← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

Sau bữa ăn sáng, Sherlock đứng đợi trong sảnh của khách sạn trong khi những thành viên khác của nhà hát, trừ Mycroft, lên xe ngựa đến nhà hát Maly. Khi họ khuất qua góc phố, Mycroft nói: “Tới lúc rồi. Ta đi thôi.”

Mycroft gọi một chiếc xe – một chiếc xe ngựa thực sự, chứ không phải là thứ xe có tấm ván mỏng mà người ta phải ngồi như cưỡi ngựa – và đưa địa chỉ là chỗ giao nhau của hai con phố. Nghiêng qua phía Sherlock, Mycroft nói, “Khoảng một trăm thước cuối chúng ta phải cuốc bộ. Bất tiện, nhưng lại cần thiết. Anh luôn theo một qui định là không cho người lạ biết điểm đến cuối cùng. Một nửa bọn đánh xe trong thành phố này ăn lương của Ban Ba đó.”

Khi đến nơi, Mycroft trả cho người đánh xe một đồng và chờ đến khi xe đi khuất, mới ra hiệu cho Sherlock bước sang bên kia đường, rồi đi ngược lại một quãng ngắn.

Mycroft dừng lại bên ngoài một tòa nhà cao ba tầng, xây bằng đá màu nâu đỏ. Cửa chính nằm ở chính giữa tầng trệt, cao hơn vỉa hè ba bậc tam cấp.

Mycroft và Sherlock đi vào bên trong. Từ dưới sảnh có cầu thang dẫn lên lầu. Như thể đã từng đến nơi này hàng ngàn lần, Mycroft bước thẳng đến cầu thang và đặt tay lên chỗ tay vịn. Anh ngoái sang Sherlock. “Người ta nói rằng tại Cung điện Mùa đông, cũng như tại Moscow này, Sa hoàng có một căn phòng nhỏ, được nâng từ tầng này lên tầng khác bằng một cỗ máy trục vít đẩy bằng hơi nước. Anh không biết được khi nào thì tất cả các tòa nhà đều có những căn phòng như thế.” Miệng thở hổn hển, Mycroft bắt đầu bước lên các bậc thang. Sherlock theo sau, mỉm cười.

Tầng một bắt đầu với một hành lang tối tăm chạy dọc chiều dài của tòa nhà. Sherlock nghe mùi thức ăn phảng phất: mùi jăm bông luộc, bắp cải luộc, cả bánh mì. Mycroft bước đi một cách tự tin dọc theo hành lang đến trước một cánh cửa đặc biệt. Nhìn trước nhìn sau, khi đã chắc là không có ai theo dõi, anh đẩy mạnh cửa.

Cánh cửa di chuyển.

“Phần gỗ quanh ổ khóa bị long ra,” Mycroft nói. “Điều này chắc chắn không ổn chút nào.”

Anh mở cửa và đi vào phòng trước, kéo Sherlock theo sau. Với một cử động nhanh đến mức ngạc nhiên so với một thân hình to béo, anh ta bước tránh về phía bức tường, và đẩy Sherlock qua hướng kia. Sherlock cho rằng Mycroft cố giảm đến mức thấp nhất thời gian họ đứng giữa khung cửa, nếu có tình huống ai đó trong phòng với khẩu súng trên tay.

Quả là một ý hay.

Họ đứng chờ một lúc, nghe ngóng. Không có tiếng động nào bên trong. Cuối cùng Mycroft bước tiếp, đến cuối sảnh lớn để tới một cánh cửa phòng khép hờ.

Trong phòng hết sức bừa bãi. Nơi đây là, hoặc đã từng là phòng ở, nhưng giờ bàn thì lật ngửa, ghế bị đập gãy. Những bức tranh treo trên tường xộc xệch. Trên sàn nhà ngổn ngang các mảnh sành và thủy tinh các loại: mảnh vụn của các bức tượng trang trí nhỏ, của tách trà và ly uống rượu vỡ. Chẳng thấy người nào, dù sống hay đã chết.

Mycroft đảo mắt nhanh khắp phòng. Anh quay lại sảnh trước để kiểm tra các phòng khác. Nhìn qua vai anh mình, Sherlock có thể thấy một phòng là phòng ngủ, còn kia là phòng tắm. Cũng không có người, nhưng cũng bị đập phá toàn bộ như trong phòng chính.

