CHƯƠNG 8
“Chú Crowe,” Sherlock hỏi, “chuyện gì đã xảy ra với anh cháu. Chuyện gì xảy ra với Mycroft?”
Đó là buổi sáng sau chuyến phiêu lưu của họ vào viện bảo tàng, và giờ đây họ đang ngồi ăn sáng tại khách sạn Sarbonnier, khách sạn mà Sherlock đã từng ở khi đến London lần trước. Crowe thức dậy sớm và đi ra ngoài trước khi Sherlock thức giấc, nhưng khi Sherlock đi xuống dùng bữa sáng thì ông cũng vừa trở về khách sạn.
“Tin tốt lành là anh cháu đã được bảo lãnh tại ngoại,” Crowe trả lời.
“Vậy là nghĩa sao ạ?”
“Nghĩa là ai đó – trong trường hợp này là câu lạc bộ Diogenes – đã nộp một mớ tiền mặt để ký quĩ cho tòa án.
Toà án quyết định cần phải nộp ký quĩ bao nhiêu, số tiền ký quĩ này phải lớn để làm nản lòng nghi can nếu họ muốn bỏ trốn. Nếu anh cậu biến mất trước khi đưa ra xét xử - nếu có xét xử thực sự - thì món tiền sẽ bị tịch thu.” Ông cười to. “Nói cho cùng, nếu chỉ mất năm đồng silinh mà được bảo lãnh tại ngoại, thì can phạm nào có một tí tiền cũng sẽ được thả ra trong vòng ba mươi phút, và phần lớn bọn họ đều chuồn ngay sau đó.”
“Thế phải tốn bao nhiêu để bảo lãnh cho anh Mycroft được tại ngoại?”
“Chú tin rằng khoản tiền này phải lên đến năm ngàn pound.”
Sherlock nhăn mặt. “Vậy Mycroft bây giờ đang ở đâu ạ?”
“Cậu ta vừa thảo luận với luật sư vừa thưởng thức bữa điểm tâm thịnh soạn tại Câu lạc bộ Diogenes. Chú đã gởi cho Mycroft một bức điện tín báo tin rằng cháu an toàn, hiện giờ đang ở tại khách sạn Sarbonnier. Cậu ta có thể gặp chúng ta sau.”
“Làm sao câu lạc bộ Diogenes giải quyết được khoản tiền mặt?” Sherlock hỏi.
“Chắc chắn rằng họ có một quĩ riêng do các hội viên đóng góp để được tư vấn và hỗ trợ pháp lí khi cần thiết.” Bỗng dưng vẻ mặt ông Crowe trở nên ủ rũ. “Cái lạ là chú không thấy các sếp của anh cháu ra tay. Họ hoàn toàn kín tiếng về toàn bộ vụ việc. Chú cho rằng họ không muốn thiên hạ thấy họ can thiệp, biết họ là cơ quan chính phủ, tức là có liên quan đến lực lượng cảnh sát.”
Sherlock trầm ngâm một lúc. “Nhưng người đàn ông mà chúng ta gặp – cái gã tấn công cháu dưới đường hầm nhà ga Waterloo ấy. Hắn thú nhận là Mycroft bị gài bẫy. Một người khác mới là hung thủ gây án mà.”
“Thực tế là vậy, nhưng cảnh sát cần phải có thời gian thu thập chứng cứ để minh oan cho anh cháu. Điều quan trọng là luật sư của câu lạc bộ Diogenes có thể đã hướng họ đi đúng đường.” Crowe nhướng mắt. “Điều làm chú lo lắng là kẻ dàn cảnh mưu hại Ngài Homes vẫn còn đang nhởn nhơ ngoài kia, và chúng ta cũng không biết được động cơ cũng như việc làm sắp tới của chúng.”
“Chú có nghĩ là họ có thể sẽ gài cho anh cháu dính một vụ mưu sát khác không?”
Crowe nhún vai. “Cũng không loại trừ khả năng này, nhưng mà nếu thoát được vụ này - giả sử là vậy - thì cũng dám chắc sẽ thành công với vụ khác. Có một câu mà bọn chú thường nói, tận thời Nội chiến: xảy ra một lần là tình cờ, xảy ra hai lần là hành động của kẻ địch. Ngay cả cảnh sát cũng biết thế. Không, chú cho rằng ta phải chuẩn bị đối phó với một cái gì đó sắp xảy ra. Một âm mưu khác nữa.”
