CHƯƠNG 10
Ông lão siết vai Sherlock. “Có một cái cửa ở đằng sau đấy,” ông thì thầm. “Nó dẫn ra phía con hẻm. Đi đi, chúc cậu may mắn.”
“Có lẽ nó ở phía sau đó,” giọng thứ nhất lại vang lên.
Sherlock lẹ làng gật đầu để cám ơn khi ông lão lê chân ra phía trước đến cạnh dãy kệ. “Các ông đi tìm sách phải không? Trên mấy cái hộp, ngang tầm tai của các ông đấy. Hoặc là muốn tìm găng tay để bảo vệ mấy cái khớp ngón tay?”
“Bọn này tìm một thằng bé mới vào đây,” người có giọng trầm, cộc cằn hơn lên tiếng.
“Tôi không cho mấy thằng nhóc vô tiệm đâu,” ông lão đáp. “Chúng ăn cắp. Toàn là một lũ cắp.”
“Nhưng tôi thấy có một đứa vô…”
Giọng nói càng lúc càng nhỏ dần khi Sherlock chui qua khu vực bề bộn ở đằng sau cửa tiệm và tìm thấy cái cửa dẫn đến một con hẻm đầy rác, cuối hẻm thẳng góc với một con lộ. Cậu nhìn cả hai hướng. Chẳng có ai cả. Sherlock chạy hết tốc lực trở lại đường Charing Cross, tim đập thình thịch trong lồng ngực, chiếc hộp đàn đập mạnh vào chân theo nhịp chạy.
Như vậy, ít nhất cũng có câu trả lời. Kẻ nào đó gài bẫy Mycroft vẫn còn theo đuổi họ.
Hòa mình vào đám đông và lúc nào cũng cảnh giác những người xung quanh, Sherlock tìm đường quay lại khách sạn Sarbonnier. Khi cậu đến nơi, với lá phổi rát bỏng vì cố chạy cho nhanh, Sherlock thấy Mycroft đang trò chuyện với một người đàn ông cao to, người này mặc một chiếc áo khoác kềnh càng nên nhìn càng to hơn nữa. Còn đôi vai, Sherlock nghĩ, nó rộng quá khổ khiến ông ta trông giống như một chiếc tủ búp phê. Mái tóc đỏ dài quá gáy, rũ xuống mớ tóc mai sum sê hai bên, một bộ ria mép quá cỡ và bộ râu hàm xòe ra như cái xẻng.
“Đây là ông Kyte,” Mycroft ngừng câu chuyện, nói. “Ông Kyte là Giám đốc Sân khấu của đoàn kịch nghệ Kyte. Xin giới thiệu với ông Kyte, đây là… người do tôi bảo trợ… Scott Eckersley.” Anh nhìn Sherlock kiểu nhắc nhở, nhưng Sherlock đã nắm được tình hình là cậu, và – có lẽ – Mycroft nữa đều dùng tên giả.
“Rất vui được gặp ngài,” Sherlock vừa nói vừa bắt tay ông ta. Mu bàn tay của ông Kyte phủ đầy lông hung đỏ, và lòng bàn tay như có gai châm vào tay Sherlock, như thể lông cũng mọc luôn ở đó.
“Chào chàng trai trẻ,” ông Kyte nói giọng khò khè. “Ông Sigerson đây có cho tôi biết cậu là một tay cừ chuyên về các thứ dây kéo màn và phông cảnh.”
“Đúng vậy, thưa ngài,” Sherlock nói với vẻ tự hào. Nhưng trong thâm tâm cậu tự hỏi không biết người đàn ông này đang nói về cái gì. Cậu nhìn vào mặt ông Kyte. Có cái gì đó lạ lùng trên khuôn mặt: Sherlock thấy xung quanh mắt, mũi và má ông ta có nhiều vết cứa nhỏ. Làm sao mà ông ta bị cắt như thế?
“Tốt lắm. Đúng là tốt lắm. Thế này nhé, cậu cứ xuống nhà hát và gặp nhân viên ở đó.” Ông ta quay về phía Mycroft – hoặc ông Sigerson, bởi lẽ lúc này Sherlock phải gọi như thế. “Cám ơn anh lần nữa về việc tham gia vào đoàn tạp kỹ của chúng tôi. Tôi chắc chắn đây sẽ là một cuộc phiêu lưu mà sau này anh sẽ kể cho đám con cháu nghe đấy!”
