← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

Sự im lặng sững sờ bao phủ cả bàn.

“Anh định đi Moscow sao?” Sherlock hỏi giọng đầy kinh ngạc. “Ở nước Nga ư?”

“Anh nghĩ rằng anh phải đi,” Mycroft trả lời.

“Nhưng mới đi đến phía bắc của đường Oxford là anh đã bị chóng mặt rồi!”

Mycroft mỉm cười, nhưng chỉ để che giấu nỗi niềm bên trong. “Việc anh không muốn đi Nga chỉ là chuyện vặt. Anh nên đi. Anh phải đi. Sự thoải mái cá nhân của anh hoàn toàn không liên quan gì nữa.”

“Em không hiểu,” Sherlock chống chế.

“Còn tôi, tôi hiểu.” Crowe gật gù. Làm sao mà anh đòi hỏi các phụ tá tin tưởng anh, làm theo các chỉ đạo của anh nếu chỉ mới gặp rắc rối là anh đã bỏ rơi họ rồi?”

“Chính xác là thế. Nhân viên của tôi trên khắp thế giới phải biết rằng tôi không phải là một cấp trên chỉ khi xuôi buồm thuận gió. Khi có giông bão, đương nhiên là phải có rồi, tôi cũng phải lội mưa cùng với họ.” Anh ta nhún vai. “Dù cực mấy cũng phải chịu.”

“Anh cũng muốn tìm hiểu nữa,” Sherlock thăm dò.

“Muốn tìm hiểu cái gì?”

“Anh muốn biết sự thật. Anh muốn biết ai là người cố gài bẫy anh tội mưu sát, và tình hình của vụ mua bán đất như thế nào.”

Mycroft nhún vai. “Anh rất muốn hiểu rõ vụ làm ăn này thực hư ra sao. Anh không thích cái gì mù mờ. Cũng giống như khó chịu vì chiếc răng đau vậy.”

Ở phía đằng kia của nhà hàng, gia đình mà Sherlock quan sát lúc nãy đã rời khỏi bàn ăn. Cậu nhìn họ một lúc. Bà mẹ đang kiểm tra xem lũ trẻ đã thẳng thớm cài nút áo và đội mũ chưa, còn người cha đứng nhìn. Có phải họ định đi tham quan London, hoặc thăm viếng bà con? Có lẽ họ chỉ ghé qua London trên đường đi đâu đó, và giờ đây đi thẳng đến một trong những nhà ga chính để lên tàu. Cậu cảm thấy ganh tị với bất cứ kế hoạch nào của họ. Cậu không nhớ được có lúc nào cả gia đình cậu được như thế - một khoảnh khắc bình thường, giản dị. Khi mà cha cậu hầu như luôn vắng nhà vì công tác quân đội, mẹ ốm liệt giường, dường như chẳng bao giờ cả nhà được ngồi quanh bàn ăn và hưởng cái không khí của… một gia đình.

“Như vậy là em sẽ không gặp được anh một thời gian, cũng như không được gặp cha,” Sherlock nói nhỏ.

“Trừ trường hợp em cùng đi với anh.”

Lại một lần nữa, Sherlock sửng sốt không nói nên lời. “Em à?” Rốt cuộc cậu kêu lên. “Đi với anh? Sang Nga ư?”

Mycroft liếc mắt tiếc rẻ nhìn phần thức ăn còn lại trên khay rồi thầm thì với Crowe. “Nhờ ông giải thích cho em nó. Tôi nghĩ rằng tôi sẽ ăn nhanh thôi.”

“Tôi cũng không chắc là nắm rõ được vấn đề.” ông Crowe nói với vẻ nghiêm trang. “Có lẽ anh nên giải thích cho hai chúng tôi rõ.”

“Được rồi. Sherlock đã tham gia vào vụ này rồi. Nếu tôi đi Nga, thì cách tốt nhất để đánh lạc hướng, làm cho tôi phải quay lại, hoặc thậm chí ngăn không cho tôi đến nơi, là hăm dọa Sherlock. Nếu Sherlock bị bắt, rồi họ gởi cho tôi một cái tai, hoặc một ngón tay của em tôi chẳng hạn, thế là tôi bị bó tay không làm sao điều tra thêm được. Tôi phải bảo đảm sự an toàn cho Sherlock, tức là, tôi phải đem Sherlock theo tôi.”