“Vậy chúng ta phải làm gì đây? Làm sao để bảo vệ Mycroft?”
Crowe nhìn Sherlock hồi lâu. Cặp mắt xanh của ông lộ ra vẻ ôn hoà, nhưng Sherlock biết rằng chúng có thể nhìn thấu hết mọi việc. “Cháu rất trung thành với anh mình, phải không? Một số cậu bé tuổi cháu cứ để người lớn tự xoay xở việc của họ, còn cháu thì không. Cháu muốn bảo vệ anh mình.”
Sherlock quay đầu đi để ông Crowe không thấy những giọt nước mắt. “Cha cháu đang ở Ấn Độ,” cuối cùng cậu nói, “và mẹ cháu đang ốm. Còn chị gái thì… chẳng thể giúp gì được. Anh Mycroft chỉ có mình cháu, cháu cũng chỉ có anh ấy. Chúng cháu phải chăm sóc cho nhau.” Cậu cười, tự giễu mình. “Và chắc chú cũng nhận thấy anh cháu không phải là người nhanh nhảu hay lanh lợi nhất. Đi từ đầu này đến đầu kia thành phố anh ấy cũng cần có người giúp.” Cậu bật cười. “Có lần cháu nghe kể là anh ấy được mời ăn cơm tại nhà người nào đó ở nông thôn. Bình thường anh ấy không nhận lời mời, nhưng chủ nhân ngôi nhà vốn có một hầm rượu ngoại hạng và bà đầu bếp nổi tiếng với các món tráng miệng, cho nên anh cháu đặc biệt cố gắng. Anh thuê một chiếc xe ngựa đi đến sân ga, đáp tàu lửa khoảng một giờ, rồi kiếm một chiếc xe bò đi thêm năm dặm mới tới ngôi nhà. Phần cuối của chuyến đi là phải cuốc bộ trèo lên con dốc ngắn mới đến được cửa trước ngôi nhà, nhưng anh cháu ngước nhìn cái dốc rồi quay lại, bảo người đánh xe chở về nhà ga. Anh cháu là kiểu người như vậy. Rất thông minh, nhưng không thiết thực.”
“Và cháu vẫn cứ yêu anh mình phải không?”
“Anh ấy là anh cháu. Dĩ nhiên là cháu yêu anh mình.” Cảm thấy không được thoải mái khi đề cập đến các tình cảm riêng tư, Sherlock liếc nhìn Crowe một cái rồi hỏi: “Chú có anh em chứ?”
Mặt ông Crowe dường như đanh lại. “Thôi đừng nói chuyện đó nữa,” ông nói, giọng nghe như hai hòn đá chà xát vào nhau.
Trong một lúc họ không nói gì thêm, chỉ ngồi ăn sáng. Cuối cùng, Crowe nhìn quanh và hướng về phía một người hầu bàn đang dọn bữa sáng cho một gia đình ở gần đó. “Hãy nói cho chú biết cháu nhớ được những gì mà chú vừa dạy xong. Nói vài điều về anh ta cho chú xem nào?”
Sherlock xem xét. “Cháu nhớ là đã gặp anh ta lần trước ở đây.” Cậu nhìn anh chàng nọ từ đầu xuống chân. “Bộ đồng phục của anh ta có vẻ hơi ngắn, cái quần đã sửa đi sửa lại nhiều lần. Rõ ràng là anh ta mặc nó lâu ngày mà chưa có cái mới. Hoặc là do lương thấp hoặc anh ta tiêu vào việc khác. Nhưng đôi giày lại mới tinh, bóng lộn, chẳng phù hợp với bộ đồng phục mấy.” Sherlock nhìn kĩ vào khuôn mặt và đầu tóc anh ta. “Anh này dùng dầu bôi tóc Macassar.” Cậu hít hít mũi. “Đúng rồi, cháu có thể ngửi ra chút mùi hoa nhài, mùi hoa cam và dầu dừa. Dầu Macassar chẳng hề rẻ. Vì thế, cháu cho rằng anh này dành phần lớn tiền lương để mua những thứ làm cho mình hấp dẫn đối với phụ nữ - như dầu bôi tóc, giày, và kể cả quần áo anh ta mặc lúc không làm việc, cháu đoán thế. Tất cả cho thấy anh ta không có vợ.” Cậu nhún vai. “Chỉ có bao nhiêu đó thôi.”