“Đúng vậy,” Mycroft nói. “Đến đời cháu chắt thì khó đấy, nhưng tôi sẽ để lại các ghi chép khi có dịp.”
Ông Kyte từ giã, và Sherlock quay về phía Mycroft. “Ông Sigerson à? Nghĩa là con trai của Siger? Anh không tìm được một cái tên nào tốt hơn à?”
“Anh mới vừa nghĩ ra thôi,” Mycroft nói. “Cũng chưa có cơ hội thuận tiện nhất để nghĩ kĩ hơn.” Anh nhìn chằm chằm vào hộp đàn Sherlock đang kẹp trong tay. “Cái gì thế?”
“Một… cây vĩ cầm. Để trong hộp.”
“Anh thấy rồi. Hỏi để hỏi thôi. Em đã học môn tu từ khi học tiếng Hi Lạp ở trường phải không? Câu hỏi có lẽ nên bật ra trong đầu em là: tại sao em lại đi mua một cây đàn vĩ cầm trong khi đúng ra em phải mua đồ ấm như anh đã dặn?” Sherlock nghĩ thật nhanh. “Có hai người đi kiếm em,” cậu nói. “Em vào một cửa tiệm. Họ theo đuôi. Em phải chuồn qua cửa hậu. Em mua cây đàn vì hoàn cảnh bắt buộc, bởi vì…?”
“Bởi vì em cần một thứ gì đó để thay đổi bộ dạng, để làm cho mình hoàn toàn khác đi,” Mycroft nói. Qua giọng nói của anh trai, Sherlock nghĩ rằng Mycroft nghi ngờ câu chuyện của mình. “Đây là một diễn biến đáng lo ngại: có nghĩa là họ vẫn còn theo đuổi em, kể cả ông Crowe và anh nữa. Như thế lại càng khiến ta phải rời khỏi London, hoặc nước Anh càng sớm càng tốt.”
Khi Mycroft nói, Sherlock bắt đầu cảm thấy áy náy. Cậu không cố ý nói dối Mycroft, nhưng cậu thà đưa ra các tình tiết để biện minh cho lý do mua cây đàn vĩ cầm hơn là nói thực chỉ vì mình thích nhạc cụ này.
“Anh cho rằng ta có thể đốt cây đàn để sưởi ấm, nếu quả là cần như thế.” Mycroft tiếp tục. “Em phải trả bao nhiêu tiền?” Anh giơ cao tay. “Thôi, đừng nói. Cứ để anh không biết thì tốt hơn. Đem cất cây đàn vào trong phòng đi, rồi anh em ta đi ăn trưa.”
“Nhưng anh vừa mới ăn sáng mà.”
“Sherlock, nếu muốn bị quở trách thì anh chỉ cần về nhà và nói chuyện với bà chủ nhà là đủ.”
Sherlock phóng nhanh lên lầu về phòng mà Amyus Crowe đã đăng ký và đặt cây đàn mới của mình lên giường. Khi bước ra, cậu nhận thấy cánh cửa của căn phòng sát bên phòng cậu, phòng mà Crowe đặt cho chính ông ta, đang mở toang. Cậu nhìn vào trong, hi vọng gặp được Crowe, nhưng chỉ thấy cô hầu phòng đang dọn giường. Túi xách của ông Crowe đã biến mất.
“Cho tôi hỏi - chuyện gì đã xảy ra với người đàn ông thuê phòng này?”
“Ông ta đã trả phòng rồi, thưa ngài,” cô hầu phòng nhìn quanh, nhún chào và nói.
“Trả phòng rồi à?”
“Đúng vậy, chắc là bất ngờ.”
“Vâng, xin cám ơn.”
Cậu phóng xuống cầu thang để báo cho Myroft biết, nhưng ông Crowe đã đang đứng dưới sảnh, mặc áo khoác, túi xách đặt dưới chân.
“Sherlock đây rồi, chú đang mong gặp cháu.”
“Chú đi thật à?”
“Chẳng có việc gì cho chú làm ở đây cả. Anh cháu đã nẫng cháu khỏi tay chú rồi. Chú nên về nhà để lo cho Ginny thôi.”
“Nhưng…” Sherlock ngập ngừng, biết rằng ông Crowe nói đúng.