Sherlock đưa tay lên tai. Cậu không thích cái âm thanh bị cắt tai rồi đem gởi cho Mycroft như là lời cảnh cáo.

“Nhưng anh không phải là người của hành động,” ông Crowe lên tiếng. “Anh có chắc là mình chống trả được khi bị tấn công không?”

“Tôi sẽ nhờ trợ giúp,” Mycroft giọng hơi phấn khích. “Tôi dự tính đem theo một nhân viên làm nhiệm vụ bảo vệ. Kiểu bảo vệ ngầm. Ba người chúng tôi sẽ đi cùng nhau.”

“Bảo vệ ngầm ư – nghĩa là sao ạ?” Sherlock hỏi, trong lòng vẫn thắc mắc không biết vì sao Mycroft muốn cậu cùng đi Nga với mình. Cậu không biết chuyện nào đáng nghĩ hơn – đi sang Nga, hay đi cùng với Mycroft.

“Có nghĩa là chúng ta sẽ đi ẩn danh – theo kiểu giả dạng, nếu thích gọi như thế. Một viên chức có địa vị tương đối cao trong bộ Ngoại giao không thể đi vẩn vơ vào nước Nga mà không được thông báo, hoặc không tạo nên một sự cố quốc tế. Không được, chúng ta phải dùng đến tên giả. Phải có một tiểu sử giả. Ta phải là một phần của tổng thể, của một bức tranh lớn, để không bị người khác chú ý đến.”

“Vậy anh đã quyết định xong cái tổng thể lớn hơn đó là gì rồi đúng không,” Crowe nói.

“Đúng vậy. Tôi đã nghĩ ra một kế hoạch khi ngồi trên xe đi từ câu lạc bộ Diogenes đến khách sạn này.”

“Anh đi xe ngựa à?” Sherlock phản đối. “Chỉ mất có mười phút đi bộ! Hai phút ngồi xe!”

“Chính xác. Vừa đủ thời gian để suy nghĩ. Nếu đi bộ, anh sẽ tốn nhiều sức để lo tránh khách bộ hành, ngựa và mọi thứ khác thì còn đâu thời gian để suy nghĩ nữa.”

“Vậy kế hoạch là gì?” ông Crowe hỏi.

Mycroft xỉa nĩa vào một miếng xúc-xích. “Mấy tuần trước, tôi được yêu cầu cấp phép cho một đoàn hát Anh đi Moscow để trình diễn một số vở hát của Shakespeare, Marlowe, Ben Johnson, và tương tự - cho các gia đình quí tộc Nga. Tôi đã cấp phép cho họ bởi vì chuyến đi của họ được yêu cầu thông qua Đại sứ quán Nga, và vì việc này sẽ nâng cao các mối quan hệ nghệ thuật giữa hai nước – hoặc, ít nhất, họ cũng làm được như thế nếu họ trình diễn cũng xuất sắc như các báo cáo đánh giá về họ.

Tuần vừa rồi tôi có nghe là chuyến đi phải hủy, vì viên giám đốc bị bệnh tim cần phải nhập viện, và một tay chơi vĩ cầm chính trong dàn nhạc đệm bị bắt vì hành vi phóng đãng. Tôi thấy nhiệm vụ của một giám đốc cũng không khó nhọc mấy, chủ yếu là bố trí đúng người đúng việc và các hóa đơn được thanh toán đúng hạn.”

“Còn tay nhạc sĩ vĩ cầm?” Crowe hỏi. “Anh định tuyển người này như thế nào?”

“Một trong những nhân viên của tôi chơi vĩ cầm tàm tạm,” Mycroft nói. Dường như anh đang hết sức tập trung vào khay thức ăn. “Tôi sẽ đưa anh ta vào để giúp chúng ta.”

“Còn em thì giúp được việc gì?” Sherlock hỏi.

“Tổng quản gia và trợ lý hậu trường. Theo chỗ anh biết thì khi lưu diễn, không bao giờ có đủ người cho việc hậu trường cả.”