“Nếu chú cho cháu biết là anh ta đã ba lần bị buộc tội móc túi thì sao nào,” Crowe nói, “và có thời gian đã ngồi tù. Người gác cửa cho chú biết đấy. Viên quản lý khách sạn nhận anh ta vào chẳng qua vì anh ta là con của chị gái mình.”
Sherlock nhìn kĩ hơn người hầu bàn. “Anh ta cứ quanh quẩn mãi bên cạnh ông bố bên kia,” cậu phát hiện. “Có lẽ rình cơ hội để xoắn thứ gì đó trong ví của người ta.”
Khi Sherlock theo dõi, người hầu bàn đánh rớt con dao. Lí nhí xin lỗi gia đình khách hàng, anh ta cúi xuống để nhặt lên.
“Nhìn kìa!” Sherlock nói gấp gáp. “Cháu nghĩ rằng anh ta cố ý đấy. Anh ta cho tay vào túi áo khoác của ông bố khi mọi người mãi chú ý tới con dao kìa!”
“Đúng ra là thế này,” Crowe thú nhận, “anh ta không hề bị buộc tội móc túi. Chú bịa ra đấy. Anh ta tham gia dàn đồng ca Tu viện Westminster, dù rằng anh ta chỉ là cháu họ của viên quản lý mà thôi.”
Hơi hoang mang, Sherlock nhìn lại những gì đang xảy ra tại bàn ăn bên kia. Những gì mà ít phút trước đó tỏ ra đáng ngờ, thì giờ đây lại hoàn toàn rõ ràng, khi người hầu bàn đứng lên với con dao trong tay.
“Có đúng thế không?” Cậu lên tiếng.
“Không,” Crowe nói. “Chú cũng bịa ra đấy. Thực ra năm ngoái anh ta có đâm một người khi ẩu đả trong một quán rượu, nhưng vụ án này bị hủy vì không có ai chịu đứng ra làm chứng chống lại anh ta.”
Cũng khung cảnh như thế - chiếc bàn, cả gia đình ngồi xung quanh, người hầu bàn đứng bên cạnh, giờ đây đối với Sherlock trở nên hoàn toàn khác hẳn. Người hầu bàn lúc này dường như đang cầm con dao lăm le kê vào cổ người bố.
“Điều đó cũng không đúng nữa phải không?” cậu hỏi đầy bực bội.
“Cũng không luôn,” Crowe thú nhận. “Thực ra chú cũng không biết gì về người hầu bàn trừ mấy nhận xét từ quần áo, đầu tóc và bàn tay. Chú cũng không biết gì về lý lịch của anh ta. Ý chú là những gì chúng ta thấy khác nhau là do cách chúng ta dán nhãn lên sự việc, và những cái nhãn này căn cứ trên những gì chúng ta biết được - hoặc nghĩ rằng chúng ta biết được. Một khối óc sành sỏi sẽ loại bỏ những cái nhãn có sẵn và sử dụng các sự kiện thực tế cùng suy luận. Một đầu óc sành sỏi còn khai thác cách người khác suy nghĩ để hướng họ theo một lối nhất định, và buộc họ phải làm một việc nhất định gì đó.
Sherlock định hỏi Crowe nhiều hơn nữa về tiết lộ thú vị rằng người ta có thể thao túng suy nghĩ của người khác qua lời nói có chủ ý, thì từ phía bên kia khách sạn có người lớn tiếng gọi họ.
“Sherlock, ông Crowe – tôi tham gia được không?”
“Anh Mycroft!” Sherlock reo lên.
Mycroft thong thả đi đến chỗ bàn hai người đang ngồi. Quần áo anh tươm tất như thường lệ - bộ complet và áo khoác ủi rất thẳng, mũ chải kĩ không chê vào đâu được – nhưng da lại tái xám, còn đôi mắt như của một người mới vừa thấy những gì mà anh ta mong không phải nhớ tới.
“Ngài Holmes,” Crowe vừa nói vừa đứng dậy. “Mời ngồi. Tôi có thể gọi cho anh một bình cà phê, hoặc trà nhé?”
