CHƯƠNG 15
Trong nháy mắt quán cà phê bỗng tràn ngập một thứ khói đen kịt. Wormersley lên tiếng chửi thề và cố nắm lấy vai Sherlock, nhưng cậu dằn ra được. Chiếc ghế đang ngồi ngã bật ra đằng sau, khiến cậu chỏng gọng trên sàn. Nhanh như chớp cậu lồm cồm chui ngay xuống dưới một cái bàn trống.
Những khách hàng khác đang ngồi trong quán – các thành viên của đoàn hát mà cậu cùng đi, cùng ăn chung, đặt lòng tin vào họ - đều nhổm người dậy, sửng sốt vì đám cháy bất ngờ. Bàn ghế tung tóe khắp nơi.
Bà Loran la lên, “Bắt lấy nó, bắt thằng bé mau!”
Ngọn lửa đang liếm bức vách gỗ của quán cà phê. Thủy tinh vỡ loảng xoảng dưới sức nóng. Một cái bàn ở phía trước, gần cửa lớn, bắt lửa.
Có ai đó chộp lấy cánh tay Sherlock kéo ra sau quán cà phê. Cậu cố gượng lại, nhưng một giọng Ai-len bật ra: “Nếu cậu chỉ tin ai một lần trong đời, thì giờ đây phải tin tôi.” Rufus Stone!
Sherlock cứ để cho mình bị kéo ra sau cái quầy nằm sát bức tường đằng sau. Một người trong đám Wormersley – Sherlock nghĩ là ông Malvin, nhưng không chắc lắm – trông thấy họ và cố bám theo, nhưng Stone đẩy hắn ngã xuống sàn.
Có một cánh cửa nhỏ khép hờ đằng sau quầy. Stone kéo Sherlock đi qua và hất cho cánh cửa đóng lại sau lưng.
Lúc này họ đang ở trong nhà kho. Quanh tường bề bộn những bao lớn đựng bột mì và các thùng đựng trà. Stone bắt đầu xếp những thứ này chận ngang cánh cửa. Sherlock cũng tiếp tay, mắt cay xè vì khói.
“Làm sao bọn họ thoát ra ngoài được?” cậu hét lên.
“Không phải chuyện của tôi,” Stone trả lời. “Họ có thể lấy mấy cái bàn ở phía sau làm tấm chắn, rồi tiến dần đến cầu thang. Nếu nhanh chân, họ có thể trèo được lên mặt đường được. Người ở phía ngoài cũng cố tìm cách dập tắt đám cháy. Đừng có lo - họ không bị buộc phải chết thảm, dù tôi rất muốn thế!”
“Anh tạo đám cháy bằng cách nào vậy?”
“Đơn giản thôi, ở ngoài đường có một anh đẩy xe bán nước chè. Anh ta dùng cồn để đun nóng ấm samovar.”
“Ấm gì cơ?”
“Bình nấu trà - ở đây người ta gọi là ấm samovar. Anh ta có một chai cồn. Tôi mượn lấy, trong khi họ mãi tập trung vào cậu thì tôi tưới khắp bên ngoài, và rồi chỉ cần đốt một mảnh giấy nhỏ thả lên. Tôi cho là mọi thứ xảy ra đúng như ý muốn.”
Stone đưa Sherlock ra phía sau của nhà kho, chỗ này có mấy bậc thang bằng đá dẫn tới một cái sân nhỏ.
“Làm sao anh tìm ra em?” Sherlock hỏi.
“Tôi đi đến khách sạn để nói chuyện với ông Holmes. Tôi thấy ông ta bị bắt, rồi tôi thấy có một người lạ chặn ngang cậu. Tò mò, nên tôi đi theo. Quanh quẩn bên ngoài một khung cửa sổ mở ta có thể thấy nhiều cái lạ lắm.”
“Anh đã nghe hết mọi chuyện.”
Gương mặt Stone đầy vẻ hung tợn. “Nghe hết.”
Cái sân nhỏ mở ra một con hẻm hẹp chạy giữa các tòa nhà. Stone quẹo phải rồi bước nhanh. Sherlock phải chạy lúp xúp mới theo kịp.
“Ta phải làm gì bây giờ?” Cậu vừa hỏi vừa thở hổn hển.