“Nhưng mà…” Sherlock buột miệng hỏi mà chưa kịp suy nghĩ. “Nhưng khi nào? Và như thế nào?”

Mycroft bỏ tọt một khoanh xúc xích vào miệng nhai. “Về khoản “khi nào”,” cuối cùng anh nói, “anh cho rằng ta nên đi ngay sau khi dàn xếp với đoàn kịch. Anh nghĩ rằng họ sẽ rất cám ơn Bộ Ngoại giao đã hết sức giúp đỡ chuyến biểu diễn của họ đến mức tìm được người thay thế cho những người mà họ thiếu. Mọi chuẩn bị cho chuyến đi của họ đã thu xếp xong. Theo anh nhớ thì chỉ trong vòng vài ngày tới họ sẽ khởi hành, họ sắp phải gởi thư cho phía bên kia thông báo hủy bỏ chuyến trình diễn. Hy vọng rằng họ chưa gởi bức thư này, nếu không thì anh phải đưa ra một chiến lược mới. Còn khoản “như thế nào”, anh định sẽ đi đường thủy đến Pháp sau đó đi tàu lửa xuyên lục địa đến Moscow. Anh tính rằng chuyến đi sẽ mất bốn năm ngày.” Anh vói tay lấy một lát bánh mì nướng và phết bơ lên. “Anh sẽ báo cho chú thím biết là em và anh sẽ đi du lịch sang lục địa vài tuần. Họ sẽ thông cảm. Anh chắc thế. Đi đây đó sẽ giúp mở mang đầu óc. Giờ thì anh sẽ đi thu xếp công việc, còn em, Sherlock, em thả bộ xuống ngã tư Charing Cross tìm mua mấy quyển sách về lịch sử và văn hóa Nga. Người Nga họ khác chúng ta nhiều thứ - chắc chắn là khác nhiều hơn so với người Mỹ.” Anh hất đầu hướng về phía ông Crowe.

“Để anh trang bị cho em một số kiến thức thực tế biết đâu sẽ có ích,” anh tiếp tục. “Nga là quốc gia lớn nhất trên thế giới. Nếu ta đo đạc diện tích của nước này, ta sẽ thấy nước Nga chiếm đến gần một phần bảy diện tích mặt đất, nhưng phần lớn là thảo nguyên quanh năm băng giá – nơi họ gọi là vùng đài nguyên. Ước tính cho thấy Sa hoàng cai trị trên 65 triệu thần dân, quả là một con số khá choáng, nhất là khi ta biết số cư dân đó thuộc trên một trăm sáu mươi dân tộc hoặc bộ lạc riêng biệt, nói một trăm mười ngôn ngữ hoặc thổ ngữ khác nhau và gắn bó với ba mươi lăm tôn giáo riêng biệt. Nước Nga, trên thực tế, chính nó và tự nó đã là một thế giới. Đó là nơi chúng ta sẽ đi tới.”

“Nhưng…” Sherlock mở lời, “…nhưng em chưa bao giờ nói tiếng Nga!”

“Không hề gì cả,” Mycroft trấn an. “Theo chỗ anh được biết thì đa số các gia đình khá giả, kể cả các quan chức tại triều đình Sa hoàng, đều nói tiếng Pháp hàng ngày. Anh nói tiếng Pháp trôi chảy, và anh cũng tin rằng tiếng Pháp của em đã khá lên nhiều kể từ lúc em ở Pháp. Chúng ta có thể xoay sở được.”

Sherlock liếc nhìn Amyus Crowe. “Còn chú Crowe thì sẽ thế nào? Em không nghĩ là chú nói được tiếng Pháp.”

“Ồ, anh cũng còn nghi ngờ tiếng Anh của ông ấy lắm,” Mycroft nói nhỏ. Anh nhìn thẳng về phía Sherlock với ánh mắt đầy xúc cảm làm Sherlock không hiểu lắm, nhưng sau vài giây cậu nhận ra sự tiếc nuối ngay. “Anh sợ rằng ông Crowe sẽ không cùng đi với chúng ta. Chuyến đi này chỉ dành cho em, anh, và một nhạc sĩ violon mà anh tính sẽ tuyển.”

“Nhưng vì sao?”

