được gắn đầy cựa sắt bén như dao cạo?

Chỉ có một câu trả lời cho tất cả các câu hỏi – rõ ràng con chim này có chủ, người chủ có một cái còi, và anh ta sử dụng con chim để giết chết Sherlock hoặc làm cho cậu bị thương. Có lẽ họ đã theo dõi cậu và Amyus Crowe đến bảo tàng hoặc, có nhiều khả năng hơn, họ lấy bảo tàng làm căn cứ điều hành và phát hiện ra hai người khi họ đi vào bảo tàng.

Như để xác nhận giả thuyết của cậu, một tiếng huýt ngắn lại vang lên cắt ngang bầu không khí im lặng nặng nề - tiếng huýt còi có ba nốt, như một tín hiệu để gọi con chim ưng. Ngay lập tức Sherlock nghe tiếng con chim đập cánh. Một bóng đen chấp chới trên trần nhà, bóng con chim được ánh nắng rọi qua cửa sổ trên mái và phản chiếu trên mặt kính của tủ trưng bày, và biến mất sau khi con chim bay qua.

Rồi tất cả lặng lẽ trở lại.

Sherlock cố di chuyển hết sức lặng lẽ về phía cửa lớn mà cậu đã đi vào. Mắt cậu đảo nhìn mọi hướng, cố gắng tìm xem cuộc tấn công sắp tới xuất phát từ hướng nào.

Bụi nhét đầy trong mũi. Sherlock cảm thấy muốn hắt hơi. Cậu lấy tay bóp chặt đầu mũi, thật mạnh cho đến khi kích thích hắt hơi giảm đi. Điều cuối cùng mà cậu muốn làm là thu hút sự chú ý của con chim ưng. Nhìn quanh, Sherlock phân vân không biết hiện giờ mình đang ở đâu. Cậu không nhận ra mấy con chim đứng trong tủ kính. Cậu nghĩ đó là chim đại bàng, nhưng bộ lông của chúng lại trắng tuyền và có nhiều khoang quanh cổ.

Sherlock chưa hề gặp những mẫu vật này khi bước vào khu trưng bày. Chắc là còn một lối đi nữa mà cậu bỏ sót.

Nên tiếp tục đi hay quay lại?

Cậu quyết đi tiếp. Nếu may mắn cậu sẽ tìm được một lối ra khác.

Nếu không may, thì con chim ưng sẽ tìm ra cậu. Hoặc chính chủ nhân của nó sẽ tìm.

Vừa đi cậu vừa đảo mắt nhìn các tủ trưng bày. Chiếc tủ ở sát ngay phía bên trái cậu chứa một con chim săn mồi màu nâu có chiếc mỏ sắc. Cậu chăm chú nhìn khi đi qua, nhưng một cái gì sâu trong đầu đang nhắc cậu phải cảnh giác. Cậu nghĩ chắc có nét giống nhau giữa con chim đứng trong tủ và con chim ưng suýt móc mắt mình, nhưng khi con chim trong tủ quay đầu nhìn theo, cậu mới nhận ra rằng nó không hề ở trong tủ, bởi vì chiếc tủ đang trống không – cậu đang nhìn xuyên qua tủ kính và con chim đang đậu trên một cái gờ nằm phía sau tủ. Con chim ưng vẫy mạnh đôi cánh đồ sộ và bật dậy. Nó lắc lư giây lát để giữ thế cân bằng trên đầu chiếc tủ trống rồi lao thẳng về phía Sherlock. Theo phản ứng tự vệ, cậu giơ chéo hai cẳng tay lên để che mặt. Con chim nhào vào cậu, dùng vuốt và cánh tấn công. Những cái cựa sắt cố quặp lấy cánh tay cậu, nhưng chỉ xé toạc được ống tay của chiếc áo khoác. Hai cánh của nó đập mạnh vào vùng mang tai cậu những cú mạnh như cú đấm của võ sĩ quyền Anh. Một chiếc vuốt đã cắt xuyên qua lớp vải của áo khoác và áo sơ mi, cậu cảm thấy có một đường sướt nóng bỏng chạy dọc theo da thịt cánh tay trái, rồi sau đó máu tươm ra, thấm vào lớp vải. Lúc con chim tấn công, cậu nhắm mắt ngay theo vô thức, nhưng giờ mở mắt ra cậu thấy cái đầu của nó chỉ cách đầu mình có vài tấc. Con chim lùi lại, gom móng vuốt để giữ thăng bằng và chuẩn bị chĩa cái mỏ nhọn hoắt vào mắt phải của Sherlock. Vừa hoảng sợ vừa tức giận, cậu vung mạnh bàn tay phải. Các đốt của nắm tay tống mạnh vào ngực con chim, đẩy nó ra xa. Con chim vỗ cánh bay lên, nhưng thay vì bỏ đi nó lại nhắm về phía Sherlock. Lấy một cánh tay che mặt, cậu dùng cánh tay kia giáng trả một đòn. Nếu đánh trúng chắc chắn sẽ làm cho nó gãy cánh, nhưng con chim lại quá nhanh nhẹn. Nó chuyển hướng bay để tránh cú đấm của Sherlock. Cậu đưa mắt nhìn con chim bay đi, lướt dọc theo khoảng trống giữa các tủ trưng bày, sải cánh lượn chúi xuống gần sát đất rồi nó đập cánh bật lên ngay theo một vòng cung gần như dốc đứng để tránh cái tủ trưng bày ở phía trước.