“Có người lục lọi tìm thứ gì đó,” Mycroft nói nhỏ khi đứng ở cửa phòng trước và nhìn quanh.

“Họ không tìm thấy,” Sherlock nói.

“Em nói đúng, nhưng làm sao em đi đến kết luận đó?”

“Bởi vì nếu họ đã tìm thấy, thì sẽ có những chỗ không bị đập phá hoặc bị lật tung lên – những chỗ bị phá phách là chỗ mà họ không tìm được thứ muốn tìm.”

“Trừ trường hợp…” Mycroft nhắc.

Sherlock suy nghĩ. “Trừ trường hợp cái thứ mà họ muốn tìm lại nằm ở chỗ họ lục soát cuối cùng.”

“Hoặc có thể là…?

“Hoặc họ không biết mình phải tìm bao nhiêu thứ, cho nên họ phải tìm ở tất cả các nơi.”

Anh trai Sherlock gật đầu. “Đúng rồi. Em còn suy diễn được điều gì khác căn cứ trên tình hình nơi này không?”

“Người nào làm việc này không hề quan tâm đến việc có ai biết đến chuyện mình làm hay không, nếu không thì họ đã chịu khó dọn cho tươm tất hơn rồi.”

“Em lại đúng nữa.” Mặt của Mycroft sầm lại. “Anh lo cho tính mạng của Robert Wormersley. Hoặc là anh ta có mặt tại đây lúc chúng lục soát, trong trường hợp này thì anh ta bị bọn phá cửa và lục lọi căn phòng bắt đi, hoặc là anh ta không có mặt, trong trường hợp này anh ta đã kịp quay đuôi và chuồn thẳng khi vừa thấy cửa phòng bị phá. Trong cả hai tình huống, số phận của anh ta vẫn chưa rõ.”

“Anh ta không có ở đây vào thời điểm đó,” Sherlock nói, giọng đầy chắc chắn.

“Em suy diễn như thế nào?”

Sherlock chỉ vào cánh cửa trước. “Cánh cửa bị khóa, nhưng không cài chốt. Anh có thể thấy là mấy chốt cửa vẫn còn nguyên ở phía sau cánh cửa. Nếu đang ở trong phòng thì khi khóa cửa, chắc chắn anh ta phải chốt bên trong. Căn cứ vào thực tế là cửa khóa nhưng không chốt chứng tỏ rằng anh ta khóa cửa sau khi ra khỏi phòng.”

“Nhận xét đúng lắm,” Mycroft tán đồng.

Sherlock quay lại phòng chính và nhìn kĩ một lần nữa. Có một thứ gì đó làm cậu thắc mắc, nhưng chưa rõ đó là cái gì. Một thứ gì đó không đúng chỗ. Hoặc một thứ gì đó đúng chỗ trong khi mọi thứ khác đều lạc chỗ. Nó làm cho cậu cảm thấy khó chịu như thể có thứ gì dính vào kẽ răng vậy.

“Em không thấy thứ gì đó,” cậu lên tiếng. “Hoặc là em thấy một thứ gì đó mà em không hiểu được.”

“Nó sẽ xuất hiện thôi,” Mycroft, “nếu em có thời gian. Cứ để cho đầu óc em nghiền ngẫm vấn đề trong khi em suy nghĩ qua việc khác.” Anh ta nhìn quanh quất. “Ở đây chẳng còn gì để xem nữa. Ta đi thôi.”

Ra ngoài đường, Mycroft gọi một cỗ xe vừa chạy qua. Sherlock kéo tay áo anh mình. “Em nghĩ là em nhớ được đường quay về khách sạn. Em có để ý mấy con đường khi đến đây. Nếu em đi bộ thì có vấn đề gì không? Em muốn nhìn phố xá một chút.”

“Được thôi,” Mycroft nói. Anh đưa cho Sherlock một nắm tiền. “Đơn vị tiền tệ chính ở Nga là đồng rúp. Một đồng rúp là một trăm kopek đấy.” Anh vỗ nhẹ vào vai Sherlock. “Giờ thì em cứ đi và quan sát xung quanh đi. Còn anh thì quay về khách sạn và nghĩ xem tiếp tới phải làm gì.”