“Trà thì tốt hơn,” Mycroft nói, đặt thân hình xuống một chiếc ghế xem ra hoàn toàn không phù hợp với sức nặng của anh. “Nếu có ăn sáng thì tuyệt vời hơn.”
“Em cứ nghĩ là anh đã ăn sáng với luật sư rồi chứ,” Sherlock lên tiếng.
Mycroft nhìn cậu em với vẻ trách móc. “Anh hoàn toàn không biết đạo luật cấm không được dùng hai bữa điểm tâm trong một buổi sáng được thông qua rồi đấy, và thật lòng mà nói, bữa sáng vừa qua không hề xứng với tên gọi nó. Bánh nướng thì ẩm, thịt muối mềm xèo, bánh pudding đen thì bở quá. Không nói đến món mứt. Anh vắng mặt tại Diogenes mới có một ngày mà mọi thứ ở đó đã trở thành bê bối. Nuốt mấy thứ đó chỉ làm anh đói thêm và chỉ muốn tìm một bữa sáng ra trò, mà anh nghĩ ở đây mới có được.” Crowe ra hiệu cho người hầu bàn mang một khay điểm tâm khác và một bình trà. Mycroft theo dõi ánh mắt của Crowe và nhìn chăm chú vào người hầu bàn một lúc. “Na Uy phải không?” anh hỏi ông Crowe.
“Phần Lan,” Crowe trả lời.
“Đúng thế, tất nhiên rồi.” Mycroft lắc lắc cái đầu. “Mới bị tạm giam có một tí mà khả năng lí luận của tôi đã đi tong.”
Ông Crowe bắt gặp cái nhìn của Sherlock. “Chú biết mình có nói là không hề biết gì về anh ta,” ông ta nói, “nhưng điều này cũng là dối. Gia đình anh ta từ Phần Lan đến – cứ xem kiểu cắt tóc của anh ta thì rõ.”
“Nhưng tại sao lại nói dối?” Sherlock phản đối.
“Đây là một thực tế kì quặc trong cuộc sống,” Crowe nói, “nếu một người Anh phát hiện một người khác nói dối một lần, hoặc ngay cả hai hay ba lần, họ vẫn cho rằng người kia rồi sẽ nói thực. Nhưng chú lại nghĩ có gì đó lệch lạc trong cách xử sự ngay thẳng của người Anh. Trên thực tế, nếu một người đã nói dối một lần thì có khả năng anh ta sẽ tiếp tục nói dối nhiều lần.”
Mycroft chuyển hướng sang quan sát Sherlock. “Anh hiểu có một việc gì đó… khó chịu đã xảy ra. Chuyện liên quan đến một con chim săn mồi. Em ổn chứ?”
“Em ổn. Thế còn anh?”
Mycroft nhún vai. “Ít nhất thì giờ đây anh có thể nói là anh đã thấy được phần đời còn lại của mình sẽ như thế nào, dù rằng kinh nghiệm không làm cho anh sáng suốt hơn. Luật sư hy vọng là những lời cáo buộc sẽ được rút bỏ vào chiều nay.”
“Anh có ý kiến gì về việc tại sao họ nhắm vào anh trước tiên không?” Crowe hỏi.
“Không có nhiều khả năng lắm đâu,” Mycroft trả lời. “Có thể có ai đó muốn trả thù tôi vì một việc gì đó, nhưng tôi không biết đó là ai hoặc việc gì. Một khả năng nhiều hơn là có người muốn tôi bị gạt ra không tham gia được vào những vụ việc sắp tới, hoặc không chạm được vào một thứ gì đó thuộc thẩm quyền của tôi và tôi có thể đưa ra cách giải quyết không mấy dễ chịu.” Anh ta nhìn sang phía Sherlock. “Em nên nhớ là anh làm việc cho Bộ Ngoại giao. Chính phủ có nhiều chuyên gia trong các lãnh vực, nhưng anh là một chuyên gia về mọi thứ. Mọi thông tin và báo cáo đều qua tay anh, và anh giữ vai trò đánh giá - để tìm sự liên kết giữa các sự việc mà thoạt nhìn không dính dáng gì với nhau. Căn cứ những sự liên kết đó người ta hoạch định chính sách ngoại giao.”
“Có việc gì đặc biệt anh phải xử lý à?” Ông Crowe hỏi.