“Chính xác. Sự việc đã vậy thì cứ để vậy. Chuyến đi này không cần đến chú. Tốt thôi – chú là người lớn. Chú tự lo được.”
“Cháu vẫn muốn chú đi cùng.”
Mặt ông Crowe lộ vẻ khó chịu. “Chú cũng thế. Có một cái gì đó không như ý ta trong toàn bộ sự việc này. Chú nghĩ cái đầu óc vốn không thể sai được của ông anh cháu đã bị sai lạc khi bị tạm giam, và căn cứ trên thực tế thì sự việc đã gần đến chỗ kết thúc. Chú nghĩ là cậu ta đã tính toán sai lầm ở chỗ nào đó mà chú chưa tìm ra. Chú tin chắc rằng chuyến đi Nga lần này là một sai lầm, nhưng chú không thuyết phục cậu ta hủy bỏ được. Bọn chú vừa mới trao đổi việc này. Anh cháu cứ nhất quyết đi. Chú cho rằng việc một nhân viên của anh cháu mất tích tại Moscow làm cậu ta thực sự lo lắng nhiều hơn là cậu ta nói.” Crowe lắc lắc đầu. “Chẳng dễ dàng chút nào khi nhóm thiếu đi một người. Chú đã gặp tình huống này nhiều lần rồi. Dù vậy, chú cũng không hiểu cậu ta muốn kéo cháu theo để làm gì.”
“Cho cháu gởi… lời thăm Virginia.”
“Chú sẽ chuyển lời ngay.” Crowe giơ tay ra. Sherlock bắt tay một cách trang trọng, mấy ngón tay của cậu lọt thỏm trong bàn tay to tướng của ông Crowe. “Hãy bảo trọng, chăm sóc Mycroft. Anh cháu sắp đi vào một môi trường xa lạ rồi.”
Người khuân vác của khách sạn tiến tới cầm lấy túi xách của Crowe nhưng ông xua đi. “Khi nào tôi già không đủ sức nhấc cái túi xách, khi ấy tôi sẽ nhờ đến cậu,” Ông cầm túi xách quẳng lên vai. “Khi nào về nhớ đến thăm chú nhé. Để kể những chuyện xảy ra.”
“Cháu sẽ đến.”
Sherlock nhìn theo ông Crowe bước ra khỏi khách sạn không hề nhìn lại. Cậu cảm thấy như thân thể mình bị cắt đi một mảnh lớn, và trở nên yếu đuối, đơn độc.
Cậu đi vào nhà hàng sau đó, thấy Mycroft ngồi ở bàn ăn với cả một con cá bơn trên khay. Anh đang cẩn thận cầm chiếc dao và nĩa róc lấy xương cá.
“Nếu anh là Chúa nhân từ,” anh mở lời khi thấy Sherlock mặt ỉu xìu ngồi xuống, “anh sẽ tạo ra giống cá vừa ăn được vừa dễ lấy thịt. Có vẻ như có sự sai sót trong thiết kế khiến cho thứ cá ngon lại khó gỡ xương. Chỉ có việc ăn hay không ăn, không có chỗ cho sự lưng chừng.” Mycroft nhìn lên. “Ông Crowe đi rồi à?”
“Vâng, ông ta đi rồi.”
“Tốt.” Mycroft lấy dao xắn một miếng cá rồi cẩn thận chuyển nó sang chiếc nĩa. “Ông ta không đồng ý với kế hoạch đưa em đi Nga của anh.”
“Chú Crowe nói rằng anh đã tranh luận.”
“Đúng vậy. Ông ta cứ giữ ý kiến của mình. Ông ta cứ lo bảo bọc em, em thấy đấy.”
“Em và chú ấy đã trải qua nhiều việc cùng nhau, cả năm chứ ít gì.”
“Đúng thế,” Mycroft cho vào miệng miếng cá, nhắm mắt lại và nhai một lúc. “Cá nấu ngon lắm. Xốt bơ đen rất tuyệt. Anh phải nhớ chỗ này. Cũng không xa văn phòng quá, anh sẽ thường xuyên đến đây ăn trưa.”
“Anh Mycroft, anh có chắc là chúng ta sẽ đi Nga dưới tên giả không?”