Khi xe của Mycroft khuất dạng quanh góc phố, Sherlock bắt đầu cuốc bộ. Việc nhìn, nghe, và quan trọng hơn, là ngửi ở Moscow khác với những nơi mà cậu đã từng đến. Chẳng hạn, tuyết có tác dụng hãm thanh khá mạnh, cho nên cái ầm ĩ mà cậu quen nghe tại London hầu như không có ở đây. Moscow có vẻ là một thành phố yên tĩnh. Tuy thế cậu lại cho rằng thành phố yên ắng là vì dân chúng sợ hãi đám mật vụ của Sa hoàng và những gì chúng có thể ra tay khi có ai đó lỡ lời.

Sherlock nhớ con đường như in trong đầu, và cứ mỗi bước đi qua, Sherlock cảm thấy ngưỡng mộ những kiến trúc đồ sộ, vững chắc của thành phố này. Khi đến gần khách sạn mình ở, cậu thấy phía trước có một quảng trường lớn đến nỗi như mở đến tận chân trời. Trước mặt cậu, một giáo đường vút cao như một kỳ quan làm bằng kem dâu tây và kẹo kéo. Trong đời cậu chưa bao giờ thấy được thứ gì giống như vậy. Dường như đó là một chuỗi các tháp cao thấp khác nhau, kích thước cũng khác nhau, cái thì phía trên có chóp hình nón, cái thì có mái vòm như củ hành, mỗi cái đều được sơn hoặc lợp mái đủ các loại màu sắc: đỏ, xanh dương, xanh lục, vàng, trắng, pha trộn theo nhiều kiểu như bàn cờ hoặc các đường uốn lượn. Mỗi chóp hoặc mái vòm đều có gắn một thánh giá lớn. Khi rảo bước dạo quanh giáo đường, mắt Sherlock mở to quan sát, cậu nhận thấy hình dáng của nó thay đổi. Không hề có sự cân xứng về cấu trúc. Dưới mỗi góc nhìn là mỗi hình dáng khác nhau. Giống như nhiều thứ cậu thấy được tại nước Nga từ lúc mới đặt chân đến đây, dường như đây là một sự xung đột giữa một sự cố với một sáng tạo có chủ ý.

Phía tay phải của cậu, bên kia hào nước bị đóng băng một phần, cậu có thể thấy những bức tường cao xây bằng gạch đỏ của một lâu đài mà cậu nghĩ đó là điện Kremlin - nơi ở của Sa hoàng Alexander đệ nhị, và từ nơi này Ngài cai trị lãnh thổ mênh mông của mình. Giữa góc đường và các bức tường điện Kremlin, mở rộng về phía tay phải của Sherlock là Quảng trường Đỏ.

Từ Quảng trường Đỏ tỏa ra nhiều đại lộ rộng, thẳng tắp. Sherlock chọn một đại lộ mà cậu nghĩ sẽ dẫn tới khách sạn Slavyansky Bazaar và bắt đầu đi về phía đó. Một bảng tên gắn trên tường bên cạnh cho cậu biết đó là đường Neglinnaya. Dù hai bên đường san sát các cửa hiệu, nhưng ở giữa đường lại có một dãy dài các quầy bán hàng. Các cửa hiệu dường như bán chủ yếu áo khoác lông thú, mũ, ủng hoặc bánh ngọt đủ loại. Mỗi cửa hiệu đều trưng ra một bảng hiệu sơn sặc sỡ vẽ chính xác những thứ đang bày bán. Còn những quầy hàng thì có vẻ bình dân hơn, chủ yếu bán các thứ đồ lặt vặt từ dao kéo cho đến thuốc lá, túi xách, quần áo cũ, nút áo và vải tấm. Một vài quầy bán các món đồ tôn giáo như thánh giá, các bức tranh trên gỗ vẽ hình các Thánh và nhiều thứ khác. Nước Nga, theo Sherlock nghĩ, dường như là một xã hội mang màu sắc tôn giáo cởi mở hơn nước Anh nhiều.

Những người bán trà đẩy chiếc xe nhỏ với những bình trà đun nóng nằm chông chênh bên trên, quanh quẩn đi dọc theo các con đường giữa các cửa hiệu và quầy hàng. Họ cũng bán đồ ăn nhanh: đeo quanh cổ những chuỗi dây đầy bánh mì lòng thòng như những chuỗi hạt khổng lồ.

