CHƯƠNG 11
Tuần kế tiếp trôi qua như một giấc mơ sôi động. Sau ít ngày ở London để làm quen với công việc đoàn kịch trong khi Mycroft thu xếp những việc cuối cùng của chuyện đi lại, Sherlock lên tàu tại ga Charing Cross cùng với các thành viên khác. Nếu đó là nhà ga Waterloo thì có lẽ cậu sẽ có chút sợ hãi khi nhớ lại cảnh bị săn đuổi trong đường hầm dưới nhà ga, nhưng Charing Cross chỉ là một nhà ga nhỏ không hề gợi chút ý xấu nào. Đoàn tàu lướt qua khung cảnh miền quê quen thuộc của nước Anh xuống tận cảng Dover, nơi họ chuyển sang tàu thủy để vượt eo biển Anh sang Pháp. Tại cảng Dunkerque, họ lên một chuyến tàu hỏa khác, sau ba ngày nữa sẽ có mặt tại Moscow. Chỉ mất ba ngày để đi xuyên châu Âu! Thật không thể nào tin được!
Trên tàu chỉ có tiện nghi cơ bản. Ghế ngồi hầu như chẳng có đệm lót gì, và trên tàu cũng không có giường ngủ. Thay vào đó, cả đoàn chỉ ngủ ngồi, hoặc nằm xoãi trên ghế.
Các nhạc sĩ, những người chưa được giới thiệu với Sherlock, ngồi với nhau. Dường như cả ngày họ chỉ ngủ hoặc chơi cờ đam trên các bàn cờ nhỏ gấp lại được. Duy có Mycroft và ông Kyte là có giường ngủ riêng, phù hợp với chức danh là Giám đốc và nghệ sĩ chính của Đoàn kịch nghệ Kyte. Phần lớn thời gian mỗi người tự làm việc của mình.
Sherlock dành nhiều giờ dán mắt vào khung cửa sổ, nhìn cảnh vật lướt qua. Những tên gọi trước đây cậu chỉ thấy trong các tập bản đồ địa lý nay bỗng chốc trở thành sống động trước mắt mình: những quốc gia như nước Bỉ, nước Phổ, những thành phố và đô thị như Brussels, Koln, Berlin, Warsaw và Minsk…
Trong lúc cậu chăm chú nhìn vào khung cửa sổ, quan sát những vạt rừng linh sam vụt qua trước mắt thì bà Loran đến ngồi kế bên.
“Cậu trông cô độc quá,” bà ta nói. “Chắc là cậu muốn có người trò chuyện.”
“Cháu ổn. Cháu… thấy bị thu hút bởi những điều luôn thay đổi khi chúng ta đi du lịch như ngôn ngữ và thức ăn, nhưng có những thứ khác, như cây cối và súc vật thì hầu như chẳng khác nhau mấy. Ví dụ như ở đâu cũng có chim và mèo cả.”
“Và xúc xích nữa chứ,” bà ta nhận xét. “Tôi không tin rằng trên thế giới lại có nước không có xúc xích.” Bà nhìn cậu một lúc bằng ánh mắt đầy trìu mến rồi nói. “Người bảo trợ của cậu, ông Sigerson, dường như không dành mấy thời gian cho cậu trong chuyến đi này.”
“Anh ấy bận,” Sherlock trả lời, nghĩ rằng mình phải biện hộ cho Mycroft.
“Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng đã là người bảo trợ thì anh ta phải để tâm chăm sóc cậu, chứ không phải để cậu một mình như thế này đâu.” Bà ta hất hất đầu sang một bên. “Anh ta dường như chẳng thèm quan tâm xem cậu có ổn hay không.”
“Anh ấy có quá nhiều việc để lo toan.” Cảm thấy cần phải thận trọng, Sherlock cố thay đổi đề tài. “Cô đã diễn kịch lâu chưa ạ?”
Bà ta nhìn đăm đăm qua vai cậu, hướng tầm mắt ra ngoài cửa sổ, giọng thầm thì. “Ồ, đôi khi tôi có cảm giác mình đã diễn suốt cả cuộc đời rồi.”
Cảnh vật thay đổi khi tàu chạy ngày càng xa về hướng tây. Đó là một vùng nhỏ của nước Pháp mà Sherlock đã từng thấy, và tiếp đến là dải đất rộng lớn của xứ Bỉ, tất cả hòa vào nhau thành những cánh rừng màu xanh đậm và các cánh đồng xanh nhạt. Nhưng khi họ đi qua nước Phổ và vào hẳn nước Nga thì vùng đất trở nên ẩm ướt hơn, và nhiệt độ tụt xuống nhanh làm cho những vũng nước nhỏ bị đóng băng lại, có cả tuyết phủ trên mặt đất. Người dân ở đây có vẻ thấp và da sậm màu hơn, hoặc có lẽ do mây ở đây lúc nào cũng sà thấp trên mặt đất làm ảnh hưởng đến tri giác của cậu.
Có lúc, Sherlock đi dọc theo hành lang toa tàu để tìm xem Mycroft như thế nào. Anh cậu ngồi trong toa riêng, tựa vào chồng gối, vẻ mặt không khỏe lắm. Xung quanh anh bề bộn sách, quyển nào cũng mở, và có vẻ anh đang ghi chép vào một cuốn sổ tay nhỏ. Anh ngước nhìn lên khi Sherlock gõ và đẩy cửa đi vào.