“Sau khi đã xem xét kĩ lưỡng vấn đề, anh thấy không còn cách nào khác.” Mycroft nhìn đồng hồ. “Thành viên thứ ba trong đoàn của chúng ta sẽ đến gặp anh bây giờ. Anh có gởi cho anh ta một bức điện rồi.” Anh liếc nhìn Sherlock. “Có việc này anh phải báo trước cho em. Anh có nói đây là nhân viên của anh, anh ta là người chơi violon.”
“Vâng?”
“Điều mà anh không nói là em có biết anh ta.”
Sherlock nghe, nhưng chưa hiểu. “Em có biết anh ta sao? Nhưng em chưa hề biết bất cứ nhân viên nào của anh cả. Em chưa hề gặp người nào - có lẽ ngoại trừ ông Crowe, nhưng em không nghĩ rằng ông ta coi mình là nhân viên của anh.”
“Chắc chắn ông ta không chịu rồi.” Cách nói của Mycroft là kiểu của một người đang chuẩn bị đưa ra tin xấu. “Sherlock,” anh vừa nói vừa đưa mắt nhìn ra phía sau Sherlock, “Anh tin rằng em có quen Rufus Stone.”
Chỉ có tám từ. Tám từ đơn giản giống như những hòn đá nặng rơi xuống cái giếng sâu bên trong đầu của Sherlock. Cậu cảm thấy những làn sóng nhỏ nẩy lên trong đầu mình một lúc lâu sau khi Mycroft nói xong. Cậu quay lại để nhìn xem Mycroft đang nhìn cái gì, nhưng phần trí óc phân tích, suy luận của cậu đã hiểu ra vấn đề. Phần kia - phần xúc cảm vẫn còn thuộc về một cậu bé mười bốn tuổi - vẫn còn hi vọng điều này không đúng, người đứng sau lưng cậu phải là một người hoàn toàn xa lạ.
Nhưng không phải vậy, và cái phần xúc cảm trong đầu một cậu bé mười bốn tuổi đã quặn thắt lại nhiều hơn bình thường phần nào.
Rufus Stone đang đứng phía sau cậu. Rufus Stone, cái đầu tóc nâu không chải và cái cằm lún phún râu, chiếc áo khoác nhung màu xanh da trời. Tai anh ta đeo một cái khoen vàng. Anh ta có vẻ không được thoải mái, như thể rất muốn ở một chỗ khác - bất cứ chỗ nào. Sherlock thực sự khó chịu.
“Ngồi xuống đi,” Mycroft nói. “Anh đang làm cho chỗ này trở nên lôi thôi đấy. Đừng chú ý đến những người hầu bàn; tôi cho rằng chẳng mấy khi ở đây họ tiếp người Di-gan chơi violon. Kinh nghiệm sẽ giúp ích cho họ.”
“Chào cậu Sherlock,” Stone vừa ngồi xuống vừa nói.
“Anh làm việc cho anh tôi sao?” Sherlock hỏi. “Sao anh chẳng hề nói gì cho tôi biết?”
“Bởi vì anh bảo ông ta đừng nói,” Mycroft trả lời. “Khi anh quyết định em và ông Amyus Crowe phải đi Mỹ mấy tháng trước, anh cứ lo là ông Crowe sa đà vào những việc linh tinh, hoặc bất chợt ông ta thấy mình còn yêu quê hương quá nhiều nên không quay lại nước Anh, nên anh đã bố trí ông Stone đây lấy vé đi cùng chuyến tàu, và để mắt tới em. Tại New York, anh ta phải theo sát em, bảo vệ em.” Mycroft thở phì. “Dĩ nhiên là việc này đã không xảy ra như anh dự liệu, chỉ vì những hành động của em khi theo dõi mấy tay bắt cóc Matthew Arnatt trên chuyến tàu đi đến nơi mà chẳng ai biết cả.”
“Anh làm việc cho anh tôi sao!” Sherlock lập lại. Ý nghĩ này giống như một chướng ngại vật lớn ở ngay giữa tâm trí cậu đến nổi không trèo qua được.
“Anh không cần phải nói thêm,” Mycroft tiếp tục, “là việc dạy đàn violon cho em không nằm trong nhiệm vụ của anh ta.”
“Không đâu, đó là do ý của tôi,” Stone nói. “Tôi cũng thích vậy.”