Tại mỗi giao lộ, Sherlock đều thấy có những bót gỗ, với các nhân viên cảnh sát mặc đồng phục xám, đội mũ sắt đen bên trong. Người nào cũng mang kiếm bên hông. Những người đứng gác nếu không buồn ngủ thì cũng có vẻ buồn chán và lạnh co ro.

Nhìn đồng hồ, Sherlock thấy đã tới giờ quay lại. Khi vừa tới một đường ngang, cậu dừng bước. Một người đi sát sau lưng bất ngờ tông vào người cậu. Sherlock quay lại, xin lỗi, nhưng người đàn ông cứ vượt bừa qua, miệng càu nhàu chửi thề. Cùng lúc đó, cậu nhận thấy từ một trong những bót gỗ có tiếng ồn ào. Một người đàn ông mặc áo khoác dày, đội mũ có nắp che tai bằng lông đang nói chuyện với một viên cảnh sát đứng trong bót, hai tay vung vẫy loạn xạ. Vừa lúc Sherlock tính quay đi thì người đàn ông đội mũ lông giơ tay chỉ về phía cậu. Viên cảnh sát soi mói nhìn Sherlock.

Một cảm giác ớn lạnh chạy xuyên qua người Sherlock.

Dường như người đàn ông trình báo ông ta bị mất một cái gì đó. Anh ta chỉ vào túi áo khoác, tay thọc vào đưa ra làm điệu bộ như mình bị móc túi. Anh ta trỏ vào Sherlock lần nữa. Sherlock ngoái nhìn ra sau xem có bất cứ người nào ở gần hay không, người nào mà tay của anh ta có thể chỉ vào, nhưng trong vòng mười thước chẳng có ai cả.

Sherlock dang rộng hai tay, ra dấu muốn nói mình vô tội, vừa nhìn thẳng vào viên cảnh sát và hy vọng rằng anh ta sẽ để cậu đi, nhưng ngược lại, tay cảnh sát hống hách ra hiệu cho Sherlock lại gần bót gác.

Sherlock nhìn sang phía người đàn ông đang khiếu nại. Trong thoáng giây, anh ta cười mỉm. Đó là cái cười của một người vừa tung ra một trò cực kỳ xảo trá và giờ đây đang chờ xem cái kết cuộc bắt buộc phải xảy ra. Khi nhận ra là Sherlock đang nhìn mình, nụ cười tắt biến trên khuôn mặt anh ta như thể một bức tranh bị chùi mất trên tấm bảng đen.

Đột nhiên một ý nghĩ rất không hay lóe lên trong đầu, Sherlock thọc mạnh tay vào túi chiếc áo khoác cậu đang mặc. Mấy ngón tay cậu chạm phải một vật mà trước đây không có: một cái gì đó bằng da, hình vuông.

Một chiếc ví đựng tiền.

Tức khắc cậu thấy mọi thứ trở nên rõ ràng như ban ngày. Đây là một vụ dàn cảnh. Người đàn ông xô vào lưng Sherlock rồi quày quả bỏ đi sau đó, chính hắn đã tuồn chiếc ví tiền vào túi áo của cậu. Một người đàn ông khác – người đang nói chuyện với viên cảnh sát – vốn không hề bị mất ví, nhưng ngay thời điểm hắn ta thấy chiếc ví chui tọt vào túi áo của Sherlock, thì băng qua đường đến gặp viên cảnh sát và khiếu nại, chỉ đích danh Sherlock là thằng ăn cắp. Khi túi áo Sherlock bị kiểm tra, thì thấy ngay chiếc ví trong đó, và người đàn ông khiếu nại chắc hẳn sẽ nhận đó là ví của hắn, bất kể có đúng hay không. Sherlock sẽ bị vứt vào nhà tù bởi vì mọi chứng cứ đều chống lại cậu.

Đúng là một cơn ác mộng!

Viên cảnh sát ra hiệu lần nữa, lần này càng lạnh lùng hơn. Tim Sherlock đập thình thịch. Cậu cảm thấy hai bên nách, đằng sau lưng mồ hôi túa ra ướt đẫm cả áo sơ mi. Bị bắt giam tại xứ người vì tội ăn cắp? Nếu may mắn thì cậu sẽ thấy ánh mặt trời trở lại, mà đó là trong trường hợp cậu được xét xử công bằng. Căn cứ theo cái cách sự việc được dàn cảnh khéo léo như thế, thì có nhiều khả năng là họ đã tính trước mọi tình huống. Họ - không biết là ai - có thể đã mua chuộc quan tòa, bồi thẩm đoán, và tất cả mọi người. Và thậm chí cũng tính tới trường hợp họ có cả quan tòa và bồi thẩm đoàn tại Nga. Cậu không biết hệ thống xét xử hoạt động ra sao. Cậu có cảm giác rằng, dựa trên các sự việc mà cậu đọc được trên báo khi còn ở Anh, thì nước Nga của Sa hoàng hoạt động dựa trên cơ sở mật vụ và số người mất tích trên đường phố không bao giờ xuất hiện trở lại.