“Ta đến tòa Đại sứ Anh và xin ngài Đại sứ giúp đỡ, chúng ta phải làm thế thôi.”
“Không được!” Sherlock dừng ngay lại.
“Đi thôi,” Stone hối thúc. “Đứng ngoài đường sẽ rất nguy hiểm.”
Sherlock cứ đứng tại chỗ, vẻ ngoan cố, bướng bỉnh, và mệt mỏi đến tận xương tủy. “Phải đi cứu anh Mycroft,” cậu nói một cách quả quyết.
“Nghe này anh bạn trẻ, chẳng thể làm gì để giúp anh cậu lúc này đâu. Tốt nhất là cứ để bên ngoại giao họ thu xếp. Nói thẳng ra, họ là người làm việc sống còn cho những sự cố ngoại giao khẩn cấp. Chính là việc đó và các tiệc tùng trao đổi. Nếu ta gặp may, thì họ sẽ gặp Bá tước Shuvalov trước khi bọn Wormersley hoặc mụ Loran ra tay.” Anh ta ngoái nhìn về hướng tiệm cà phê. “Còn tùy bọn họ có thoát ra được chỗ đó nguyên vẹn hay không. Có thể ta đã làm hỏng kế hoạch của họ rồi.” Anh ta cười. “Hoặc nướng họ luôn rồi.”
“Các kế hoạch của họ không nhất thiết cần sự có mặt của họ đâu,” Sherlock chỉ ra. “Ông Kyte không đến tiệm cà phê. Ông ta không cách nào ngụy trang được. Có lẽ ông ta là người thực hiện âm mưu ám sát.”
Stone nhìn trừng trừng Sherlock một lúc. “Tôi hiểu ý cậu rồi. Mắt cậu cứ lóe lên sự quyết tâm giống y như lúc cậu muốn tập cho thành thạo các thang âm và hợp âm rải khi còn ở trên tàu SS Scotia vậy. Cậu đúng là đứa cứng đầu cứng cổ phải không?”
Sherlock nhún vai, ngượng ngùng một chút rồi lầm bầm: “di truyền của gia đình ấy mà.”
Stone thở hắt thật mạnh. “Được rồi,” anh ta nhượng bộ, “thôi thì ta đành phải đến chỗ tòa nhà có văn phòng của Shuvalov. Ta có thể đưa cho lính canh ngoài cửa một lời cảnh báo, hoặc cái gì tương tự.”
“Thế anh có biết văn phòng của ông ta ở đâu không?”
“Quảng trường Lubyanka.” Stone cười rầu rĩ. “Một địa chỉ nổi tiếng tại Moscow, ít có ai vô đó mà trở ra được.” Anh ta nhìn đồng hồ. “Ta chẳng có mấy thời gian đâu. Nếu tính toán giờ giấc của Wormersley mà đúng, thì khoảng hai mươi phút nữa Mycroft sẽ được dẫn tới để gặp Shuvalov.”
Sherlock nhìn quanh. “Chẳng thấy chiếc xe ngựa nào cả!”
“Không còn thì giờ để chờ xe nữa,” Stone nói. “Chạy băng qua các con hẻm còn nhanh hơn nhiều.”
Stone dẫn đường, chạy len lỏi qua các con hẻm và đường phố như thể anh đã ở Moscow cả đời. Sherlock vắt giò chạy theo anh ta. Hết dãy nhà này đến dãy khác, màu sắc tuy khác nhau nhưng đều cùng kiểu kiến trúc từng khối nặng nề. Người đi đường tránh ra khi bọn họ chạy qua, cố không giao tiếp bằng mắt với bọn họ. Những bầy chim sáo đá và chim sẻ vỗ cánh bay lên khi hai người chạy ào vào chỗ chúng. Không khí lạnh cắt da, và ngay cả khi Sherlock chạy cật lực đến nỗi mồ hôi tuôn ra ướt cả hông và lưng, cậu vẫn cảm thấy mặt mình như bị kim châm khi các tinh thể tuyết trong gió đập vào da mặt. Cậu tưởng tượng hai bên má mình đang dày dặc hàng ngàn vết cắt nhỏ do chúng gây ra. Ý nghĩ này làm cậu nhớ đến khuôn mặt của ông Kyte, và những vết sướt quanh mắt, má và mũi. Cậu tự hỏi không biết do cái gì gây ra? Cậu nghĩ chắc mình chẳng bao giờ biết được.