“Nhưng mà anh làm gì cho anh Mycroft?” Sherlock hỏi.
Rufus Stone nhún vai. “Chủ yếu là đi đây đi đó, tự do như chim trời và như một người nghèo cháy túi. Tôi chu du tự do qua nhiều nước vùng Trung Âu. Chẳng ai để ý đến một nhạc sĩ vĩ cầm Di-gan như tôi. Tôi nhặt nhạnh các tin đồn, nghe ngóng sự việc thiên hạ chuyện trò trong các quán rượu, đại khái như thế, rồi làm báo cáo gởi về cho ông Holmes đây.”
“Người ta thường có thể đánh giá đúng về tình hình kinh tế của một quốc gia qua những lời nói của các nông dân bên cốc bia hơn là qua việc đọc báo,” Mycroft nói. “Anh có nhiều nhân viên trên khắp thế giới, nhiệm vụ duy nhất của họ là thu thập những gì công chúng nói, sàng sảy lại rồi gởi về cho anh cái cốt lõi thực tế.”
“Còn việc chuyển đến Farnham?” Hai bàn tay của Sherlock run lên, cậu phải giữ chúng dưới gầm bàn để tránh cho người khác thấy được. Cậu cảm thấy bị phản bội. “Đó là ý của ai vậy?”
Stone nhìn qua phía Mycroft. Thấy ông anh của Sherlock vẫn im lặng, Stone lên tiếng: “Khi tôi trở lại nước Anh, ông Holmes bảo tôi lưu lại vùng quê một thời gian, để xem tôi có biết được gì về tình hình đất nước. Tôi đề nghị là tôi nên bắt đầu tại Hampshire.” Anh ta dừng lại, lúng túng. “Tôi muốn xem món đàn vĩ cầm của cậu có tiến bộ hay không.”
“Tôi vừa mua một cây đàn vĩ cầm mới.” Sherlock nói. Giọng của cậu nghe yếu xìu, thậm chí như nói với chính mình.
“Tôi muốn xem cây đàn.”
Mycroft hắng giọng. “Ông Stone sẽ cùng đi Nga với chúng ta. Ông ta đã từng chu du đến nước này, và dĩ nhiên là chúng ta cũng cần đến một tay vĩ cầm để đủ thành phần trong danh sách đoàn kịch.” Anh ngừng một chút, rồi tiếp tục, giọng mềm hơn, “Sherlock, cứ tin ở anh, anh làm việc đó chẳng qua là muốn tốt cho em thôi, và anh không muốn em biết anh đã làm những việc đó nếu thực sự không cần thiết.”
“Nhưng điều này cũng không phải là tốt,” Sherlock nói rồi đứng dậy. “Em đi ra ngoài đây.”
“Em phải có mặt tại nhà hát King ở Whitechapel vào lúc 4 giờ chiều nay đó,” Mycroft dặn dò. “Chúng ta phải gặp mặt các bạn đồng hành.”
Sherlock bỏ đi mà không trả lời. Cậu nghe tiếng Mycroft nói đằng sau: “Đừng, cứ để cậu ta đi. Rồi Sherlock sẽ hiểu việc tôi làm là hoàn toàn hợp lý và để bảo vệ em mình.”
Cậu rời khách sạn, đi ra ngoài đường. Trời bắt đầu mưa, cậu cảm thấy những hạt mưa lạnh lẽo đang đâm vào da mặt, nhưng bất cần. Mọi thứ xung quanh cậu đều xám xịt và chán ngắt. Vô nghĩa.
Cậu rẽ trái và bắt đầu cuốc bộ, lang thang vô định. Cậu cố không suy nghĩ gì cả, không nghĩ đến anh mình, hoặc Rufus Stone, hay chuyến đi Mỹ mà giờ đây gần như chuyện hư cấu. Cậu chỉ đi; đi và quan sát. Giống như một chiếc máy tính di động, cậu ghi nhận những sự kiện xung quanh và dùng lý trí kết nối chúng lại. Ngươi đàn ông có chiếc khăn quàng cổ chấm đỏ đứng ở trên bậu cửa nọ - ông ta mắc một chứng bệnh có lẽ tại Ấn Độ, căn cứ theo màu sắc làn da thì trong vòng một tuần sẽ chết. Chiếc đồng hồ mà người đàn ông đội mũ chóp cao đang xem không phải của ông ta, có nhiều khả năng đã ăn cắp của ai đó, và vụ trộm này mới chỉ xảy ra vài ngày trước. Người ăn mày ngồi trên chiếc xe đẩy có bánh ở góc phố, người này ở cổ có mang một bảng hiệu báo cho mọi người biết là chân anh ta bị liệt, nhưng thực ra anh ta đi bộ nhiều dặm mỗi ngày, căn cứ theo độ mòn còn mới của đôi giày. Tất cả những điều đó Sherlock suy ra từ những gì mình quan sát được, nhưng chẳng có cái nào khiến cậu quan tâm.