“Như anh đã nói, ông Crowe không nói được tiếng Pháp, tiếng Nga lại càng không. Ông ta không có những kĩ năng mà đoàn kịch lưu diễn cần đến. Hoặc là ông ta phải dẫn cô Virginia đáng yêu đi theo và như thế nhóm của ta sẽ có đến năm người, hoặc nhờ ai đó chăm sóc cô bé nhiều tuần, có lẽ thế. Vả lại, đứng giữa đám đông thân hình ông ta sẽ nổi trội cho nên không thuận tiện mấy cho chuyến đi kiểu ẩn danh lắm.”

“Đừng lo cho tôi,” ông Crowe lên tiếng. “Tôi không có ý định tham gia chuyến đi ngắn này. Các cậu cứ đi vui vẻ.”

Sherlock cảm thấy lòng chùng lại. “Nhưng cháu muốn chú đi cùng.”

“Vấn đề của cuộc sống là,” Mycroft nhận xét, “nó ít khi cho ta những thứ ta muốn, hoặc ngay cả thứ ta cần. Tôi từng nghe nói là Chúa sẽ không cho ta thứ gì mà ta không kham nổi. Kinh nghiệm cho thấy điều này không đúng, họa chăng chỉ là một cơ chế để cho các vị tu hành chấp nhận những thứ gì không thể chấp nhận được. Cuộc đời là khắc nghiệt, đến mức ta cũng không mong sống lâu hơn.”

“Tôi thấy bài học đang kéo dài ra thì phải,” ông Crowe lẳng lặng nói.

Mycroft khẽ liếc ông. “Thằng bé đôi lúc cũng cần phải học chứ.”

Ông Crowe hít mạnh một hơi, rõ ràng là muốn chuyển sang chuyện khác. “Còn việc ở viện bảo tàng thì thế nào? Ta có cần phải điều tra gì thêm ở đó hay không?”

“Tôi đã thông báo cho cảnh sát biết về vai trò của họ trong vụ này, và cũng đã đề xuất một số bộ phận của Chính phủ sẽ kín đáo tham gia điều tra, nhưng tôi nghi ngờ là sẽ không tìm thấy gì cả. Hoặc là họ sử dụng nơi đó để họp mặt cho thuận tiện, trong trường hợp này họ chỉ cần bước ra phía cửa trước là chúng ta mất dấu họ ngay, hoặc họ đặt trụ sở gì đó tại đây, trong trường hợp này họ sẽ dọn sạch bong sau khi ông và Sherlock mò vào. Trong cả hai tình huống, chúng ta đều không tìm thấy manh mối nào cả. Chúng ta đụng phải một nhóm rất chuyên nghiệp.”

“Anh không nghĩ là họ sử dụng toàn bộ bảo tàng làm tấm bình phong để gài bẫy anh sao?” Sherlock hỏi.

“Thành thực mà nói anh cũng ngờ lắm. Bảo tàng là một tổ chức từ thiện, không có gì để phàn nàn cả. Anh nghi ngờ hoặc là đám vô lại tụ họp ở đây, hoặc là một nhân viên của bảo tàng là thành viên của tổ chức đó. Không tìm được lời giải ở đây.” Mycroft cho miếng bánh mì phết bơ cuối cùng vào miệng, nhai lạo xạo một lúc, rồi thở ra đầy khoái trá. “Giờ thì tôi mới thấy đủ sức bắt đầu một ngày đây.” Anh rút chiếc đồng hồ trong túi áo khoác ra coi giờ. “Còn khoảng một giờ nữa mới tới giờ ăn trưa. Tức là chúng ta còn đủ thời gian để bàn việc chuẩn bị cho chuyến đi. Tôi đề nghị với Sherlock và ông Crowe là chúng ta sẽ gặp tại câu lạc bộ Diogenes vào lúc một giờ trưa.” Hơi vất vả một chút để nhấc mình ra khỏi chiếc ghế, anh ta nói thêm, “Ai đó vui lòng gọi dùm tôi một chiếc xe ngựa.”

Trong lúc ông Crowe và Mycroft đứng nói chuyện trên vỉa hè, Sherlock bước ra xa. Đầu cậu ong ong lên với đủ các tình huống, cậu muốn tìm cách sắp xếp cho gọn gàng lại.