Tim cậu đập nhanh theo từng nhịp bước chân. Ở trường cậu cũng từng chạy đua, nhưng chỉ là chạy hết tốc lực trong một khoảng thời gian ngắn – đến đích là hết. Nhưng ở đây là chạy marathon: không có đích đến, và không thể cố thêm.
Tiếng dội thình thịch của đôi bàn chân làm các bắp chân cậu rung theo dữ dội, xương cốt toàn thân chuyển động mạnh. Dưới chân, chỗ nào cũng đầy tuyết. Thình lình khi băng ngang qua một con đường và nhảy tránh những chiếc xe ngựa, xe chở hàng, Sherlock đặt chân trúng một chỗ tuyết đóng băng và mất đà trượt ra sau. Cậu hoảng hồn nghĩ thế nào mình cũng bị té. Hai tay cậu quơ loạn xạ khi người chồm ra phía trước để cố giữ lấy thăng bằng. Thời khắc này dường như vô tận, nhưng cuối cùng nhờ đụng phải một phụ nữ Nga áo quần dày cộm băng qua đường cậu mới gượng lại được.
Cậu ngoái đầu lại và la to “Xin lỗi!”
Cậu cố buộc hai chân chạy nhanh hơn trong lúc Stone dẫn trước cậu một quãng khá xa.
Hai đuôi mắt Sherlock giật giật cùng lúc với tiếng vỗ cánh bay vụt lên của đàn chim sáo đá và chim sẻ xung quanh. Trước mắt cậu chỉ còn hình bóng thấp thoáng của Rufus Stone ở phía trước.
Cuối cùng, Stone cũng bắt đầu lơi bước. Nhưng phải chạy thêm hết con hẻm cậu mới dừng lại được. Sherlock đứng sựng bên cạnh anh ta, lồng ngực rát bỏng. Cậu thở hổn hển, khom người lại chống hai bàn tay xuống đầu gối. Hơi thở cậu nóng như lửa. Stone thì đứng dựa vào một bức tường gần đó, ho rũ rượi.
Phải đến một phút sau hai người mới đủ sức mở miệng.
“Ta đã tới quảng trường Lubyanka,” Stone thở phù phù. Anh ta hất mạnh cái đầu về phía tòa nhà bên kia đường. “Đó là tổng hành dinh của Ban Ba.”
Sherlock đưa mắt nhìn tòa nhà từ dưới lên trên. Như một pháo đài: với những cánh cửa sổ nhỏ, hẹp, có chấn song bên ngoài lớp kính, tường là đá tảng màu đỏ láng nhẵn không thể nào bám vào mà leo lên được, mỗi góc tường là những tháp pháo để lính canh có thể nhìn rõ mọi góc cạnh của tòa nhà, và nếu cần thì khai hỏa vào bất cứ người nào có ý định tấn công.
Bên kia đường là mấy chiếc xe chở hàng, xe ngựa bốn bánh, xe ngựa hai bánh đậu sát vỉa hè để người đánh xe có thể ngồi nghỉ. Theo phỏng đoán thì những chiếc xe này đang ngồi chờ những vị khách người Nga quan trọng sẽ boa hậu hĩnh có phương tiện đi ngay khi rời khỏi tòa nhà.
“Bá tước Shuvalov làm việc ở phòng nào?” Sherlock hỏi giọng khản đặc.