Cậu chẳng quan tâm đến thứ gì cả.
Cậu cứ đi mà quên mất thời gian, nhưng khi nhìn đồng hồ gần đến bốn giờ, cậu mới nhận ra là mình đã đến gần Whitechapel. Đầu óc đã lái cậu đi đúng hướng mà cậu không nhận ra.
Nhà hát nằm sâu trong một con đường nhỏ bên cạnh phố lớn. Mặt tiền xây bằng gạch đỏ với hàng cột tròn màu trắng, từ mặt đường bước lên các cửa chính có bốn bậc tam cấp.
Sherlock bước lên và đi vào sảnh. Chẳng có ai cả - các cánh cửa chớp ở quầy vé cũng đóng – nhưng Sherlock vẫn ngửi được cái mùi của đám đông thường xuyên chen chúc ở phòng chờ: váng vất mùi khói thuốc lá, mùi nước hoa thấm vào các bức tường và trần nhà bằng thạch cao có hoa văn trang trí.
Hai bên sảnh có những bậc thang, có lẽ dẫn đến khu vực ghế ở ban công, nhưng ở phía xa, có hai cánh cửa mà cậu đoán là dẫn thẳng tới sân khấu. Một bên của quầy vé có một cánh cửa hình như dẫn vào khu vực hậu trường: phòng thay quần áo, phòng nghỉ của diễn viên và sân khấu.
Sherlock đứng tần ngần một lúc, hít lấy những thứ mùi của nhà hát, lắng nghe những tiếng than van, rên rỉ của tòa nhà vọng lại, đưa mắt nhìn lướt qua những áp-phích cũ nằm trong khung móc trên tường. Có một cái gì đó hầu như sống động tại nơi này. Cậu đã từng đến nhiều tòa nhà dành cho công chúng, nhưng đây là nơi duy nhất mà cậu cảm thấy dường như đã hấp thu thứ gì đó tốt đẹp của những con người đã bước qua ngưỡng cửa để vào đây. Trường Deepene dành cho nam sinh sặc mùi rệu rã, câu lạc bộ Diogenes tạo ra cảm giác dễ cáu, bực mình, nhưng nhà hát King thì giống như một ngôi nhà dù cậu chưa hề ở đó.
Cậu bước về phía cửa chính dẫn vào thính phòng, đẩy vào.
Không gian bên trong không rộng như cậu nghĩ. Những hàng ghế hình vòng cung ở hai bên, dốc thoai thoải về trước, tất cả ghế đều được bọc lớp nhung xanh xỉn màu. Mặt dưới của ban công lờ mờ hiện ra như một đám mây tối, thấp. Nó được chống bằng các cột sắt được uốn theo các hình nghệ thuật, sơn màu nâu, đỏ và xanh lục giống như các cành cây mảnh dẻ được điểm xuyết với lá và hoa. Hai bên nhà hát là các lô ngồi được quây rèm kín, mỗi lô có một số ghế tách biệt dành cho người có tiền. Sherlock sớm hiểu ra cách mà vé được bố trí: phần gần sân khấu giá rẻ nhất, ghế ở khu vực ban công đắt thứ nhì, còn ghế ở lô là đắt tiền nhất, mặc dù từ “đắt tiền” có lẽ chỉ có tính tương đối so với cái nhà hát nhỏ biệt lập này. Giữa các hàng ghế có lối đi dẫn thẳng xuống sân khấu.
Có một nhóm người đứng trên sân khấu, trong đó có anh Mycroft. Mycroft trông có vẻ nổi bật với áo choàng, mũ cao và gậy trong tay. Trong giây lát nhìn kỹ anh mình, Sherlock thấy Mycroft đúng là một nhân vật có thế lực, chứ không phải là một người anh. Nhìn anh thật uy quyền; vẻ quan trọng và quyền lực như toát ra từ người anh.