“Tôi không nên nói đến công việc chính phủ bên ngoài phạm vi tòa nhà Whitehall,” Mycroft nói nhỏ. “À, bữa sáng của tôi đây!”
Người hầu bàn đặt trước mặt anh một chiếc khay và dỡ nắp đậy bằng kim loại ra. Mặt Mycroft nở một nụ cười khi anh thấy các món ăn. “Tuyệt,” anh nói. “Trình bày tuyệt vời, nấu cũng tuyệt vời. Xin chuyển lời khen ngợi của tôi đến đầu bếp.” Khi người hầu bàn đi khỏi, anh tiếp tục: “Vâng, như tôi đã nói, tôi không bàn chuyện nhà nước bên ngoài phạm vi tòa nhà Whitehall, nhất là với một người có nghĩa vụ hoàn toàn liên quan đến một đất nước khác, nhưng tôi tin rằng căn cứ trên sự quen biết với ông từ xưa tới nay, tôi tin rằng ông sẽ giữ bí mật, ông Crowe ạ.” Anh lấy nĩa xiên vào một tai nấm và đưa lên miệng cắn một miếng. “Ồ, tuyệt thật.”
Anh vừa nhai vừa nhắm mắt. “Vâng,” anh nói rồi mở mắt ra, “tôi đang nói tới đâu rồi nhỉ? Hiện giờ có nhiều sự kiện quốc tế liên quan đến vấn đề này, nhưng sự kiện mà tôi tin có nhiều khả năng liên quan nhất là vụ mua bán một miếng đất lớn cho nước ông gần đây, ông Crowe ạ.”
Crowe nheo mắt lại. “Tôi chưa nắm được cái tin đặc biệt này, anh Holmes ạ.”
“Tôi không hề ngạc nhiên: vụ này không được thông báo rộng rãi trên báo chí. Đại để như thế này: đâu vào khoảng năm ngoái, một vùng đất bao la được bán cho chính quyền nước Mỹ với giá tổng cộng là bảy triệu hai trăm ngàn đô la, tính bằng vàng. Cái lạ là hai từ một “khoảng đất” với một “khoản tiền” chỉ khác nhau có một chữ. Vùng đất này rất rộng, tôi tính ra chỉ có giá hai xu một mẫu, đúng là một món hời. Vùng đất này nằm ở vùng tây bắc lục địa Bắc Mỹ, phía đông giáp Canada, phía bắc là Biển Bắc Cực, phía tây và phía nam là Thái bình dương.”
“Đất này thuộc về ai trước đó?” Sherlock hỏi.
“Một câu hỏi rất đúng chỗ. Nước Nga, một đế quốc nằm bên kia eo biển Bering – tên gọi của Thái bình Dương dành cho khu vực này – là chủ nhân cũ của vùng đất trên, mặc dù trước đây cũng như hiện nay có nhiều bộ lạc thổ dân sinh sống.”
“Vùng đấy này tên là gì?”
“Người Nga gọi là Alyeska,” Mycroft trả lời, “nhưng chính phủ Mỹ đã chính thức lập ra khu hành chính gọi là Alaska.”
“Vậy là chúng ta có một vụ mua bán đất đai,” Crowe nói. “Chuyện này rất hay xảy ra tại Mỹ. Bản thân tôi cũng sở hữu một miếng đất kha khá tại Albuquerque, hiện giờ để cho người quen trông coi trong khi tôi đi vắng. Nhưng có vấn đề gì to tát đâu?”
Mycroft thở dài. “Vấn đề to tát mà ông nói, chính là việc mua bán có lẽ không hoàn toàn hợp pháp.” Im lặng bao trùm quanh chiếc bàn một lúc khi hai người còn lại nắm được tầm quan trọng từ những gì mà Mycroft vừa nói.
“Làm sao mà như thế được chứ?” cuối cùng Sherlock lên tiếng. “Hai chính phủ Nga và Mỹ chắc phải có các cố vấn pháp luật để dò từng chi tiết trong các hợp đồng chứ ạ?”
“Cũng không làm tăng thêm tính hợp lệ của hợp đồng, hơn nữa tiền cũng chưa thanh toán, lại càng làm cho vụ mua bán trên thực tế có điểm đáng ngờ về mặt pháp lý.”