Cậu có thể bỏ chạy, nhưng chắc chắn họ cũng đã nghĩ đến điều này. Sherlock nhìn quanh, cố xem trong cái đám đông đi mua sắm ai là người tham gia vào âm mưu này.

Phía bên trái cậu, là một người đàn ông mặc áo khoác đen, đội mũ lông, quay đầu đi hướng khác khi ánh mắt của Sherlock lướt qua. Phía bên phải, là một thằng bé còn nhỏ, mặt đang cau có nhìn cậu, và một phụ nữ đang để tay trong một cái túi làm ấm bất thần quay nhìn sang quầy thuốc lá sát bên chỗ bà ta đang đứng.

Họ có ít nhất ba người. Ba người này sẽ đứng ra cản đường nếu cậu định bỏ chạy.

Sherlock tuyệt vọng đưa mắt nhìn quanh mình một lần nữa, cầu mong tìm được một con đường thoát, nhưng chẳng thấy gì. Cậu cũng đứng không đủ gần một quầy hàng nào để có thể chộp một thứ gì đó làm vũ khí, và cậu cũng tin chắc rằng chẳng ai đứng gần cậu ra tay giúp đỡ nếu cậu kêu cứu.

Viên cảnh sát sải bước đi băng qua chỗ Sherlock đang đứng. Tuy mang kiếm bên hông, nhưng tay phải anh ta lại vung vẩy một chiếc dùi cui. Nét cau có trên mặt viên cảnh sát cho thấy là bất luận Sherlock có làm gì, thì anh ta cũng sẽ dùng đến chiếc dùi cui trong vòng vài phút tới.

Một cơn gió mạnh đưa mùi trà ướp hương xộc vào mũi Sherlock. Cậu ngoảnh lại. Người bán trà dạo đang lách qua đám đông chỉ cách cậu vài bước.

Không chút nghĩ ngợi, Sherlock bước tới hai bước và xô vào thắt lưng anh ta.

Người bán trà té ập ra trước, đẩy mạnh làm chiếc xe chạy ra xa. Chiếc xe lăn đi chừng một thước rồi vấp phải một viên đá cuội trên mặt đường. Một bánh xe nhảy dựng lên rồi sau đó chiếc xe bật ngửa.

Chiếc bình bạc chứa nước trà đổ nhào. Nắp bình bật ra khi chiếc bình chạm phải đá cuội rải đường và nước trà màu nâu chảy lênh láng khắp nơi, tức thì biến lớp tuyết trên mặt đường thành một lớp bùn nâu nhão. Mọi người nhảy ra ngoài để tránh làn nước sôi bốc khói nghi ngút. Một vài người bị nước tạt phải, họ kêu gào vì bỏng chân.

Trong lúc ba tên đồng bọn và viên cảnh sát nhất thời xao lãng, Sherlock chui ngay vào trong đám đông. Khi di chuyển cậu cố thu mình nhỏ lại, và giữ lúc nào cũng có một nhóm người đệm giữa cậu và đám săn đuổi, nhưng họ có đến ít nhất năm người thành ra không thể tránh những lúc Sherlock bị phát hiện.

Có một tiếng quát lớn phía sau. Là viên cảnh sát! Anh ta đã nhìn thấy Sherlock, liền chạy xô vào đám đông để đuổi bắt. Đám đông vấp chân và té ngã khi viên cảnh sát lấy dùi cui bổ vào người họ.

Sherlock hộc tốc chạy ngược về hướng cũ. Chỉ cần vuột khỏi tay họ chừng vài phút cũng đủ cho cậu chạy về khách sạn báo cho Mycroft biết.

Một tiếng còi lanh lảnh vang lên như xé toạc không khí. Sherlock ngoái đầu nhìn lại. Viên cảnh sát vẫn đang bám theo cậu.