Rufus Stone đứng phía sau Mycroft, hơi chệch qua một bên. Còn người đàn ông tóc đỏ dềnh dàng như con gấu mà Sherlock đã gặp trước đó - ông Kyte – đang đứng cạnh Mycroft, ông ta vẫn còn mặc chiếc áo khoác to xụ, phía bên kia anh là một nhóm người mà theo Sherlock là các diễn viên kịch và nhân viên hậu đài. Các diễn viên, đa số mặc trang phục thời xa xưa: những bộ váy nhung cầu kỳ dành cho phụ nữ, còn đàn ông thì mặc áo sơ mi có ren và quần phồng túm ở dưới.
“Scott đây rồi,” Mycroft lên tiếng. Giọng anh vang vang khắp thính phòng. “Đến đây nào.”
Sherlock đi xuống dọc theo lối đi giữa các hàng ghế. Lối lên sân khấu bị một khu vực có rào chắn lại, Sherlock nghĩ đó là chỗ dành cho dàn nhạc đệm. Cậu nhìn qua hai bên. Có năm bậc tam cấp từ sàn chỗ hàng ghế đầu tiên dẫn lên sân khấu ở mỗi bên. Cậu chọn đi lối bên phải.
Khi bước lên sân khấu, cậu ngạc nhiên nhận ra ở đây có độ dốc. Phần phía trước thấp hơn phía sau khoảng ba tấc. Cậu nghĩ sân khấu được làm dốc như thế để khán giả nhìn rõ hơn những gì đang được diễn, nhất là những người ngồi ở hàng ghế rẻ tiền, có khi phải nghển cổ mới nhìn thấy diễn viên. Ngoài rìa sân khấu là những cây đèn hơi được lắp sau các tấm kính phản quang và ở giữa sân khấu có một cái cửa sập.
Cậu băng qua sân khấu tới chỗ Mycroft đang đứng, những người khác chăm chú nhìn cậu.
“Tôi đã giới thiệu Rufus Stone là người chơi vĩ cầm cho dàn nhạc đệm,” Mycroft đạo mạo nói. “Còn giờ đây tôi xin phép được giới thiệu người được tôi bảo trợ, cậu Scott Eckersley. Với sự cho phép của ông Kyte, Scott sẽ tham gia đoàn của chúng ta với vai trò người chạy việc chung.” Anh quay sang Sherlock. “Scott, cho phép tôi giới thiệu cậu với mọi người trong đoàn.” Anh chỉ vào một người đàn ông có mái tóc dài hoe vàng chải trợt ra sau từ hàng lông mày rậm ri. Ông ta đang mặc trang phục diễn. “Đây là ông Thomas Malvin, diễn viên nam chính của đoàn.”
Malvin gật đầu chào Sherlock mà chẳng thèm nhìn đến mặt cậu.
“Và đây,” Mycroft tiếp tục, hướng về phía một phụ nữ xinh đẹp hơi xanh xao, có đôi mắt xanh, tóc đen nhánh, người đang mỉm cười chào Sherlock, “là cô Aiofe Dimmock. Nữ diễn viên chính đóng cặp với ông Malvin.”
Sherlock mỉm cười chào lại. Cô Aiofe phải lớn hơn cậu ít nhất là mười tuổi, nhưng nụ cười và đôi mắt màu xanh lá cây của cô có cái gì đó làm cho tim cậu như hẫng nhịp.
Rời mắt khỏi cô Aiofe Dimmock, Sherlock nhìn theo cử chỉ của Mycroft. “Ông William Furness và bà Diane Loran đóng vai trò hỗ trợ rất quan trọng cho vai diễn của hai diễn viên chính,” Mycroft giới thiệu.