“Gì vậy?”
“Em chỉ đến xem anh có ổn hay không.”
“Không, anh không ổn lắm. Tiếng xình xịch khốn kiếp của con tàu làm cho bộ máy tiêu hóa của anh bị rối loạn. Anh thử giải trí bằng cách đọc sách, nhưng chẳng ích gì.”
“Em có thể làm gì cho anh không?”
“Chỉ cần để yên cho anh chịu đựng một mình là được,” Mycroft nói ngắn gọn. “Anh không muốn nói chuyện lúc này.”
Sherlock lui ra và đóng cửa lại. Cậu đứng một lúc bên ngoài khoang của anh mình, tần ngần không biết làm gì. Cậu không nhớ nổi có khi nào mình cảm thấy cô đơn và vô tích sự như thế này kể từ buổi đầu tiên bước vào nhà chú thím tại Farnham.
Sherlock quay lại và bỏ đi, nhưng có gì đó chợt làm cậu chú ý. Ngay bên ngoài cửa phòng ông Kyte có một thứ nằm cạnh khung cửa: một vật màu nâu, kích thước và hình dáng như ngón tay cái được buộc bằng một sợi dây mỏng. Cậu cúi xuống để nhặt lên. Khi mấy ngón tay sờ vào một thứ mềm mềm, cậu hoảng hồn nhận ra ngay đó là một con chuột. Một con chuột chết. Cái mà cậu cứ tưởng là khúc dây đong đưa chính là cái đuôi.
Chuột chết ư? Trên tàu chắc cũng có chuột, như ở nhà vậy. Cậu nhìn quanh để tìm chỗ vất con chuột đi, nhưng đột ngột cánh cửa buồng ông Kyte mở ra, và người đàn ông vạm vỡ, râu đỏ nhìn trừng trừng Sherlock. “Gì vậy?” ông ta hỏi giọng khò khè. “Chuyện gì à?”
“Không có gì,” Sherlock đáp. “Tôi chỉ ghé qua thăm ông… Sigerson mà thôi.” Cậu tuồng con chuột vào túi áo khoác. Vì một lý do gì đó không hiểu được, cậu không muốn cho ông Kyte biết việc này.
“Nếu cậu thấy chán,” ông Kyte thở mạnh, “thì cứ đi gặp mấy đứa con trai mà nói chuyện. Cậu cần phải làm việc với chúng về món phông màn và trụ chống đấy. Đi làm quen đi.” Ông ta đóng sầm cửa lại trước mặt Sherlock.
Thực ra, sau ba ngày ở London, khi học cách kéo phông và di chuyển trụ chống trên sân khấu, Sherlock đã kịp tìm hiểu khá kĩ về bốn thành viên trẻ tuổi của đoàn kịch. Để giết thời gian trên tàu, cuối cùng Sherlock cũng nhận lời chơi bài với họ. Chỉ trong vòng một ngày, họ dạy Sherlock các kiểu chơi bài whist, cờ thỏ cáo và trò baccarat, và với năng khiếu toán học - đó là chưa kể đến khả năng nhớ dai dường như là đặc tính di truyền của nhà Holmes – chẳng bao lâu Sherlock đã nắm được các mánh khóe của mấy trò bài bạc này.
Cậu mê cái cách mà cặp sinh đôi xóc bài. Họ xoay bộ bài như những tay đánh bạc có nghề, xáo bài dễ dàng, chia bài rất ngọt tay và chính xác. Rốt cuộc, cũng tới lúc cậu hỏi họ cách xáo bài, và thế là Sherlock được dạy các kiểu xáo khác nhau – kiểu lật tay, Hindu, đãi vàng, rung tay, cởi trần. Họ cho cậu biết, tất cả đều do nhanh tay và tập luyện. Dĩ nhiên, đó cũng là những gì mà Rufus Stone đã nói về việc chơi đàn violon, cậu mượn lại bộ bài khi chơi xong, bỏ ra mấy tiếng đồng hồ sau đó để tập luyện nhiều lần cho thành thạo các kĩ thuật xóc bài khác nhau. Với các ngón tay thon mảnh, tính kiên trì, chẳng bao lâu cậu đã nắm được kĩ thuật, và trong các ván bài sau đó cậu cũng xóc bài và chia bài thành thạo không kém gì Henry và Pauly.
Đến ngày thứ ba, việc dán mắt vào cửa sổ cũng hết thú vị. Cậu tập trung quan sát các diễn viên của đoàn – ông Malvin, ông Furness, cô Dimmock và bà Loran. Cậu thử đem áp dụng những kĩ năng mà ông Amyus Crowe đã truyền đạt để làm rõ tính cách và quá khứ của họ, nhưng lại thấy chẳng ăn khớp mấy. Khi cậu vừa mới đưa ra suy diễn nào đó về một người trong số họ, thì một ý nghĩ khác lại xuất hiện làm cho suy diễn đó thay đổi. Có lẽ nó liên quan đến việc tập luyện diễn xuất của các diễn viên này - có lẽ những gì mà cậu thấy được là những cá tính khác nhau được họ vô thức biểu lộ ra ngoài.