“Vấn đề là,” ông Crowe ngẫm nghĩ, “phải chăng còn có người khác cũng muốn Alaska? Nếu không, thì chẳng có gì phải tranh luận và người Nga chỉ cần một cái huýt gió là lấy được tiền.”
Mycroft cho miếng bánh pudding kẹp với bánh mì nướng vào miệng. Anh thưởng thức đồ ăn một cách mãn nguyện trong giây lát, với một nụ cười sung sướng nở trên môi.
“Đây chính là lúc mọi việc trở nên khá nhạy cảm, khá riêng tư.” Cuối cùng anh nói. “Lâu nay, tôi có một “chân rết” tại Moscow. Tôi nói là “chân rết” của tôi bởi vì tuy lương và chi phí của anh ta là do Bộ Ngoại giao trả, nhưng anh ta chỉ báo cáo riêng cho tôi mà thôi.”
“Ý anh là anh ta giả vờ làm việc này nhưng thực tế lại làm việc khác phải không?” Crowe hỏi.
“Anh ta tới đó để làm phóng viên, một tay khá, nhưng ngoài ra anh ta còn cung cấp cho tôi các thông tin tình báo về Sa hoàng và triều đình Nga khi có cơ hội.” Mycroft thở dài, giơ tay đẩy cái khay ra xa. “Lượt sơ qua các thông tin tôi nhận được sáng nay – những thứ được gởi tới khi tôi bị tạm giam tại trạm cảnh sát đường Bow – tôi thấy có hai mẩu tin liên quan đến anh này. Tin thứ nhất do anh ta gởi, báo cho tôi biết là anh ta có nguồn tin chắc chắn là Đại sứ Tây Ban Nha tại triều đình Sa hoàng Alexander II đã đề nghị một số tiền vượt mức là 10 triệu đô la Mỹ để mua Alaska, mà lại trả ngay – bằng vàng - khi ký xong hiệp ước. Tin thứ hai từ một nhân viên ngoại giao của Anh tại Moscow. Họ báo cho tôi biết là tay chân của tôi đã biến mất.” Anh nâng tách trà lên môi rồi lại đặt xuống. “Sa hoàng có một lực lượng cảnh sát mật hoạt động song song với lực lượng cánh sát công khai. Tên gọi của lực lượng này là Ban Thứ Ba thuộc Văn Phòng Hoàng đế - tên gọi này không bắt tai mấy, nhưng có vẻ rất Nga. Người phụ trách là Bá tước Pyotr Andreyevich Shuvalov. Mấy năm trước tôi có gặp ông ta tại Pháp. Chúng tôi rất hợp nhau. Không quan trọng mấy – Văn Phòng Một của Ban Thứ Ba lo về các tội phạm chính trị, Văn Phòng Ba phụ trách người nước ngoài. Tôi nghi rằng người của tôi đã gặp rắc rối với một trong hai phòng trên và đã bị bắt đi trong đêm.
“Sa hoàng,” Sherlock lên tiếng phá vỡ bầu không khí im lặng kéo theo. “Người giống như vua hoặc hoàng đế phải không?”
“Đại loại thế,” ông Mycroft trả lời, nhấc mình ra khỏi những suy nghĩ nặng nề. “Nhưng trong một nghĩa khác, nó không thể dịch ra được. Kỳ lạ là nó xuất xứ từ gốc La tinh “Caesar”.” Anh lắc đầu. “Người Nga rất cầu kì về mặt chức tước và những thứ như thế, thậm chí còn hơn người Anh chúng ta nữa. Trong một số thư từ ngoại giao mà tôi nhận được từ triều đình Sa hoàng gần đây, theo như tôi nhớ được là -“anh nhắm mắt - “Ta, Alexander đệ nhị, nhờ ơn trời, Hoàng đế và Người độc trị của tất cả dân Nga, của thành phố Moscow, Kiev, Vladimir, Novgoroa, Sa hoàng của Kazan, Sa Hoàng của Astrakhan, Sa Hoàng của Ba lan, Sa Hoàng của Siberia, Sa Hoàng của Tauric Chersonesos, Sa hoàng của Georgia, Chúa của Pskov, và Đại Công tước của Smolensk, Lithuania, Volhynia, Podolia, và Phần lan, Quân vương của Estonia, Livonia, Courland và Semigalia, Samogitia, Belostok, Karelia, Tver, Yugra, Perm, Vyatka, Bulgaria và các lãnh thổ khác; Chủ và đại công tước vùng Nizhni Novgorod, Quốc vương của Chernigov, Ryazan, Polotsk, Rostov, Yaroslavl, Beloozero, Udoria, Obdoria, Kondia, Vitebsk, Mstislavl, và của tất cả lãnh thổ phía bắc; Quốc vương của Iveria, Kartalinia, và vùng đất Kabardinian và lãnh thổ Armenian - Người thừa kế và Cai quản của người Circassians và các Hoàng tử sơn cước và những người khác; chủ của vùng Turkestan, Người thừa kế xứ Norway, Quận công xứ Schleswig-Holstein, Stormarn, Dithmarschen, Oldenburg, và nhiều thứ, nhiều thứ nữa”.” Anh mở mắt ra, hít một hơi dài. “Phần tước vị là phần dài nhất của bức thư. Cho nên không có gì ngạc nhiên là nhiều nhà ngoại giao không thích thú gì mấy khi được gởi tới Moscow. Họ phải ghi nhớ tất cả những thứ này.”