William Furness là một người đàn ông phốp pháp, trên đầu chỉ còn một khoảnh tóc nhuộm đen ôm trọn phần sau ót, bắt đầu từ ngang mép tai trở xuống. Ông ta có cái mũi phồng to đầy u nhỏ, hai bên má nổi lên các mạch máu đỏ của người nghiện rượu nặng. Những mạch máu này có thể được che đi khi hóa trang, nhưng cái mũi to tướng như chiếc bắp cải thế kia thì dù hóa trang thế nào đứng đằng xa cũng thấy. Ông ta giơ hai ngón tay lên trán làm kiểu chào. Bà Loran là một phụ nữ dáng vẻ đoan trang, tóc búi lại phía sau. Bà ta có vẻ như muốn ở trong bếp nhà mình hơn là trên sân khấu. Bà chào Sherlock một cách thân thiện. Nếu mà đứng gần hơn, cậu nghĩ bà sẽ ôm chào mình.
“Ông Kyte,” Mycroft nói, “ngoài việc thường xuyên lên sân khấu với ông Malvin và cô Dimmock còn là người tham gia điều hành đoàn kịch, ngoài ra chúng ta còn có bốn diễn viên chính nữa. Những người mà cậu gặp ở đây sẽ đóng vai quần chúng và vai phụ khi không phải kéo phông ở hậu trường. Từ trái sang phải là Rhydian, Judah, Pauly và Henry.”
Sherlock gật đầu chào bốn cậu bé xấp xỉ tuổi mình, họ đang đứng đằng sau các diễn viên chính. Rhydian gầy và đen, cằm nhọn hoắt, mày rậm. Judah cũng gầy, nhưng mái tóc lại mảnh và nhạt đến mức gần như màu trắng, xõa bồng bềnh trên trán, còn đôi mắt thì có ánh màu hồng. Pauly và Henry là anh em sinh đôi: cả hai đều gân guốc, và có đôi mắt màu nâu. Khác biệt duy nhất giữa hai anh em là Pauly (Sherlock cho rằng đó là Pauly, vì anh ta là người gần Mycroft nhất) đã mất ngón tay út bàn tay trái trong một tai nạn khi diễn ở nơi nào đó.
Có tiếng ho đằng sau cánh gà. Nhìn vào chỗ tối, Sherlock chỉ thấy bóng một người đàn ông có hàng ria mép dày đen nhánh che kín miệng. Ông ta dường như luôn ngả người ra sau, tay đút vào túi áo, nhìn chằm chằm vào những người đứng trên sân khấu. Đôi mắt ông lấp loáng trong bóng tối.
“À vâng, tôi suýt quên,” Mycroft nói. “Tuy dàn nhạc đệm chưa có mặt, nhưng cũng xin giới thiệu ông Eves. Ông Eves là nhạc trưởng và là người soạn nhạc.”
“Chào ông Eves,” Sherlock gật đầu.
“Chào cậu… Eckersley,” nhạc trưởng gật đầu đáp lại. Giọng ông ta khô khốc. “Rất hân hạnh được gặp cậu.”
“Thưa ông Kyte, thưa quí bà, quí ông,” Mycroft - hoặc đúng hơn là ông Sigerson, Sherlock nghĩ rằng từ bây giờ anh cậu sẽ được gọi như thế - tuyên bố, “cám ơn các vị đã cho phép chúng tôi tham gia vào đoàn, được quí vị tin tưởng và tôi mong sẽ được các vị yêu mến. Ông Kyte đây đã xem qua những lời giới thiệu về tôi, và tin rằng tôi sẽ phục vụ mọi người một cách có trách nhiệm, như tôi đã từng phục vụ các đoàn kịch khác trong quá khứ. Với vai trò Giám đốc quản trị, tôi sẽ phục vụ quí vị bằng tất cả khả năng của mình và đưa các vị tiến về phía trước, thậm chí còn lên cao hơn nữa. Để đạt mục đích này, công việc đầu tiên chúng ta phải làm là bảo đảm chuyến đi Moscow sắp tới diễn ra êm thắm, không có sự cố nào. Mục tiêu của tôi là bảo đảm mọi thủ tục phải được ký kết nhanh chóng và suôn sẻ, để cho quí vị tập trung vào hoạt động nghệ thuật. Hãy tin tưởng tôi, và tôi sẽ không phụ lòng quí vị.”
Mấy tiếng vỗ tay lèo tèo tiếp theo lời phát biểu của Mycroft.
“Và tiếp theo,” Ông Kyte nói to, “tôi đề nghị tất cả quay lại diễn tập. Tôi cho mọi người năm phút để lên sân khấu. Nhớ đấy – ba ngày nữa chúng ta sẽ đi Moscow!”