“Này, Sherlock!”

Cậu quay đầu lại. Mycroft đang vẫy tay gọi.

“Gì thế ạ?” cậu vừa hỏi vừa quay lại chỗ hai người đang đứng.

“Em cầm ít tiền đi.” Mycroft đưa ra ba đồng tiền. “Chỗ này là ba đồng ghinê. Giữ cho kĩ, nếu cần thì em nên đi mua cho mình mấy thứ quần áo ấm.”

Sherlock đi một mình, dọc lên Piccadilly Circus, băng qua quãng trường Leicester và đoạn cuối của đường Charing Cross. Đường phố chật ních người đi trên vỉa hè, và đủ các loại xe bò, xe ngựa trên lòng đường. Ở đây chỉ có một vài trăm người mà cậu đã cảm thấy mình như bị đè nghiến; nếu chỉ nước Nga đã có sáu mươi lăm triệu dân, thử hỏi trên thế giới có bao nhiêu người? Con số làm cho cậu muốn chóng mặt!

Các hiệu sách, hiệu bán đồ cũ, tiệm cầm đồ san sát hai bên đường, và cậu mất cả tiếng đồng hồ lục lạo những thùng đựng đồ đặt bên ngoài các cửa hiệu lớn và đống kệ tủ bên trong. Cậu cứ để đầu óc suy nghĩ vẩn vơ, không cố hướng nó đến việc gì rõ ràng cả.

Tình cờ thấy mấy quyển sách về Đế quốc Nga, cậu chọn mua hai quyển cơ bản nhất. Cậu lại để ý đến một chiếc hộp chứa đủ thứ ống khóa, móc khóa và chìa khóa, mà người chủ hiệu đã báo trước là chúng chưa được phân lựa. Không có gì bảo đảm là chìa hợp với khóa; ông ta cứ có sao bán vậy. Sherlock tự nhủ nếu mình tậu được nhiều ổ khóa như thế để mò mẫm tiêu khiển, thì thời gian rãnh rỗi cậu có thể học được cách chọn khóa. Đây là một kĩ năng hữu dụng trong tương lai. Thực ra thì trong nhiều tháng qua, kĩ năng này đã được chứng minh là hữu ích rồi.

Cuối cùng, cậu thôi không rờ đến chiếc hộp chứa đầy khóa nữa và bỏ đi. Cậu có thể quay lại với chúng sau.

Đi hết đường Charing Cross cậu băng qua Cambridge Circus, sau đó đi tiếp đến đầu đường Tottenham Court. Vẫn còn nhiều cửa hàng, mặc dù đường phố ở đây ít nhất cũng rộng rãi hơn, có chỗ để cho ngựa và xe ngựa đi qua. Cậu ghé qua một tiệm cầm đồ trông khá bề bộn, biết rằng sắp đến lúc phải quay lại nếu muốn có mặt tại câu lạc bộ Diogenes đúng giờ. Ánh mắt cậu chợt bắt gặp một chiếc hộp đựng đàn vĩ cầm để dựa trên kệ ở phía sau. Cẩn thận lấy chiếc hộp đàn xuống, cậu thổi bụi, mở nắp và thích thú nhìn chiếc đàn vĩ cầm bên trong. Một cây đàn cổ - cổ nhưng thật đẹp. Lớp vécni màu đỏ đậm, có những vết rạn như kiểu mạng nhện, hai khe chữ S ở phía trên có vẻ hơi nổi, nhưng nhạc cụ này có một cái gì đó làm cậu thích thú. Như mời gọi. Cậu đặt cây đàn lên tay phải, giữ lấy phần cổ đàn và để toàn bộ trọng lượng cây đàn trong lòng bàn tay. Có vẻ cây đàn này đằm hơn cây vĩ cầm của Rufus Stone mà cậu đã chơi trên tàu SS Scotia, trên đường đi New York. Cậu để phần cong của cây đàn lên cẳng tay và búng các dây. Âm thanh ngân vang tràn ngập cửa tiệm. Dây đàn chưa được lên, nhưng có cái gì trong thanh âm, một thứ gì phức tạp làm cậu xúc động. Âm này chưa thuần khiết, chắc chắn rồi, nhưng ấm áp và diễn cảm. Cậu vuốt dọc chiếc đàn từ trên xuống. Cảm giác êm như nhung.