“Anh cũng thuộc lòng đấy thôi,” Sherlock lên tiếng.
“Đúng rồi,” Mycroft tỏ vẻ ngạc nhiên, “vì anh là Mycroft Holmes.”
“Giờ nên đi thẳng vào vấn đề,” ông Crowe chen ngang. “Chuyện gì sẽ xảy ra nếu vụ mua bán Alaska của Mỹ thất bại còn Tây Ban Nha thành công? Tại sao ta phải quan tâm?”
“Nó sẽ làm mất ổn định khu vực,” Mycroft trả lời ngắn gọn. “Canada là một vùng đất mới còn non yếu. Nước Pháp đã có ảnh hưởng mạnh tại vùng Quebec, còn nước Anh thì vẫn kiểm soát vùng British Columbia. Nếu Tây Ban Nha nắm được vùng Alaska thì những rắc rối mà chúng ta đã nếm trải tại châu Âu sẽ lại tái diễn ở một lục địa khác. Cứ nghĩ đến những cuộc chiến tranh giữa Pháp, Anh và Tây Ban Nha vào thế kỷ 16 và 17. Đó là điều cuối cùng mà chúng ta muốn xảy ra. Ông Crowe, ông có muốn biết việc gì sẽ xảy ra nếu Tây Ban Nha được quyền kiểm soát Alaska không? Câu trả lời là chiến tranh – một cuộc chiến sẽ xé nước Mỹ ra thành nhiều mảnh trong khi nước này đang tìm mọi cách để gắn kết lại!”
Crowe gật nhẹ cái đầu đồ sộ và nói. “Tôi có thể hiểu được. Nhét nhiều quốc gia vào một chỗ theo kiểu này thì sẽ có rắc rối ngay. Cũng giống như bố trí ba bốn gia đình sống chung trong một ngôi nhà nhỏ. Trước sau gì cũng xảy ra cãi vã.”
“Điều chúng tôi quan tâm nhất là sự ổn định,” Mycroft nhận xét. “Chúng tôi ở đây có nghĩa là nước Anh và nước Mỹ. Như ông thấy đấy, trong mấy chục năm nay nước Anh đã từ bỏ nhiều thuộc địa. Các thuộc địa của Anh tại Canada đã trở thành một quốc gia đúng nghĩa, và tôi cũng mong là British Columbia sẽ được trao trả để nhập vào Canada trong thời gian tới. Chúng ta cố gắng hết sức để mang lại sự ổn định cho khu vực. Có thêm người Tây Ban Nha, người Pháp hoặc bất cứ ai đến can thiệp sẽ tạo nên những hệ quả có thể ảnh hưởng đến khung cảnh chính trị và địa lý trong hàng trăm năm.”
“Mấy thứ này,” ông Crowe nói, “nằm ngoài thẩm quyền của tôi. Tôi không làm chính trị và cũng không hề có ý định đó.”
“Tốt nhất là không nên,” Mycroft nói nhỏ. “Tôi đã thấy cách ông thương thuyết. Nắm đấm không phải là vũ khí ngoại giao đâu.”
“Ồ, tôi cũng không biết đâu,” ông Crowe giọng khẽ khàng. “Clausewics chẳng phải đã nói chiến tranh là sự tiếp tục của các quan hệ chính trị sao?”