Stone đảo mắt nhìn khắp các vuông cửa sổ. “Tôi sẽ không đưa tay chỉ chỗ đó đâu,” anh ta lên tiếng. “Tôi không muốn kéo thêm sự chú ý sau màn trình diễn điền kinh vừa rồi. Cậu hãy để mắt nhìn vào cánh trái của tháp canh, rồi lướt dọc theo rìa của mái nhà cho tới khi thấy một cánh cửa sổ mở lớn hơn các cánh khác và hơi lồi ra khỏi tòa nhà. Đó là văn phòng của ông ta.” Anh ta ngừng lại để ho. “Hãy chú ý đến các chấn song lồi ra, và thực sự thì không có hướng nào để vào được chỗ đó, dù là trên dưới hoặc phải trái. Không hề có cái gờ nào. Cửa kính cũng nhuộm đen cho nên từ phía ngoài không thể nào nhắm đươc mục tiêu bên trong, và nếu cậu nhìn xung quanh, cậu sẽ thấy đây là tòa nhà cao nhất trong khu vực. Không có điểm ngắm cho xạ thủ. Phía bên trong cũng rất nhiêu khê: người ta nói rằng phải đi qua sáu chặng kiểm soát trước khi đến được chỗ đám cận vệ bên ngoài phòng làm việc của ông ta - họ là những người được chính tay ông ta chọn. Thực tình tôi không biết bằng cách nào mà Wormersley lại nghĩ đến việc ám sát được con người này.”
Sherlock nhìn kĩ vào chỗ cửa sổ của phòng làm việc. Cậu nhìn đồng hồ. Gần đến ba giờ rồi! Nếu Viện Paradol nói đúng - và cậu nghĩ rằng họ luôn luôn đúng – thì ngay lúc này Mycroft đang trên đường được dẫn tới văn phòng!
Cậu liếc nhìn xung quanh, mong thấy được thứ gì đó bất thường, bất cứ thứ gì có thể là manh mối cho sự việc sắp xảy ra.
Và cậu nhận thấy có cái gì đó.
“Không thấy chim chóc gì cả,” cậu kêu lên.
“Cái gì?”
“Không thấy chim. Thành phố này đầy rẫy chim sáo đá và chim sẻ, nhưng bây giờ chúng đi đâu? Em chẳng thấy con nào cả.”
Stone nhìn xung quanh. “Cậu nói đúng, nhưng tôi không rõ cậu định nói đến cái gì.”
“Cái gì làm cho chim hoảng sợ bay đi mất?”
Người chơi đàn vĩ cầm nhún vai. “Phải mèo không?”
“Mèo thì đúng rồi, và những loài chim khác. Chim săn mồi chẳng hạn.”
Stone nhướng mày, rồi trợn mắt lên như chợt hiểu ra. “Con chim ưng mà Mycroft đã nói cho tôi nghe, con chim ở bảo tàng tại London. Cậu có nghĩ đó là kế hoạch của Wormerslley không?”
“Nhìn cái cửa sổ kìa,” Sherlock nhấn mạnh. “Căn cứ theo những gì anh nói thì không ai có thể lên chỗ đó được, cả từ bên trong lẫn bên ngoài. Nhưng một con chim có thể bay tới đó.”
“Nhưng mà để làm gì? Con chim không thể đâm hoặc bắn Shuvalov, hoặc dùng vuốt tấn công, cho nên không có cách nào để cho Wormersley tạo dựng cái cảnh Mycroft là thủ phạm tấn công được.”
Đầu óc của Sherlock căng lên suy nghĩ. “Khi con chim ưng tấn công em tại nhà bảo tàng, vuốt của nó có gắn một thứ gì đó - giống như lưỡi dao bén. Hãy tưởng tượng cái cảnh Mycroft được đưa vào phòng làm việc của Mycroft, sau khi đi qua tất cả các trạm kiểm tra an ninh. Chỉ có Shuvalov và Mycroft trong phòng làm việc. Con chim ưng đã được huấn luyện của Wormersley sẽ bay vào cái cửa sổ mở và nhào xuống người Shuvalov. Nó đánh xoạt một nhát dao vào cổ ông ta, cắt đứt họng, rồi bay ra ngoài. Có thể Shuvalov sẽ la lên hoặc có lẽ Mycroft kêu cứu. Vệ sĩ của Shuvalov ào tới. Tất cả những gì họ thấy là Shuvalov bị cứa họng chết vì chảy máu còn Mycroft lại đứng đó, trong một căn phòng nội bất xuất ngoại bất nhập!”
“Nhưng Mycroft không có dao,” Stone lên tiếng.
“Chẳng có gì quan trọng. Tất cả các bằng chứng đều chống lại anh ấy. Họ sẽ cho rằng anh ấy đã quăng ra ngoài cửa sổ con dao, hoặc dao cạo, hoặc bất cứ thứ gì!”