“Cậu có mắt lắm đấy,” từ phía sau cửa tiệm vang lên một giọng nói khô khốc. Sherlock quay lại. Cậu vòng qua chiếc kệ, thấy một người đàn ông rất già và mảnh khảnh đến mức một cơn gió mạnh cũng đủ sức thổi bay. Ông lão ngồi đằng sau một chiếc bàn chất đầy sách vở và nhiều thứ linh tinh khác. Đầu đội một chiếc mũ chỏm, ông ta trố mắt nhìn Sherlock qua cặp kính trễ xuống sống mũi với một sợi dây tròng qua cổ để tránh rớt xuống đất.

“Xin lỗi ông.”

Từ trong xó tối, ông lão bước ra chỗ có luồng ánh nắng chứa đầy bụi. “Lão đã mang chiếc đàn này từ Krakow tới đây, lâu lắm rồi. Bố lão được cây đàn này nhờ đánh bài thắng đấy, cậu tin không? Nó đã đi cùng cha con lão khắp châu Âu, thế mà giờ đây lão phải bán để mua thức ăn, mua củi đốt, dù lão vẫn muốn giữ nó lại.”

“Quả là một nhạc cụ đáng yêu.”

“Đáng yêu lắm, như bà vợ đáng yêu của lão vậy, nó chơi hay cực kỳ, lão chỉ nói điều này cho người sành điệu thôi. Còn lão, lão chơi piano, đôi khi phong cầm, nhưng chỉ chơi khi nào say mà thôi.”

Sherlock nhìn vào trong chiếc hộp đàn. “Nó có vĩ chứ ạ?”

“Nói riêng với cậu thôi nhé, lão có chiếc vĩ,” ông lão nói. Ông lục lạo trên bàn, di chuyển mấy cuốn sách. “Có người nói rằng chiếc vĩ cũng quan trọng như chiếc đàn. Còn lão, lão không nghĩ thế. Cây đàn là một tác phẩm nghệ thuật, còn chiếc vĩ chỉ là mấy chiếc lông đuôi ngựa. Có lẽ còn tùy loại ngựa nào, nhưng lão không biết. Có rồi đây!” Ông ta kéo ra chiếc vĩ từ một xó xỉnh và đưa cho Sherlock. “Này, thử đi!”

Sherlock nhớ lại những bài học từ Rufus Stone. Từ lúc ở Mỹ về đến nay cậu chưa hề tập lại, vì không có đàn, nhưng cậu nhớ đến các qui luật thang âm và nhớ đến cảnh đầu óc mình trở nên dịu lại không còn quay cuồng nữa nhờ tính thuần khiết của âm nhạc.

Cậu nhanh chóng lên dây đàn, búng vào các sợi dây và vặn chốt lên dây nằm ở phần cuối cổ đàn cho đến khi các nốt được chỉnh đúng. Cậu đặt chiếc đàn lên vai và tựa cằm vào. Cảm giác thật hòa hợp. Như thể nó vốn phải nằm ở đó.

Đặt chiếc vĩ trên các dây đàn, cậu kéo qua mỗi dây một nốt nhạc: G, D, A, E. Các nốt nhạc vang lên như một giọng hát, rất tuyệt. Cậu thử một vài thang âm, và ngạc nhiên thấy mấy ngón tay của mình dường như đã nhanh chóng nhớ lại những gì chúng phải làm.

Khi đặt chiếc đàn xuống, cậu sửng sốt khi thấy hai mắt ông lão ràn rụa nước mắt.

“Lâu lắm rồi mới có người thử chơi chiếc đàn này,” ông ta nói. “Lão cứ lo là qua nhiều năm tháng, qua nhiều dặm đường đã làm cho tiếng nó đục đi, nhưng nó lại còn tốt hơn bao giờ hết – khác hẳn với bà vợ đáng yêu của lão, hát như vịt kêu.”