Có một lúc, khi con tàu đang chạy rầm rập qua một vùng đất đầy đầm lầy và khung cảnh buồn chán, Sherlock nhận thấy ông Furness – người diễn viên lớn tuổi, mập mạp, mặt nổi đầy gân máu và cái mũi to như bắp cải – đang soạn những thứ gì đó từ một chiếc hộp để trên đùi. Chúng đủ các thứ linh tinh. Thấy Sherlock đang đứng nhìn, ông ta ra dấu cho cậu lại gần.
“Vật dụng hóa trang khi lên sân khấu đấy,” ông ta nói, hơi thở bốc mùi rượu gin. “Cậu đã thấy cái này rồi chứ?”
“Chưa nhìn rõ lắm ạ,” Sherlock thú thực. “Cháu thường chỉ đứng ở hậu trường.”
“Cái thùng này đi theo tôi nhiều năm rồi,” ông Furness thổ lộ. “Tôi tô mặt bằng sáp ong, mỡ cừu trộn với kẽm, chì, muội đèn, phẩm son, có thêm màu xanh biếc, màu đất hoặc màu xanh Phổ để tạo màu. Rồi còn những thứ khác như than bất và muội đèn để đánh mắt và lông mày, tro giấy để bôi đen mặt, nhựa dính để dán tóc giả, hoặc sợi nhiễu để làm râu và ria mép. Nếu biết cách dùng, cậu có thể làm cho khuôn mặt khác hẳn, ít nhất nếu nhìn từ xa.”
Thấy Sherlock nhìn với vẻ nghi ngờ, ông ta tiếp: “Xem này, nếu đánh màu sáng cho những cái xương lồi trên mặt như cái mũi và xương gò má chẳng hạn, thì những nét này càng lộ rõ hơn. Nếu đánh màu tối cho những chỗ trũng, thì sẽ làm cho những chỗ ấy trũng sâu hơn. Thay đổi chỗ cần đánh sáng và tối, cậu có thể làm cho cằm xệ xuống, cái trán lộ nhiều nếp nhăn, mắt sụp và các gân xanh phồng ra. Nếu tất cả đều vô dụng thì…” Ông ta móc ra một hộp sắt nhỏ. “Bột làm mũi.”
“Bột làm mũi?” Sherlock ngờ vực.
“Thứ bột này làm thay đổi hình dạng của chiếc mũi, cằm - tức là những thứ gì không cử động. Bột làm mũi này không co lại được, thấy không, cho nên nếu dán lên má thì nó sẽ nứt, nhưng cậu sẽ không tin nổi là bề ngoài của cậu thay đổi như thế nào với một cái mũi hoặc một cái cằm hoàn toàn khác. Bạn thân nhất của cậu cũng sẽ không nhận ra!”
Cuối cùng khi Sherlock không còn chú ý đến ngày giờ nữa, và chuyến đi đã trở thành một chuỗi thời gian vô định, thì con tàu đi vào nhà ga Kursh ở Moscow.
Một người đàn ông cao ráo mặc áo choàng đen, áo khoác ngoài đen viền lông thú và mũ cao đen đã đứng sẵn ở bên kia hàng rào soát vé. Ông ta có bộ ria mép nhỏ và râu cằm tỉa tót gọn gàng, da trắng bệch như sứ. Dường như ông đang đứng chờ cho ai đó, và khi thấy bóng của cả đoàn hát ông ta mỉm cười, giơ cao tay ra hiệu.
Ông Kyte là người đi qua hàng rào đầu tiên. Ông dang tay ra, người đàn ông kia bước tới, ôm chầm lấy ông ta. Mycroft, đứng sát sau lưng ông Kyte, lẹ làng bước lùi về phía sau.
Người đàn ông có râu nói chuyện với ông Kyte và Microft một hồi lâu, sau đó quay về phía các thành viên của đoàn kịch. “Tôi là Morodov,” ông ta nói tiếng Pháp giọng có trọng âm; “Piotr Ilyich Morodov. Tôi hân hạnh được đại diện cho Hoàng thân Yusupov, người bảo trợ cho chuyến đi của quí vị đến đất nước thân yêu của chúng tôi. Chúng tôi cam đoan sẽ không để sai sót bất cứ điều gì nhằm bảo đảm cho chuyến đi của quí vị được nhiều thú vị cũng như mang lại thành quả nghệ thuật. Nào, xin đi theo tôi. Tôi sẽ đưa các vị đến khách sạn Slavyansky Bazaar. Chúng tôi đã đặt phòng ở đó rồi.”
Ông ta búng tay và mấy người phu khuân vác, mặc đồng phục vải séc may thô, rộng thùng thình bước tới để khiêng hết các loại vali, túi xách mà đoàn kịch mang theo. Ông ta dẫn mọi người ra ngoài, nơi có nhiều xe ngựa đang đậu chờ họ.
Ngoài trời rất lạnh, mặt đất phủ đầy tuyết, nhưng thay vì là thứ bùn loãng màu nâu do tuyết bị xe ngựa, xe bò xới lên hòa lẫn với bùn và rơm như ở Anh, tuyết ở đây trắng và dày. Nó kêu lạo xạo dưới chân khi đoàn kịch bước ra khỏi nhà ga và thấy ba chiếc xe ngựa đang đứng chờ đón họ về khách sạn.