“Đúng vậy,” Mycroft chống chế, “nhưng ông ta là người Đức.”
“Thế thì tất cả những thứ đó có ý nghĩa gì đối với chúng ta?” ông Crowe hỏi. “Anh nghĩ rằng những người gài bẫy anh là nhân viên của Tây Ban Nha à?”
“Có lẽ, nhưng không nhiều khả năng lắm.” Mycroft lắc lắc đầu. “Tại sao triều đình Tây Ban Nha lại muốn che giấu sự kiện là họ phá giá, trừ trường hợp các cuộc thương thuyết đi vào giai đoạn cực kỳ tế nhị. Tôi không cho là họ gây ra vụ mưu sát trên cơ sở này. Tuy nhiên người Nga lại có thể làm việc này – nhưng một lần nữa, tại sao họ muốn che giấu việc các cuộc thương thuyết đang tiến hành?” Mycroft suy nghĩ một lúc, mấy ngón tay gõ nhẹ lên cằm. “Trừ khi Sa hoàng không muốn cho chính phủ Mỹ biết là họ đang đàm phán với người Tây Ban Nha, phòng trường hợp Hạ viện Mỹ đột ngột chuẩn y tháo khoán bảy triệu đô la bằng vàng và vì thế phá hỏng các kế hoạch kiếm thêm tiền của Ngài từ nguồn khác. Toàn bộ vấn đề nằm ở chỗ là thoả thuận ban đầu vẫn chưa có gì chắc chắn cho tới khi việc chi trả thực sự được tiến hành.”
“Vẫn còn có một khả năng khác,” ông Crowe nói.
“Vâng,” Mycroft xác nhận, “có đấy. Nhiều thành phần trong chính phủ các ông có thể đang cố tránh bất cứ con chữ nào có thể gây nhập nhằng trong thương vụ mua bán đất cho tới khi họ thực sự giải quyết xong – chuyển số vàng kia cho Sa hoàng.
Ông Crowe nhún vai. “Tôi không có ý biện hộ cho chính phủ của tôi. Nhiều năm qua họ đã từng đưa ra nhiều quyết định khá kì dị rồi.”
“Hoặc là,” Sherlock lên tiếng, nghĩ rằng mình phải nói thứ gì đó, “có thể do người khác.”
“Bên thứ ba?” Ông Crowe hỏi.
“Thứ tư chứ.” Mycroft làm rõ, “sau người Nga, người Mỹ và người Tây Ban Nha.”
“Thứ năm,” Sherlock lên tiếng. “Anh bị liên can, nghĩa là có nước Anh nữa.”
“Đó là vì sao tôi thấy ngoại giao quá rối rắm phức tạp,” ông Crowe cười, nói. “Có chắc những thứ này đều không liên quan đến chúng ta không? Anh đã nhận ra được có điều gì đó đang xảy ra, và định làm gì đó về mặt ngoại giao. Nên khả năng có ai quấy phá anh, hoặc Sherlock, hoặc thậm chí cả tôi nữa cũng không chừng. Người nào định gài bẫy anh lúc đầu sẽ cho rằng anh đã trở về văn phòng, đọc các báo cáo và rút ra các kết luận phù hợp rồi.”
Mycroft chậm rãi lắc lắc đầu. “Không đơn giản đâu. Ngay từ đầu, các sếp của tôi đã không chịu nghe lời tôi về vấn đề lớn này. Họ sẽ tự kiểm tra, như thế sẽ mất hàng tháng hoặc hàng năm. Còn tôi thì mất đi người cung cấp tin chính ở Nga.” Mặt anh trở nên ảm đạm. Tôi nhờ anh ta tìm hiểu xem đã xảy ra việc gì. Nếu anh ta bị Ban Thứ Ba nhốt thì ít nhất tôi cũng phải tìm cách cứu anh ta ra. Nếu anh ta chết, tôi sẽ đưa kẻ giết người ra công lý – hoặc thứ gì gọi là công lý tại tại triều đình Sa hoàng.”
“Anh có nhiều người tại Moscow, phải không?” ông Crowe hỏi. “Họ làm được mà.”
“Chẳng có ai ở Moscow mà tôi tin được. Tôi phải tự đi lấy, một khi những cáo buộc dành cho tôi được thu hồi.”