“Tôi không rõ… Nhưng cửa sổ bị đóng mà?”
“Thế thì họ sẽ dùng ná và một cục đá để bắn cho vỡ cửa đi, để cho con chim có thể bay vào bên trong. Sau đó trong hoang mang, họ sẽ cho rằng chính Mycroft đã đập vỡ cửa kính để tìm cách trốn thoát. Đó là cách thức của Viện Paradol. Họ đã tính trước mọi thứ! Có lý lắm! Em không hiểu được tại sao mình lại bị một con chim ưng được trang bị đủ khí giới tấn công. Ai đã mang con chim sống vào trong một bảo tàng về chim nhồi rơm? Họ đã huấn luyện chúng ở đó, họ đã sử dụng bảo tàng như là một căn cứ hoạt động.”
Sherlock chợt nhớ ngay đến một việc, cậu thọc tay vào túi áo khoác. Bên trong túi, sát cái lọ thủy tinh lấy từ túi áo khoác của người đàng ông tự sát tại câu lạc bộ Diogenes, là cái xác tí teo của con chuột chết mà cậu nhặt trên tàu khi đi từ Dunkerque đến Moscow. Cậu đã quên khuấy đi. Cái xác chuột nằm gọn trong lòng bàn tay. “Đây hẳn là thức ăn để dành cho con chim”, cậu nói vội. “Em nhặt được trên tàu. Ông Kyte là người chăm sóc con chim – đó là lý do tại sao ông ta cứ ngồi lì trong khoang suốt chuyến đi. Ông ta phải vỗ về con chim, cho nó ăn để nó khỏi bay mất.”
“Cứ cho là cậu nói đúng đi.” Stone nhìn quanh quất. “Nhưng nó sẽ bay từ chỗ nào?”
“Chỗ nào rất gần đây. Có thể là từ một tòa nhà - nếu họ trèo được lên nóc nhà hoặc từ một phòng trống.” Sherlock hối hả nhìn xung quanh. “Hoặc đâu đó từ dưới đường, có lẽ vậy.”
Cậu chợt nhìn thấy một chiếc xe ngựa đang đậu ở phía bên kia đường. Chiếc xe này cũng giống như những chiếc xe khác lọc cọc đi qua, nhưng có cái gì đó buộc Sherlock chú ý. Có lẽ do thân hình đồ sộ của người đánh xe, hoặc cái cách ông ta vụng về lấy chiếc khăn choàng cố che bộ râu rậm rạp.
“Ở đằng kia,” Sherlock hối hả nói. “Cái xe ngựa đó.”
Stone đưa mắt nhìn theo. “Chính là ông Kyte.”
“Em cũng nghĩ vậy.”
“Wormesley sẽ ở trong xe. Cùng với con chim, nếu cậu suy nghĩ đúng.” Anh ta đảo mắt sang tòa nhà trụ sở của Ban Ba. “Ta phải đi đến chiếc bàn tiếp khách - để báo cho họ chuyển lời cảnh báo lên Bá tước Shuvalov.”
“Không còn thời gian đâu!” Sherlock kêu lên.
Trên chiếc xe đậu phía bên kia đường, cánh cửa sổ nhỏ nhìn về phía tòa nhà được kéo xuống để lộ ra một khe nhỏ.
Sherlock chỉ thấy được một cái gì đó xuất hiện qua cái khoảng vuông tối đen bên trong chiếc xe. Một cánh tay – đúng là một cánh tay có con chim lông màu nâu đậu phía trên. Có lẽ là con chim đã từng tấn công cậu tại viện bảo tàng ở London, hoặc có thể là con chim khác, nhưng trông chúng đều có vẻ dữ dằn cả.
Một tiếng huýt gió trầm vang lên trong không trung: có ba nốt; giống như tiếng huýt mà Sherlock đã nghe tại nhà bảo tàng.
“Nốt A ngang, nốt E, G cao.” Stone nói nhỏ.