Cũng như mọi người khác trong đoàn, Sherlock ngạc nhiên khi thấy có nhiều phương tiện chuyên chở tụ tập trên đường phố bên ngoài khách sạn. Cậu vốn quen với những chiếc xe bò có sàn phẳng vùng nông thôn Farnham, loại xe ngựa hai bánh và xe ngựa bốn bánh ở London, nhưng ở đây lại hoàn toàn khác biệt. Xe cộ nơi này trông giống như các dụng cụ tập thể dục mà cậu từng sử dụng tại trường Deepdene dành cho nam sinh hơn bất cứ thứ gì mà người ta muốn trèo lên đi: đó là những tấm ván dài, hẹp mà khi ngồi hành khách buộc phải dạng chân ra, như thể đang ngồi trên lưng ngựa thay vì được ngựa kéo, với hai bên thành xe nghiêng ra ngoài nối với bậc lên xuống, tất cả được đặt lên bốn bánh xe có độ đàn hồi, còn người đánh xe thì ngồi trước mặt hành khách. Kiểu này không tiện cho đàn ông và hoàn toàn không phù hợp cho phụ nữ mặc váy.
Cả đoàn đứng nhìn người phu xe đưa túi xách và vali chất lên phía sau xe, rồi lên xe. Quảng đường từ nhà ga đến khách sạn không dài, nhưng Sherlock bị cái vẻ đồ sộ và cổ kính của các công trình ở đây lôi cuốn. Mọi thứ dường như đều được xây lớn hơn so với London - mức độ to lớn làm cho người dân địa phương trở nên thấp đi, họ lăng xăng dưới bóng của các tòa nhà, người gập lại để bớt lạnh, giống như đám chuột nhắt chạy dọc theo ván lót chân tường. Và màu sắc nữa chứ! Cậu vốn quen với các tòa nhà sử dụng màu của đá, hoặc gạch, hoặc gỗ, nhưng ở Moscow, cứ hai tòa nhà thì có một được sơn bên ngoài. Một số được sơn màu hồng, một số màu xanh dương, số khác màu xanh lá và nhiều nhà được sơn màu vàng đến mức Sherlock không thể hiểu nổi. Có lẽ nước Nga quá dư thừa sơn màu vàng.
Khi họ đến khách sạn, Piotr Ilyich Morodov đăng kí phòng cho cả đoàn, rồi chào tạm biệt ra về, Mycroft và ông Kyte họp mọi người lại trong sảnh.
“Tôi đã chuẩn bị xong lịch làm việc,” Mycroft tuyên bố, trong đó có ghi chi tiết những việc phải làm trong mấy ngày tới.” Anh đưa mu bàn tay lên che miệng rồi ho. “Tôi sẽ phát những tờ lịch công tác này sau, nhưng để tôi tóm tắt chi tiết cho các vị rõ. Trước hết, chúng ta đến Moscow theo lời mời của Hoàng thân Yusupov. Hoàng thân là người bảo trợ nghệ thuật có tiếng, luôn mong muốn thấy một đoàn kịch nghệ của Anh trình diễn tại Nga. Hoàng thân cho chúng ta tuỳ nghi hoạt động ba ngày tại nhà hát Maly. Nhà hát này chắc chắn là nhà hát hàng đầu của Moscow, cũng có nghĩa là nhà hát hàng đầu của nước Nga.”
“Sức chứa của nó bao nhiêu ghế?” Ông Malvin, diễn viên chính của đoàn, hỏi. Ông rướn cao giọng như đang ở trên sân khấu. “Tôi là một diễn viên đáng kính. Tôi không diễn trước mặt một nhóm khán giả lèo tèo đâu.”
“Sân khấu chính có sức chứa 950 chỗ, sân khấu phụ chứa 750 chỗ.”
“Vậy ta diễn ở sân khấu nào?” cô Aiofe Dimmock, nữ chính, ngắt lời.
“Ta sẽ diễn ở sân khấu phụ,” Mycroft trả lời trơn tru, “nhưng chỉ vì những vở diễn có không khí ấm cúng của chúng ta phù hợp với khu vực sân khấu nhỏ hơn.”
Ông Kyte bước ra trước. “Tôi không muốn thấy lối diễn tinh tế và đầy sắc thái của cô bị loãng đi trong một thính phòng quá rộng.”
Cô Dimmock gật đầu và từ tốn lùi ra sau. “Rất chu đáo. Xin cám ơn.”
“Tôi cần xem trước thính phòng,” Malvin nói to. “Tôi không thể nào diễn được nếu chưa đặt chân lên sân khấu. Tôi cần đánh giá độ vang của âm thanh và xem thử tôi phải ướm giọng như thế nào để khán giả ở những góc xa nhất cũng có thể nghe được.”
“Dĩ nhiên rồi. Việc này sẽ bàn sau.” Mycroft ngưng lại, nhìn về phía các thành viên. “Như các vị đã rõ, chúng ta được hợp đồng diễn ba vở, mỗi đêm một vở khác nhau. Với đêm đầu, Hoàng thân Yusupov đã gởi giấy mời cho các tầng lớp tinh hoa nhất của xã hội Nga. Tôi cam đoan rằng đây là một sự kiện xã hội trong năm.”
“Thế Sa hoàng có dự không?” Bà Logan đứng sát Sherlock nói to. “Tôi rất muốn Ngài có mặt!” Bà ta liếc nhìn Sherlock, giọng có vẻ bí ẩn, “khi còn bé tôi cứ muốn lấy chồng là một hoàng tử. Giờ thì quá muộn rồi, nhưng tôi vẫn còn mơ mộng về nó.”