Sherlock ngồi thụp xuống chừng vài phút, hai tay thõng xuống gối, thở khò khè. Cậu cảm thấy máu đang đẩy nhanh trong các động mạch cổ và đập thình thịch vào hai thái dương. Cậu bật người đứng thẳng dậy và nhìn xung quanh. Có nhiều cặp mắt đang nhìn theo cậu chằm chằm nhưng tất cả chỉ là mắt thủy tinh. Cậu dò tìm xem có dấu hiệu nào của con chim trong những khoảng tối trên trần cao, mà không thấy đâu. Nhưng nó có thể nhìn thấy cậu. Cậu cảm nhận được điều đó.

Người nào là chủ của con chim chắc hẳn đã nghĩ rằng Sherlock sẽ thoái lui lần nữa, theo lối cửa ra mà trước đó cậu đã nhắm tới.Vì thế cậu bước theo hướng mà con chim ưng đã bỏ đi. Ít nhất, đây cũng là một yếu tố bất ngờ.

Cậu đến bên tủ trưng bày lớn lúc này không còn con chim ưng ở đó nữa. Bên trong là một bầy chim nhỏ hơn đứng trên những sợi dây, xòe cánh như thể đang bay. Tại đây, lối đi tỏa ra hai bên trái và phải. Cậu chọn đại phía bên phải, đi ngang qua gian trưng bày chim hải âu. Tới đầu kia, lối đi rẽ sang phải. Cậu dừng lại đó, và nhìn kĩ vào góc nhà.

Phía trước là một khu vực không bày biện gì, tận cùng có một cánh cửa gỗ lớn dường như mở vào phòng bên cạnh. Ánh nắng chói chang chiếu vào các khung cửa sổ cao từ sàn nhà lên đến trần ở hai bên. Đứng giữa phòng là một người đàn ông qua bóng chiếu của luồng ánh sáng từ khung cửa sổ đằng xa. Ông ta đứng quay lưng lại phía cửa lớn. Sherlock hầu như không thấy được điểm gì đặc biệt ngoại trừ cảm tưởng chung về một thân hình đồ sộ với vai rộng. Ông ta đang tì một tay trên chiếc gậy để giữ thế, tay kia dang ra đỡ lấy thân hình con chim ưng. Rõ ràng là con vật đang cảm thấy bất ổn: đầu nó lắc qua lắc lại, nhấp nhổm hai chân như muốn chuyển sức nặng của thân mình từ chân này sang chân khác. Người đàn ông nói với nó bằng một giọng điềm tĩnh và dần dà con chim dịu lại, đứng yên, đầy cảnh giác.

Người đàn ông nghiêng đầu nhìn qua hai bên. Con chim làm theo. Sherlock ngoảnh mặt ra sau để tránh bị phát hiện.

Phải làm gì bây giờ?

Cậu không thể tiến đến cánh cửa trước mặt. Người đàn ông kia đang ngáng đường. Cậu phải quay trở lại chỗ cánh cửa mà cậu vừa bước qua.

Một ý tưởng lóe lên trong đầu. Cậu cởi giày ra bỏ vào trong túi áo khoác. Mang vớ đi sẽ ít gây tiếng động trên sàn gỗ cứng. Cậu quay ra sau, rồi rẽ và chạy dọc theo lối đi. Cậu lạc mất không tìm đúng đường, nhưng đây là viện bảo tàng chứ không phải là mê cung. Miễn là cậu nhắm đúng hướng, rồi thế nào cũng ổn.