Con chim ưng cất cánh, hai chân đạp mạnh vào không khí để lấy thế vụt lên sau đó vẫy mạnh cánh một, hai, ba lần để giữ thăng bằng trong không khí. Nó đảo mắt nhìn xuống để định hướng, rồi vỗ cánh để bay lên cao hơn. Dưới ánh nắng mặt trời, hai lưỡi dao được gắn vào chân con chim, ngay trên mấy cái vuốt sáng lóa lên nhức cả mắt.
Người đàn ông ngồi bên trong chiếc xe ngựa – Wormersley chăng?- huýt gió lần nữa, lần này những nốt khác, và con chim điều chỉnh lại hướng bay, nghiêng một chút sang phía trái, rồi nhắm thẳng. Tiếng huýt gió điều khiển cho nó nhắm vào đúng khung cửa sổ! Wormersley hẳn đã huấn luyện con chim trên một mô hình giống như tòa nhà này, hoặc cái gì đó được sơn cho giống, nhưng anh ta không hề cầu may. Anh ta hướng dẫn con chim bay tới đúng chỗ mà anh ta muốn.
“Ta muộn quá rồi,” Stone nói.
“Không,” Sherlock lên tiếng, giọng cậu đầy vẻ vững tin đến nổi chính mình cũng ngạc nhiên. “Không đâu!”
Sherlock nắm chặt một bàn tay lại, bàn tay kia đang giữ con chuột chết, và nhích ra phía sau. Dang rộng cánh tay trái ra phía trước để giữ thăng bằng, cậu ném mạnh con chuột như một người chặn bóng dùng hết sức ném trái banh trong môn bóng gậy.
Cái xác con chuột nhỏ xíu lượn vòng trong không khí bay về phía khung cửa sổ mở. Sherlock huýt gió, cố gắng huýt giống như âm thanh mệnh lệnh của Wormersley. Con chim xoay hẳn đầu để nhìn người nào khác dám ra hiệu cho nó. Mắt nó chợt thấy con chuột chết, lúc này bắt đầu chuyển hướng rớt xuống đất. Con chim ưng xoay mình trong không khí và đâm bổ xuống. Xác con chuột đang lao xuống theo trọng lực, nhưng con chim ưng vẫy cánh hai cái thật mạnh, rồi xếp cánh lại sát thân mình. Nó như vọt đi trong không khí, đường bay nhắm thẳng tới xác con chuột.
Cái mỏ của nó há ra rồi ngậm lại, toàn bộ con chuột bị nuốt gọn.
Nhiều tiếng huýt sáo vang lên trong không khí khi Wormersley hối hả cố điều khiển con chim, nhưng cái đói đã thắng sự tập luyện. Sherlock biết là phải để cho con chim ưng đói, nếu không chúng sẽ không theo lệnh của người luyện chim. Con chim lượn một vòng lớn hướng về chiếc xe ngựa. Nó hướng về cái vật đang nằm thật gần bên trong cái tổ của nó trong lúc này; đó là cái hộp được bao lại mà mấy người kia giao cho Wormersley ở tiệm cà phê.
Trong cái khoảng vuông đen ngòm bên trong chiếc xe ngựa, Sherlock thấy khuôn mặt của Wormersley phồng lên như thây ma, méo xẹo như một cái mặt nạ, đầy giận dữ.
Sherlock nghĩ tới các tín hiệu mà cậu đã nghe tại nhà bảo tàng: tín hiệu khiến con chim tấn công. Cậu cố gắng hết mức để nhớ lại các nốt. Cậu chơi violon cũng khá. Cậu đọc được bản nhạc. Cậu chắc chắn có thể nhận ra một nốt nhạc khi cần thiết.
Cậu huýt gió thật lớn, lập lại tiết tấu nhạc mà cậu nhớ được.
Trong lúc bay thấp xuống để quay về chiếc xe ngựa, con chim nghe được tín hiệu. Thay vì chuẩn bị hạ cánh để đậu trên cánh tay người luyện chim, nó giương vuốt ra làm thành hai khí cụ hủy diệt tai ác.
Con chim ưng ập vào khung cửa sổ của chiếc xe ngựa rồi đâm bổ vào mặt Wormersley.
Bên trong chiếc xe ngựa vang lên một tiếng kêu thét, và toàn bộ cái xe như rung lên khi Wormersley vật lộn với con chim bên trong. Còn ông Kyte, ngồi trên nóc chiếc xe, ngoái đầu lại xem chuyện gì xảy ra. Bị làm giật mình, con ngựa đang bị cột vào càng xe lồng hai chân sau lên.