“Thật tiếc, Sa hoàng bận việc quốc sự.” Mycroft khoát tay ra dấu xin lỗi. “Nhưng mọi người cứ yên tâm, khán giả sẽ là những người rất danh giá – Hoàng thân cùng Công nương, Bá tước và Phu nhân, Tử tước và Phu nhân, Quận công và Quận chúa. Giới quí tộc Nga rất nhiều, và phần lớn sẽ có mặt trong đêm diễn đầu tiên, Ngài Đại sứ Anh tại triều đình Sa hoàng cũng có mặt cùng với phu nhân.”
“Thật tuyệt vời!” bà Loran kêu lên, vỗ tay. Bà nghiêng về phía Sherlock. “Biết đâu một người trong số họ sẽ thương hại cho một phụ nữ trung niên và nhận ra tôi là một người trung thực,” bà ta thì thầm. Sherlock cười đáp lại. Cậu không biết bà Loran có xứng với một quí tộc Nga nào không.
Mycroft quay lại nhìn các thành viên của đoàn. “Tôi biết là mỗi đêm trong ba đêm diễn, các vị sẽ diễn một số trích đoạn chọn lọc của các nhà soạn kịch Anh quốc vĩ đại - William Shakespeare, dĩ nhiên rồi, Ben Jonson, Christopher Marlowe và John Webster. Ông Kyte – anh quay sang người đàn ông to lớn đứng phía sau mình. “Theo tôi hiểu thì ông sẽ giới thiệu các trích đoạn và đặt chúng vào ngữ cảnh cho khán giả hiểu.”
“Ý tôi chính là thế,” ông Kyte nói to. “Tôi sẽ nói tiếng Pháp, dù rằng vở diễn bằng tiếng Anh.”
“Tuyệt.” Mycroft quay sang các thành viên trẻ tuổi của đoàn – Rhydian tóc đen, Judah tóc sáng và cặp sinh đôi Henry và Pauly. “Về mặt phông nền và trụ chống, tôi cam đoan rằng nhà hát có một số phông màn có thể sử dụng để diễn từ cảnh trận đánh tại lâu đài Elsinore cho đến cánh rừng Arden, cùng với một số lượng lớn đồ gỗ và nhiều thứ hữu dụng khác. Tôi đề nghị điều đầu tiên chúng ta cần làm vào buổi sáng là đến nhà hát, trong lúc các nghệ sĩ dợt giọng để thử hệ thống âm thanh của thính phòng, thì các chàng trai trẻ sẽ phân loại dụng cụ dưới sự chỉ dẫn của ông Kyte. Chọn ra những thứ mà ta cần, còn đội ngũ nhân viên thường trực của nhà hát sẽ chuẩn bị mọi thứ cho các bạn vào buổi chiều và giúp các bạn làm quen với việc kéo phông, hạ phông.”
“Chỉ toàn dây thừng,” Henry lên tiếng. “Nói cho cùng, nó chỉ là mớ dây thừng và việc kéo dây thôi.”
“Chiều mai, khi nhân viên nhà hát bố trí phông màn, tôi nghĩ sẽ có một buổi tổng dượt, và mọi người đều phải tham gia.” Mycroft chuyển hướng nhìn sang ông Eves cao ráo có bộ ria mép, cao lều khều và nhóm nhạc công đứng phía sau lưng ông. Rufus Stone cũng có mặt ở đó. Anh có vẻ đã hòa nhập vui vẻ với các nhạc công khác. “Buổi diễn tập sẽ cần âm nhạc như một phần của buổi diễn thực thụ, vì vậy yêu cầu tất cả các nhạc công phải có mặt.”
Ông Eves gật đầu, “Chúng tôi sẽ có mặt đầy đủ. Đừng lo.”
Mycroft gật đầu đáp lại. “Tôi chắc là các bạn sẽ có mặt.” Anh đảo mắt nhìn các thành viên của đoàn. “Trong đêm thứ hai, khán giả sẽ là người trong giới nghệ thuật Moscow chứ không phải những người có tước vị. Đêm thứ ba, vé sẽ được bán rộng rãi cho thường dân Moscow. Tôi đoan chắc rằng các anh sẽ trình diễn trước một thành phần khán giả chọn lọc đại diện cho tầng lớp trung lưu bậc trên của thành phố tráng lệ này.” Anh ngừng lại, lấy tay vỗ vào chiếc bụng khá đồ sộ của mình. “Nên nhớ rằng các anh là đại sứ nghệ thuật của nước Anh đấy.” Anh vỗ tay. “Nào, giờ đi ăn tối rồi đi ngủ. Sáng mai đúng 8 giờ chúng ta sẽ gặp nhau ăn sáng, rồi đến nhà hát!”
Các thành viên của đoàn hát đi về phía nhà hàng của khách sạn. Bà Loran đoan chính dừng lại bên cạnh Sherlock và đưa tay xoa đầu cậu. “Scott, cậu có muốn ngồi với tôi một chút ở sảnh khách sạn sau khi ăn tối không? Tôi hy vọng cậu sẽ giúp tôi thuộc lời thoại bằng cách đọc những phần thoại khác của kịch bản.”
Phản ứng đầu tiên của Sherlock là muốn nói vâng. Càng ngày cậu càng mến bà Loran nhiều hơn. Nhưng trước khi trả lời, cậu liếc qua phía Mycroft. Anh cậu rõ ràng là đã nghe câu hỏi của bà Loran nên lắc đầu ngay.