Cậu rẽ phải rồi rẽ trái. Chỗ nào cũng có lũ chim đang nhìn cậu chằm chằm bằng đôi mắt lạnh lẽo. Có lẽ cậu đã thấy chúng rồi, hoặc chưa. Những bóng chim lờ mờ hòa vào nhau.

Có một cái tủ kính trưng bày trống không! Chính đây là chỗ cậu đã nhìn thấy con chim ưng xuyên qua lớp kính, khi nó đậu vào cái gờ trên tường. Cậu nghĩ rằng từ chỗ này trở đi mình đã biết đường ra. Chỉ hai chỗ ngoặt nữa…

Một cái gì đó đột ngột giáng xuống lưng giữa hai xương bả vai, xô cậu ngã xuống. Những chiếc vuốt cắm vào lớp cơ lưng, xé toạc lớp vải áo khoác và áo sơ mi như thể xé lớp giấy lụa. Nghĩ đến giây phút chiếc mỏ chim mổ vào gáy khiến người cậu như nổi gai ốc. Cậu lăn tròn cố tìm cách đè con chim dưới thân mình, nhưng nó lại quá nhanh nhẹn so với cậu. Nhả vuốt ra, con chim ưng nhảy vài bước dọc theo hành lang rồi vỗ cánh bay đi. Cú quạt cánh mạnh để lại một vài cái lông vũ bay bồng bềnh trong không khí.

Sherlock lẩy bẩy đứng dậy. Cậu không thể chịu đựng nhiều hơn nữa.

Cậu lại nghe tiếng huýt của người đàn ông to lớn, chủ nhân con chim, lần nữa.

Ở tận đầu kia của lối đi, con chim ưng bất ngờ bật dựng lên, rồi dừng lại và dường như muốn lượn một vòng giữa không trung khi nó vẫy nhẹ đôi cánh. Rồi nó nhắm theo hướng lối đi giữa phòng lao xuống người cậu như một quả đạn có lông.

Sherlock tì tay trái vào cái tủ kính trống sát bên hông để lấy điểm tựa. Cánh cửa kính chuyển dịch một chút dưới các ngón tay của cậu. Cửa tủ không khóa. Ai đó giữ nhiệm vụ bố trí các vật trưng bày đã quên khóa tủ kính này khi lấy đi các vật liệu liên quan đến thú nhồi rơm và phong cảnh làm nền cần thiết.

Con chim đã bay được nửa quãng đường. Đường bay đang chúi xuống sàn nhà, nhưng một cú vẫy cánh mạnh đã làm nó tăng tốc và bốc lên cao.

Nó đang nhắm tới cổ họng của cậu.

Sherlock chụp lấy phần giữa của khung cửa. Không còn thời gian để tính toán có đúng thời điểm hay không, cậu chỉ làm theo bản năng mà thôi.

Khi con chim chỉ còn cách chừng hai thước, cậu giật mạnh cái khung cửa. Cánh cửa kính bật mở ra ngay trên đường bay của con chim ưng. Con chim đâm sầm vào tấm kính, xuyên qua tấm kính, và rơi nhào xuống đất, bộ dạng đầy hoảng sợ, trong khi các mảnh kính vỡ rơi loảng xoảng. Sherlock nhìn thấy con vật lắc lắc cái đầu và cố đứng dậy. Cậu không thấy nó chảy máu, hai cánh dường như không hề gì, nhưng chắc chắn là không còn bay tiếp được nữa. Con thỏ đã bất ngờ phản công và cắn lại.

Sherlock ngước nhìn dọc theo lối đi. Ở tận phía xa là một người đàn ông to lớn đang đứng chống gậy. Tuy đó là một cái bóng đen nổi trên nền sáng mặt trời phía sau lưng, nhưng Sherlock cảm nhận là tia mắt ông ta như đâm xoáy vào trán mình, cái cảm giác mà Sherlock từng trải qua khi con chim ưng nhìn trừng vào gáy cậu.

Cậu cảm thấy dễ chịu hơn nhiều khi vẫy vẫy tay chào, rồi quay lại đi về phía cánh cửa mà cậu đã băng qua trước đó. Cậu không quan tâm đến việc cánh cửa có khóa hay không. Cậu vừa hạ nốc ao con chim ưng giết người, nên cánh cửa bị khóa chỉ là trò trẻ con.