“Ra tay nào!” Sherlock thét to gọi Stone. “Anh lo Kyte – em lo Wormersley.”
“Nhưng mà…”
“Ra tay đi!”
Lần này cậu không để Viện Paradol sổng được bằng mọi cách. Họ đã ra tay giết chết nhiều người, với đủ các lý lẽ biện minh. Cậu phải lôi Wormersley ra khỏi chiếc xe ngựa này bằng chính đôi tay của mình và buộc hắn ta phải khai cho bá tước Shuvalov biết tất cả những gì mà hắn định làm.
Thấy Stone chạy vượt qua mình để tóm Kyte, Sherlock đưa cả người tông vào cái cửa gần nhất của chiếc xe ngựa.
Khi cậu vừa chạm vào cánh cửa thì nó mở bật ra, đẩy cậu té ngửa xuống đường. Wormersley nhảy ra, gỡ con chim ưng khỏi đầu mình rồi ném nó về phía Sherlock. Mặt và áo hắn ta đầy máu, trên trán có dấu mỏ chim mổ vào và ngang cổ có nhiều nhát rạch.
Con chim đập cánh liên hồi rồi bay bổng lên. Việc tập luyện chỉ đi đến mức này thôi: tất cả những gì nó muốn bây giờ là được tự do.
Wormersley lấy ống tay quệt ngang mặt, vấy máu nhòe nhoẹt lên khuôn mặt đỏ ngầu vì giận dữ.
“Thằng nhãi phá đám!” hắn ta gào lên. “Kế hoạch tụi tao phải chuẩn bị hàng năm trời, thế mà mày làm hỏng trong tích tắc!”
“Đầu hàng đi,” Sherlock lên tiếng. Cậu thủ thế phòng trường hợp Wormersley xấn tới. “Hết đường rồi.”
“Lúc nào cũng có lối thoát cả.” Wormersley lùi ra sau và lấy trong xe ra một thứ gì đó trông giống như một cái vành, một thứ vành chơi của trẻ con, nhưng sau đó hắn ta lắc lắc bàn tay và cái vành này duỗi thẳng ra dưới đất.
Đó là một cái roi da, nhưng không giống thứ roi da mà Sherlock đã từng thấy. Không giống như cái roi mà ông Surd, người hầu của Bá tước Maupertuis đã sử dụng để chống lại cậu mấy tháng trước. Không phải, chiếc roi này giống như được bện bằng sợi kim loại, và ở đầu chóp là một cái vuốt sắt.
“Mày có nhớ tao từng nhắc tới cái knout của người Nga không?” Wormersley hỏi. “Giờ mày có dịp làm quen với nó rồi đấy.”
Hắn bất ngờ vung cái roi ra. Mút chóp của cái roi rít lên khi xoáy cắt vào không khí. Sherlock né sang một bên và cái đầu có móc kim loại vụt sát rạt qua tai cậu.
Nó móc vào áo khoác cậu khi Wormersley giật ngược cái roi lại.
Cả người Sherlock bị giật ra trước khiến cậu mất thăng bằng. Cậu sụm xuống chống tay và đầu gối lên nền đất phủ đầy tuyết.
Wormersley vòng ra sau lưng Sherlock và thít cái knout quanh cổ họng cậu. Hắn kéo mạnh cổ Sherlock ra sau để chẹn đường thở.
Trước mắt Sherlock giăng một màn sương màu đỏ. Cậu quờ quạng cố hít mạnh không khí vào lồng ngực, nhưng chẳng có chút gì lọt qua những mắc xích sắt của chiếc knout đang bấu chặt vào da thịt. Mấy ngón tay cậu cuống cuồng tìm cách luồn bên dưới chiếc vòng kim loại, nhưng nó bị Wormersley thít chặt đến mức không còn chút kẽ hở nào cả.
Lớp màn sương màu đỏ trước mắt cậu bắt đầu chuyển sang tối sầm. Cảnh vật chung quanh chỉ còn là một thứ mờ ảo của ánh sáng và tiếng động.