“Ước gì cháu có thể,” cậu nói, “nhưng cháu cần ngủ sớm mới ngon giấc được.”
“Vậy thì sáng mai sau bữa điểm tâm vậy,” bà ta mỉm cười và bỏ đi.
Mycroft ra hiệu cho Sherlock và Rufus Stone đi theo mình.
“Anh xin lỗi vì đã làm hỏng buổi tối của em,” anh nói với Sherlock, “nhưng càng giao du với những người này chúng ta càng mất nhiều thời gian, và họ sẽ nhận ra rằng chúng ta không phải như vẻ bên ngoài. Cách hành động của ta là lịch sự nhưng dè dặt.”
Anh đảo sang nhìn Stone, rồi quay về Sherlock. “Chuyến đi đầy mệt mỏi,” anh lặng lẽ nói, “và anh thấy chẳng có lý do gì để phí sức chiều nay. Hãy nghỉ cho khỏe. Ngày mai, trong khi những người khác đến nhà hát, thì Sherlock sẽ cùng anh đến căn hộ nhân viên của anh tại Moscow này. Anh muốn nắm được chính xác là việc gì đã xảy ra cho anh ta.” Anh nhìn Stone. “Còn anh, tôi lấy làm tiếc, là anh phải đến nhà hát cùng với bọn họ. Là cây violon chính, anh mà vắng là họ biết ngay.”
“Ông có thể cần đến tôi nếu có gì rắc rối,” Stone nói.
“Nếu có rắc rối, tôi ngờ rằng sẽ chẳng có ai giúp được,” Mycroft nói giọng điềm tĩnh. “Chúng ta đang ở một đất nước xa lạ mà việc tự do phát biểu bất cứ tư tưởng nào chống lại Sa hoàng đều sẽ bị đám công chức và mật vụ của ông ta thẳng tay đàn áp. Nhưng việc phải làm thì làm thôi.”
“Thế thì tại sao lại dẫn Sherlock theo?” Stone hỏi dồn. “Nếu có nguy hiểm, thì nên để cậu ta đến nhà hát với tôi.”
Mycroft lắc đầu. “Tôi cho rằng suy luận của anh đúng, nhưng tôi lại cần đôi mắt và nhận xét sắc bén cũng như các kĩ năng thể thao của Sherlock. Có lúc cần phải chui vào một căn hộ theo lối cửa sổ, thì trường hợp này tôi hoàn toàn không phù hợp chút nào. Một khi vào được bên trong, cậu bé sẽ tìm được một manh mối nào mà tôi thiếu. Ít nhất, cậu ta cũng có thể canh chừng cảnh sát khi tôi vào bên trong. Còn nếu có việc gì xảy ra cho tôi, thì cậu ta cũng có thể quay về và báo cho anh biết.”
Stone gật đầu một cách miễn cưỡng. “Được rồi. Nếu đó là tất cả…?” Thấy Mycroft gật đầu, anh ta đi ra, hướng về phía nhà hàng.
Mycroft nhìn Sherlock, dò xét. “Anh có cảm giác là em đang nghĩ đến cái gì đó.”
Sherlock nhún vai. “Chẳng có gì quan trọng cả.”
“Quan trọng đấy. Em bực mình với anh vì anh không cho em biết anh tuyển dụng Rufus Stone, rồi em lại bực mình với Rufus Stone bởi vì anh ta không nói cho em biết anh ta làm cho anh. Em nghĩ rằng mình bị thất vọng với hai người bọn anh – rằng em không còn tin vào ai nữa.”
Sherlock vẫn quay sang chỗ khác, từ chối nhìn vào mắt Mycroft.
“Sherlock, dù em có thích hay không, anh vẫn có trách nhiệm phải chăm sóc em. Cử Stone canh chừng em khi không có anh là một phần của nhiệm vụ đó.”
“Em cứ nghĩ…” Sherlock bắt đầu mở miệng, không hiểu sao lại nói, “em cứ tưởng anh ta là bạn của em.”
“Một lúc người ta có thể thủ nhiều vai,” Mycroft thận trọng nói, “Anh là anh của em, nhưng anh cũng là một viên chức của chính phủ Anh. Amyus Crowe là người đi săn tiền thưởng nhưng cũng là người hướng dẫn cho em. Stone là nhạc sĩ violon, nhưng cũng là một điệp viên không thường xuyên của anh. Như thế cũng không loại trừ việc anh ta là bạn của em.” Anh đặt tay lên vai Sherlock và bóp nhẹ. “Nếu như điều này có chút nào an ủi, thì khi từ Mỹ về, Stone có nói với anh là anh ta đã đối xử với em như anh em. Anh ta thích chơi với em và hỏi anh là việc đó có ổn không. Anh trả lời là không có vấn đề gì. Anh thà để cho anh ta tự ý muốn chăm sóc em hơn là phải bảo anh ta.”
Một cái gì đó nhiều ngày qua bị nén chặt trong lòng Sherlock dường như lơi ra. Chưa phải là hoàn toàn, nhưng cũng phần nào.
“Còn giờ,” Mycroft nói, “chúng ta hãy thử thưởng thức nghệ thuật ẩm thực của người Nga. Anh được cho biết là các đầu bếp Nga cũng tuyệt vời như đầu bếp Pháp vậy.”