Quả thực là cánh cửa còn bị khóa, nhưng khi cậu đến gần, có ai đó đang đập mạnh và lên tiếng kêu cửa. Một lúc sau, có tiếng mở khóa, rồi cánh cửa mở toang ra. Một người đàn ông mặc đồng phục bảo vệ suýt ngã nhào vào.

“Chuyện gì xảy ra thế này?” Ông ta kêu lên. “Ai đã khóa cái cửa này?”

“Ông phải biết chứ.” Sherlock trả lời. “Chính ông là người giữ chìa khóa mà.”

Người bảo vệ nhìn lướt mớ quần áo tả tơi và người Sherlock dính đầy máu, kinh ngạc hỏi. “Việc gì đã xảy ra ở đây? Tôi nghe có tiếng kính vỡ.”

Sherlock suýt buột miệng kể cho ông ta mọi thứ, nhưng cậu kịp dừng lại. Việc này giống như cậu bịa chuyện để che đậy hành vi phá hoại vậy. Ai mà tin có một con chim ưng còn sống tấn công cậu được? Phải giải thích và biện giải hàng tiếng đồng hồ nữa, trong khi cậu còn phải tìm gặp Amyus Crowe để báo cho ông ta biết những gì đã xảy ra.

“Một trong những cánh cửa của tủ trưng bày bật ra khi tôi đi ngang,” Sherlock nói giọng mệt mỏi. “Cửa kính vỡ tung. Tôi bị thương. Tôi phải báo cáo việc này cho ai đây?”

“Báo cáo à?” người bảo vệ lập lại.

“Vâng, tôi bị thương. Tôi sẽ gặp ai để đòi bồi thường?”

Người bảo vệ khựng lại, vẻ mặt bối rối. “Cậu nên gặp người phụ trách,” giọng ông ta có vẻ bình tĩnh hơn nhiều so với lúc trước.

“Tôi tìm ở đâu?”

“Tại phòng làm việc. Nằm giữa phòng trưng bày khỉ và thú móng guốc.”

“Cám ơn ông.” Rồi với một phong thái hết sức đĩnh đạt, Sherlock bước đi.

Cậu rảo nhanh qua nhiều dãy trưng bày, nhắm về phía lối ra vào chính. Cậu phải tìm gặp Amyus Crowe để báo cho ông ta biết những gì đã xảy ra. Dĩ nhiên, nếu ông Crowe không bị cái gì đó tấn công.

Cậu gặp ông Crowe tại một tiệm trà nhỏ nằm ở phía bên kia cầu thang chính. Ông đang ngồi vắt vẻo trên một cái ghế sắt uốn sơn màu trắng, nhấp từng hớp trà trong một cái chén sứ trông giống một thứ đồ chơi búp bê trong bàn tay to tướng của mình. Nhiều cành cây giả được cắm trên tường vôi, bên trên có những chiếc lá bằng vải, và bầy chim vẹt, chim thiên đường nhồi rơm rất nghệ thuật. Bộ lông vũ của chúng rực rỡ các sắc màu xanh lục, đỏ, xanh dương và vàng óng ánh như các thứ đồ trang sức. Tiệm trà hầu như không có khách, nếu không tính đến một người đàn ông ngồi đọc báo một mình trong góc phòng, và hai bà cụ đang tán gẫu gần cửa sổ. Một thanh niên mặc quần đen, áo khoác sọc đi lại giữa mấy cái bàn, phủi các vụn bánh mì còn sót trên khăn bàn.

“Xem ra cháu có thể thanh toán hết một khoanh bánh bông lan đấy,” Crowe nhìn bộ dạng của Sherlock từ đầu tới chân rồi dè dặt nhận xét. “Có lẽ cháu phải kêu thêm một ly nước chanh nữa.”

“Thế chú không muốn biết chuyện gì đã xảy ra à?” Sherlock rên rỉ, ngồi thụp xuống một chiếc ghế ở phía bên kia bàn.

“Nhìn bộ dạng của cháu là chú biết gần hết chuyện,” Crowe đáp lời. “Chú có thể nói là cháu đã bị một con gì đó tấn công. Cháu hạ được nó, nhưng cũng bị xây xát chút ít. Nhưng là con gì vậy?” Ông ta ngừng lại. “Không, không cần nói.” Ông ta cau mày. “Một con chim, đại bàng phải không? Không phải, nó nhỏ quá. Chú đoán là một con chim ưng, căn cứ theo kích cỡ vết rách trên quần áo cháu.”

“Cháu đang ở trong gian trưng bày chim săn mồi thì bị một con chim săn mồi tấn công.”