Những viên đá cuội lát đường lạo xạo dưới chân làm cậu suýt té nhào. Gượng đứng vững, cậu nhìn về phía trước. Ở góc phố trước mặt là một bót gác gỗ, viên cảnh sát bên trong đã bước ra và đang nhìn về phía cậu. Chắc chắn anh ta đã nghe tiếng huýt còi.

Phía trước, phía sau đều bị chặn. Sherlock đảo qua phía bên phải, thử tìm có một cánh cửa hoặc một con hẻm nào để thoát thân không. Chỉ toàn các cửa hàng và bảng hiệu sơn màu sặc sỡ. Các màu sắc như nhòe đi khi cậu chạy. Cậu nghe thấy tiếng tim mình đập thình thịch trong lòng ngực.

Đột nhiên một cơ hội xuất hiện: có một cầu thang dẫn xuống khu vực hầm ngầm dưới mặt đường. Tuyệt vọng cầu mong đó không phải là đường cùng, mong phía dưới đó có một cánh cửa nào không bị khóa, Sherlock chạy ào xuống các bậc thang. Cậu bám lấy hàng tay vịn ở đầu bậc thang, thu người lại và nhảy xuống dưới nền lát gạch.

Bên dưới có một cái cửa, nhưng bị đóng bịt lại bằng những thanh gỗ vắt chéo. Không có lối ra.

Cậu quay đầu tính trèo ra, nhưng bất thần một tiếng còi điếc tai vang lên. Tay cảnh sát chỉ đứng cách cậu chừng một mét. Có lẽ anh ta không trông thấy Sherlock chạy đi đâu, nhưng nếu cậu thò đầu lên ngang mặt vỉa hè thì sẽ biết ngay.

Một tiếng còi thứ hai, rồi một tiếng thứ ba ở xa hơn. Phải chăng cả thành phố Moscow này đang truy lùng cậu?

Có tiếng chân đến gần. Chỉ vài giây nữa thôi là họ sẽ tìm thấy Sherlock.

Cậu tuyệt vọng quay nhìn về phía cánh cửa bị chặn, hy vọng tìm ra một kẽ hở đủ rộng giữa mấy tấm ván để có thể chui qua được. Thế rồi cậu nhìn thấy một nắp miệng cống bằng sắt gắn dưới nền. Cậu quì xuống, cố kéo cái nắp lên. Cái nắp cống nặng trịch, láng nhẫy nước đóng băng, còn mấy ngón tay của cậu thì nhơm nhớp mồ hôi trơn tuột. Cậu mới nâng cái nắp lên được vài phân thì nó tuột xuống, kêu rầm một tiếng vang dội. Cậu cuống cuồng quờ quạng một cách tuyệt vọng. Lần nay cậu tìm cách cậy nó lên, cho tay luồn phía dưới. Nếu nó tuột lần nữa, coi như mấy ngón tay đi đời.

Dồn hết sức lực, cậu nhấc được cái nắp lên và đẩy sang một bên. Mùi đất ẩm ướt và mùi cống xộc lên làm cậu choáng váng. Một chút ánh sáng leo lét từ bầu trời đầy mây rọi lên mấy thanh ngang đầu tiên của một cái thang sắt.

Sherlock không còn chọn lựa nào khác. Lấy chân dò dẫm dọc theo gờ cái thang, cậu bắt đầu đi xuống. Khi đầu xuống ngang tầm mặt đất, cậu nắm lấy gờ của nắp cống và kéo ngược lại. Mặt dưới của cái nắp có một tay nắm, cậu nắm vào đó kéo lại cho đến khi khớp về vị trí cũ.

Cậu hy vọng là từ bên trên nhìn xuống cái nắp cống sẽ trông như chưa hề bị di chuyển.

Cậu định cứ đứng trốn trong bóng tối cho đến khi mọi việc yên xuôi, bằng cách bám chặt vào cái thang sắt, nhưng không thể. Các thanh sắt bám đầy rêu ẩm ướt, còn các ngón tay của cậu lại chẳng còn chút sức lực nào. Vừa lúc nghe tiếng chân đi ủng đụng trúng cái nắp cống rồi dừng lại, mấy ngón tay của cậu bất thần trở nên cứng đờ và tuột khỏi thanh ngang cái thang sắt. Cậu rơi vào chỗ tối đen, cố không gào to thành tiếng.