Họ đi vào trong một nhà hàng có vòm cao. Trên tường là một dãy những bức tranh vẽ các binh sĩ mặc quân phục màu sáng – xanh dương, xanh lục và đỏ - đang cưỡi ngựa và vung kiếm chém vào nhau.
Mycroft chú ý đến ánh mắt của Sherlock. “À, chiến tranh đảo Krưm,” anh nói. “Một bên là quân Anh, Pháp và Thổ đánh với quân Nga. Một cuộc xung đột hơi ly kì và khá vô nghĩa. Thế mà chỉ mấy chục năm sau, chúng ta lại ăn tối tại thủ đô của kẻ thù. Ngành ngoại giao tạo ra nhiều phe cánh thật kì lạ.” Mycroft ngập ngừng, thân hình to lớn của anh chợt rung lên vì ớn lạnh. “Sherlock, anh nghĩ đây là lần cuối cùng anh đi ra ngoài nước Anh. Cũng có thể là lần cuối anh đi ra ngoài London. Du lịch có thể làm ta mở mang đầu óc, nhưng báo chí và sách tham khảo cũng làm được như thế, ta có thể thoải mái trải nghiệm chúng trên chiếc ghế bành, bên cạnh là một chai rượu brandy ngon. Trong tương lai, anh cứ để cho sự việc đến tìm anh thay vì anh chạy theo sự việc.”
“Anh chắc là rất muốn biết việc gì đã xảy ra cho người của anh, nên anh mới ở đây mà,” Sherlock điềm tĩnh nói.
Trưởng nhóm phục vụ bàn nhìn vào sổ đặt chỗ khi họ đến gần và hỏi bằng một thứ tiếng Pháp không chê vào đâu được. “Một bàn cho quí ông, phải không ạ?”
“Xin ông vui lòng cho,” Mycroft trả lời. Khi người trưởng nhóm phục vụ đưa họ qua bên phía nhà hàng, Mycroft nói nhỏ: “Tên anh ta là Wormersley. Robert Wormersley. Bọn anh cùng học tại Oxford, từng ở cùng phòng, cùng trao đổi suốt đêm về những hy vọng, những ước mơ trong tương lai. Khi rời Oxford, mỗi người mỗi ngả: trong lúc anh gia nhập Bộ Ngoại giao thì anh ta chu du khắp thế giới để thám hiểm và viết những bài báo sâu sắc về du lịch, nhưng bọn anh vẫn giữ thư từ với nhau. Rồi cuối cùng quĩ đạo của bọn anh lại giao nhau, anh ta trở thành nhân viên thân tín nhất của anh ở nước ngoài.” Mycroft ngừng một chút. “Bọn anh là bạn bè, Sherlock ạ. Bọn anh là bạn bè tốt nhất. Quen biết là một điều lợi, nhưng không mấy khi ta được làm bạn với những người như thế này trong đời. Khi có tình bạn, ta nên gìn giữ nó. Đó là lý do tại sao anh cần phải có mặt ở đây. Anh nợ anh ta vì điều này.”
“Em hiểu rồi,” Sherlock lên tiếng khi họ ngồi xuống. “Hoặc ít nhất em cũng tin rằng em hiểu.”
“Dĩ nhiên là em hiểu. Em đã đi một chặng đường dài tới New York để cứu cậu bé Mathew Arnatt. Còn bây giờ,” anh vừa nói vừa cầm bảng thực đơn trên tay người phục vụ, “em muốn ăn gì chiều nay? Anh biết là hải sản tại đây rất ngon.”
Bữa ăn rất tuyệt – đủ ngon để làm vui lòng kể cả Mycroft – và ông anh của Sherlock cho phép mình dùng một ly rượu vang trong bữa ăn. Họ nói đủ thứ chuyện – chẳng hạn như thứ nho nào có thể dùng làm rượu vang, cách làm rượu brandy, sherry và port bằng cách chưng cất hoặc nâng độ rượu, và việc rượu vang bắn bọt được các thầy tu dòng Benedictine làm ra đầu tiên vào thế kỷ thứ mười sáu như thế nào.
Sherlock cảm thấy cơn giận hờn anh trai bớt dần trong khi dùng bữa. Cậu vẫn còn giận anh Mycroft – và cả Rufus Stone – đã hành động sau lưng mình, nhưng lại cảm thấy một phần sự giận dữ lại hướng vào chính mình do không phát hiện ra điều đó.
Dù vậy, cậu đã rút ra được một bài học: đừng bao giờ đánh giá bất cứ thứ gì qua vẻ bề ngoài nữa.
Gần đến cuối bữa ăn, khi Mycroft thoải mái ngồi hút xì gà, nhâm nhi một ly brandy, Sherlock lên tiếng, “Em đi ngủ đây. Hẹn gặp lại anh ngày mai.”
Mycroft gật đầu. “Em ngủ ngon nhé. Ngày mai sẽ là một ngày khó khăn đấy.” Anh nhướng mày. “Anh có cảm giác là anh đang quên một cái gì hiển nhiên lắm. Đây không phải là một cảm giác dễ chịu. Nếu anh còn ngồi tại London, yên vị tại câu lạc bộ Diogenes, chắc chắn là anh sẽ nghĩ ra ngay, nhưng ở đây, với mọi thứ làm xao nhãng này…?” Anh thở dài. “Có lẽ một đêm ngủ ngon trên chiếc giường ấm áp sẽ có tác dụng. Ngủ ngon, Sherlock.”