Sherlock tì trên chân phải ngả người ra sau, nhưng Wormersley đã xoạc chân ra, chồm về phía trước để xiết cổ cậu. Hắn ấn mạnh cùi chỏ vào cổ Sherlock.
“Mày chết đi!” hắn rít lên, đầu cúi sát vào tai trái của
Sherlock. “Chết đi!”
“Cố tìm một điểm tựa trên mặt đất, một kiểu lực đòn bẩy để giúp mình đứng dậy, bàn tay của Sherlock xợt qua mặt ngoài của chiếc áo khoác. Cậu cảm thấy bên trong túi có một cái gì cứng và cong cong - cái lọ có nút xịt lấy ở câu lạc bộ Diogenes. Cái lọ thuốc đã được dùng để gây mê Mycroft.
Mắt chỉ còn thấy màn đen và tai chỉ nghe nhịp tim của chính mình đập thình thịch, Sherlock cố chút sức tàn rút cái chai ra khỏi túi. Cậu mò mẫm cố đặt ngón tay cái lên cái nắp có nút bấm của chai. Không biết hướng xịt ở đâu, cậu đưa cao cái chai quá đầu rồi liên tục nhấn nút.
Ở phía sau, Wormersley há hốc miệng. Hai tay hắn lơi dần ra. Sherlock ngả về phía trước, hít mạnh vài ngụm khí trời vào phổi. Cậu xoay người lại, giơ cao hai tay về phía Wormersley để chống đỡ nếu tên này tấn công trở lại, nhưng qua lớp màn đỏ tan dần trước mắt, Sherlock thấy Wormersley bất động, đôi mắt nhìn vào chốn hư không, mặt đầy vẻ sững sờ.
Sherlock nhắm mắt lại và đầu đập xuống nền đường đầy đá cuội.
Nhiều bàn tay túm lấy Sherlock và kéo cậu đi. Cậu nghĩ đó là ông Kyte, nhưng lại có những bàn tay khác gỡ cái thòng lọng bằng da và kim loại của chiếc roi knout ra khỏi cổ cậu.
Ngoảnh đầu lại, cậu thấy xung quanh mình có nhiều binh sĩ quân phục màu xanh và xám. Một người đỡ lấy cậu còn người kia tháo chiếc knout. Người thứ ba tóm lấy Wormersley, lúc này mặt hắn đã sưng húp đến mức không nhận ra được. Người lính thứ tư đang kéo Stone ra từ phía bên kia của chiếc xe ngựa. Cánh tay Stone có một vết cứa lớn đang chảy máu, một vết cứa sâu cắt qua lớp vải của chiếc áo choàng đến tận phần da thịt bên dưới.
Không thấy bóng dáng ông Kyte đâu cả.
Mấy phút sau đó thoáng qua nhanh. Cả hai người, Sherlock và Rufus Stone, vừa bị đẩy vừa bị kéo vào bên trong tòa nhà Lubyanka, dọc theo các hành lang tối om và đi lên nhiều bậc cầu thang. Sherlock không nhớ được mình đang đứng nơi nào trong tòa nhà. Cuối cùng họ được dẫn qua những hàng cận vệ mặc đồng phục và đi vào khu vực có nhiều văn phòng sát nhau.
Đến văn phòng cuối cùng, có hai người đàn ông đang đứng chờ họ.
Một người mặc quân phục, trang phục của ông ta cầu kỳ hơn nhiều so với những bộ mà binh lính đang mặc, ông ta lại khoác thêm một chiếc áo choàng. Người đàn ông này khoảng bốn mươi tuổi, tóc muối tiêu, cắt ngắn, bộ ria uốn vểnh ngược. Người kia độ tuổi trên hai mươi, mặc bộ comlê màu đen và áo choàng có sọc.
“Sherlock đây rồi,” Mycroft nói giọng điềm tĩnh. “Đây là ngài Bá tước Pyotr Andreyevich Shuvalov. Và tiện đây xin phép ngài cho tôi giới thiệu em tôi, Sherlock.”
Shuvalov nhìn Sherlock rồi nhìn trở lại Mycroft.
“Xin chào,” ông ta nói giọng tiếng Anh chuẩn. “Tôi cho rằng cậu ta rất giống bên nội của anh.”