“Làm thế nào,” Sherlock hỏi, “mà mỗi cây đàn lại có âm khác nhau ạ? Ý cháu là, một chiếc xe bò chỉ là một chiếc xe bò. Mỗi chiếc đều có bốn bánh, chạy được khi có bò kéo. Khó mà lựa chọn. Nhưng đàn vĩ cầm - nhìn qua đều giống nhau, nhưng mỗi chiếc lại có âm không giống nhau.”

Ông già nhún vai. “Cậu đi hỏi ba người chơi đàn, thì có bốn câu trả lời khác nhau. Người thì cho là do chất gỗ làm đàn. Theo họ, gỗ càng chắc thì càng tốt. Người thì nói thứ gỗ nào được kéo bằng tàu ngang qua biển Adriatic phía Venice thì cho chất giọng ngọt ngào hơn. Người khác thì nói gỗ không ăn nhập gì, quan trọng là lớp sơn vecni với các thành phần bí mật mà người làm đàn trộn vào đó. Còn lão, lão tin rằng nó có liên quan đến tình yêu. Một cây đàn được làm ra vì tiền thì âm thanh của nó chỉ tạm được.” Ông ta lúc lắc bàn tay như muốn nhấn mạnh ý, “nhưng một nhạc cụ được tạo ra vì lòng yêu thích chế tạo nó – thì âm thanh sẽ tuyệt vời.”

“Ông có biết ai làm chiếc đàn này không ạ?”

“Lão không biết. Nó vào nhà của lão không kèn không trống. Nhưng hình dáng cho thấy người chế tạo nó đã đặt vào nó nhiều tình cảm, cộng với chất gỗ, lớp keo dán và lớp vécni nữa - cậu có thể thấy rõ điều này.”

“Thế…” Sherlock hắng giọng. “Thế giá bao nhiêu ạ?”

“Bảy mươi đồng silling,” ông già đáp ngay. “Nhưng thấy cậu biết cách đánh giá đúng cây đàn, lão bán sáu mươi lăm đồng thôi.”

“Cháu chỉ có thể trả bốn mươi lăm đồng,” Sherlock lo lắng nói, biết rằng trong túi mình có ba pound và ba silling. Tức là sáu mươi ba silling, nhưng cậu muốn giữ lại một ít tiền để phòng hờ những tình huống cần kíp.

Ông già ngoẹo đầu sang một bên. “Không biết lão có nói là lão cần phải mua thức ăn, củi đốt cho gia đình chưa nhỉ?”

“Ông có nói ạ. Nhưng cháu chỉ trả bốn mươi lăm đồng silling thôi,” Sherlock lập lại, giọng chắc nịch.

“Cậu còn trẻ mà tim đã hóa đá rồi. Năm mươi bảy silling, không bớt nữa.”

“Năm mươi đồng,” Sherlock nói. Cậu thấy mình đang thở gấp.

Ông lão thở dài. “Có lẽ phải để bữa khác mua củi đốt vậy, còn tối nay thì đành phải ăn thịt nguội, xúp nguội. Năm mươi lăm đồng

“Đồng ý ạ.”

Họ trang trọng bắt tay, và Sherlock cho chiếc đàn vào hộp trở lại. Cậu đưa ra ba đồng guinê. Ông lão thối lại năm đồng silling. “Cậu nên chăm chút nó,” ông nói, “và nếu có muốn hỏi thêm gì về cây đàn này thì cứ quay lại tìm lão. Lão rất lấy làm hân hạnh.”

“Cháu sẽ đến.”

Cửa tiệm chợt mở ra, và một cái bóng đổ xuống sàn nhà. Có một dãy kệ đứng chắn giữa phần trước với phần sau của cửa tiệm, cho nên cả Sherlock lẫn ông lão đều không nhìn rõ ai đi vào, nhưng trước khi ông lão cất tiếng hỏi thì Sherlock nghe một giọng nói. “Nó vừa vào đây. Tao cam đoan là thế!”

“Sao mày không xông vào mà túm nó đi,” một giọng khác, trầm hơn, giống như tiếng gạch xát vào nhau. “Khỏi phải chờ tao.”

“Nếu tao túm nhầm thằng khác thì sao?”

“Thì tối nay sẽ có gia đình đứa nào đó phải khổ thôi.”