Phòng của Sherlock nhỏ và ở tầng trên, nhưng không hề gì. Vẫn còn tiện nghi hơn nhiều so với căn phòng của cậu tại Trang viên Holmes, và cậu ngủ ngay sau khi thay quần áo. Nếu có nằm mơ cậu hẳn cậu cũng chẳng nhớ mình đã mơ thấy những gì.
Buổi sáng hôm sau trời thật trong và khô lạnh. Tuyết vẫn còn phủ trên mặt đất nhưng mặt trời lại sáng rỡ trên nền trời trong xanh. Sau khi tắm rửa và mặc quần áo, Sherlock đi xuống nhà hàng mà cậu đã cùng ăn tối với Mycroft.
Mycroft đang ngồi với ông Kyte. Anh gật đầu chào khi Sherlock bước vào khách sạn rồi quay lại tiếp tục trò chuyện.
Sherlock nhìn quanh. Ông Malvin và cô Dimmock đang ngồi ăn cùng bàn, còn bà Loran thì ngồi riêng một mình. Bắt gặp ánh mắt của Sherlock, bà ta mỉm cười chào. Cậu cười đáp lễ. Cậu mến bà – dường như càng lúc bà ta càng xem Sherlock như một đứa con. Cậu nghĩ tới ông Loran vắng mặt và không hề được nhắc đến. Hoặc ông ta đã chết, hoặc đang sống với một phụ nữ khác, hay đang chờ bà ta ở nhà?
Bốn cậu bé lo việc hậu trường - Rhydian, Judah, Pauly and Henry – ngồi chung một bàn và đang cãi vặt với nhau. Các nhạc sĩ thì phân tán ra thành ba bàn khác nhau, theo từng nhóm dụng cụ: một bàn cho đàn dây, một bàn cho kèn và bàn thứ ba là sáo gỗ. Còn nhạc trưởng, ông Eves, ngồi một mình.
Mặc dù thuộc nhóm đàn dây, nhưng Rufus Stone ngồi riêng một mình. Anh ta vẫy tay chào Sherlock khi thấy cậu nhìn mình, chỉ tay vào một chiếc ghế trống ở chỗ bàn đang ngồi. Sherlock ngần ngừ một lúc xem có nên tự tìm một bàn riêng cho mình hay không, nhưng cuối cùng cậu bước về phía Stone.
“Ngủ ngon chứ?” Stone hỏi.
“Cũng không tệ lắm, Sherlock trả lời.
“Khách sạn này gây ấn tượng lắm. Nếu nói theo kiểu của một người vốn lấy cỏ làm mền, lấy bầu trời đêm làm trần nhà, thì chiếc giường thật là tiện nghi quá mức mong đợi của tôi. Khi thức dậy, tôi thấy mình giống như bị lạc lõng giữa một chiếc nệm quá mềm đến mức kẹo dẻo cũng phải chào thua. Phải mất đến năm phút tôi mới bò ra được phía cạnh giường. Tôi thề là nếu ngủ chừng nửa giờ nữa thì chắc tôi chìm lỉm mất tăm dạng luôn.” Sherlock không ừ hử gì cả.
Im lặng kéo dài một lúc, rồi Stone nói nhỏ: “Cậu có nói là lúc ở Anh, cậu đã mua cho mình một cây đàn vĩ cầm phải không?
“Đúng thế.” Sherlock nghĩ rằng mình nên nói thêm điều gì đó, nhưng không nghĩ ra cái gì.
“Tôi cho rằng khi cậu mua một nhạc cụ như thế tức là cậu vẫn còn muốn hạ gục nữ thần âm nhạc?” Sherlock nhún vai.
“Sherlock,” Stone nói, “Tôi hiểu cảm giác của cậu, tôi ước gì sự việc khác đi. Đời vốn là thế, chuyện xấu xảy ra thường xuyên hơn là chuyện tốt. Mấu chốt là phải thấy được ánh mặt trời ở phía sau đám mây đen.” Anh ta ngừng một lát. “Sherlock, nếu còn điều nào cậu có thể tin tôi, thì hãy tin cái này: “Tôi thích chơi với cậu, và nếu anh cậu có nói rằng ngày mai không cần đến tôi nữa thì tôi vẫn mong muốn được tiếp tục dạy cho cậu.”
Sherlock cảm thấy cổ họng mình như nghẹn lại. Cậu nhìn chỗ khác, rồi quay lại nhìn Stone, và ngập ngừng. “Em cũng muốn tiếp tục học.”
“Dĩ nhiên rồi,” Stone nói, “cái đó phải chờ đến khi hoàn thành nhiệm vụ đặc biệt này. Nếu không cẩn thận, cứ chơi xoàng xĩnh như mấy tay kéo đàn và thổi kèn này thì tài năng của tôi sẽ bị xuống cấp một cách nghiêm trọng mất.” Anh ta nhìn quanh, rồi hạ giọng. “Tôi có cảm giác xấu về đám người này. Chưa tìm ra lý do, nhưng có một cái gì đó không ổn ở đây. Một điều gì đó rất không ổn.” Anh ta liếc sang Sherlock.
“Phải cẩn thận sáng nay. Phải hết sức cẩn thận đấy.”