“Chú đoán rằng không phải là một con chim nhồi rơm chứ.”

“Một con chim thực sự,” Sherlock cáu.

“Đương nhiên rồi,” Crowe nói giọng thân thiện. “Chú chỉ đùa chút thôi.”

Sherlock nhìn kĩ người cố vấn dày dặn kinh nghiệm của mình. Bộ quần áo bình thường vốn trắng tinh của Crowe có vẻ nhăn nhúm ở chỗ ve áo như thể bị ai túm kéo, và ống tay áo bên trái mất một chiếc nút. Tóc tai bù xù như bị một trận gió xới tung lên. “Chú cũng có vẻ không hấp dẫn lắm,”

Sherlock lên tiếng. “Chuyện gì đã xảy ra ạ?”

Crowe nhăn mặt. “Chú đang tự hỏi không biết cháu có nhận ra không đấy. Chú thấy có một cánh cửa lớn dẫn tới một số phòng làm việc, chú muốn xem có chuyện gì ở bên trong. Chú chuẩn bị sẵn lý do - như đi tìm nhà vệ sinh chẳng hạn – nhưng thay vì gặng hỏi sự hiện diện của chú, thì một tay nào đó tính tẩn vào lưng chú bằng dùi cui. May mà chú nhìn thấy bóng khi chúng vụt vào, nên chú thụp đầu xuống né đúng lúc. Cũng có xô xát một chút, và chú bị đẩy vào một khung cửa, nhưng kẻ tấn công chú chắc thấy rằng yếu tố bất ngờ không còn nữa, và chú cũng không phải là tay dễ chơi, nên hắn lẩn mất còn chú thì cố hoàn hồn.” Ông thở phì. “Chú chỉ biết người tấn công chú là một gã to con, sử dụng dùi cui khá thành thạo thế thôi.”

“Như vậy cả cháu lẫn chú đều bị tấn công,” Sherlock lên tiếng. “Tức là ta đang theo dõi đúng hướng.”

“Chú không chắc là việc mình bị tấn công có liên quan đến việc điều tra không, hoặc đó chỉ là một vụ trấn lột nhầm, nhưng kết hợp với vụ cháu bị tấn công, chú đoán rằng chúng ta đã bị họ phát hiện.”

Sherlock nhìn quanh. “Chú có nghĩ rằng ngay cả lúc này chúng ta cũng đang bị theo dõi không?”

Crowe gật đầu. “Cũng không có gì ngạc nhiên.” Ông nhìn quanh căn phòng, ngó người đàn ông đang đọc báo, hai bà cụ đang mãi mê tán gẫu và người chạy bàn mặc áo gilê sọc. “Cũng có thể ông chủ của cái cơ ngơi đẹp đẽ này không làm mấy chuyện đó. Nhưng không chắc lắm về gã mặc quần áo diêm dúa nhận thực đơn gọi món.”

“Vấn đề là cháu không phát hiện được cái gì cả,” Sherlock nói. “Chẳng có gì đáng chú ý cả.”

“Cháu có thể cảm thấy ngạc nhiên,” Crowe nói. “Theo những gì chú biết về cháu, chú nghĩ rằng cháu đã thu thập được một số chi tiết có thể giúp ích cho chúng ta đấy.”

“Thế chú đã phát hiện ra cái gì phải không? Trước khi chúng ta bị tấn công?”

Crowe nhún vai. “Chú đã nhìn kĩ xung quanh, kể cả một số khu vực mà công chúng không được phép vào, nhưng phải thừa nhận chỉ là công cốc. Nếu có thứ gì đã xảy ra ở đây tức là chú đã bỏ qua một số dấu hiệu.”

“Chúng ta có đủ thông tin để báo cho cảnh sát không?” Sherlock hỏi. “Ta không thể tự điều tra nơi này được. Không phải vì Viện Paradol đã biết rằng ta đang ở đây lúc này.”

Crowe gật đầu. “Chúng ta đều bị tấn công. Thế là có đủ lý do để lôi cảnh sát vào cuộc, nếu may mắn ta sẽ tìm được lí do để tố cáo trong khi họ đi tìm bọn đã tấn công chúng ta.” Ông vỗ mạnh tay lên bàn, làm tách trà khua lách cách trên chiếc đĩa. “Ta phải tìm ra bọn chúng.”

Ông đứng bật dậy. “Chắc cháu không ăn được miếng bánh bông lan rồi. Giờ thì ta quay lại đồn cảnh sát đường Bow để nộp đơn khiếu nại thôi.”