← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 9

CHƯƠNG 9

Nữ Bá tước Olenska đã nói “sau năm giờ”, và năm giờ ba mươi Newland Archer nhấn chuông ngôi nhà đã tróc vữa. Một cây đậu tía lớn trấn áp ban công gang mỏng manh của ngôi nhà cuối phố Hai mươi ba Tây mà nữ Bá tước đã thuê từ Medora nay đây mai đó.

Đó quả là một khu nhà kỳ lạ để có thể định cư. Những thợ may chuyên may đồ phụ nữ, những người làm thú nhồi và “những người viết lách” là hàng xóm thân cận nhất của cô. Và xuôi xuống con phố nhếch nhác, Archer nhận ra một ngôi nhà gỗ đổ nát phía cuối con đường lát đá, nơi mà một nhà văn kiêm phóng viên tên là Winsett, người mà Archer thỉnh thoảng vẫn gặp, sống ở đó. Winsett chưa hề mời ai về nhà, nhưng anh từng chỉ nhà mình cho Archer trong một cuộc dạo đêm, và Archer đã tự hỏi, với một thoáng rùng mình, liệu ở những thành phố lớn khác con người ta có phải sống trong những chỗ chật hẹp như thế không?

Nơi ở của Madame Olenska chỉ khác những ngôi nhà xung quanh ở khung cửa sổ được sơn nhiều hơn. Khi Archer đứng trước mặt tiền khiêm tốn của ngôi nhà, anh đã tự nhủ rằng gã Bá tước Ba Lan hẳn là đã cướp đoạt cả của cải và những ảo tưởng của cô.

Chàng trai trẻ đã trải qua một ngày không như ý. Anh đã ăn trưa với nhà Welland, hy vọng sau đó có thể đưa May đi dạo ở công viên. Anh muốn có cô cho riêng mình, để nói với cô rằng cô trông quyến rũ thế nào tối hôm trước, khiến anh thấy tự hào về cô biết bao, và giục cô đẩy nhanh đám cưới của họ. Nhưng bà Welland đã kiên quyết nhắc nhở anh rằng vòng thăm viếng gia đình vẫn chưa đi được quá nửa, và khi anh gợi ý việc định trước ngày cưới, bà đã nhướng mày vẻ trách mắng và thở dài: “Mười hai tá đồ thêu tay…”

Cỗ xe tứ mã của gia đình họ lăn bánh từ cửa nhà này đến cửa nhà khác. Và khi vòng thăm viếng buổi chiều kết thúc, Archer chia tay vị hôn thê với cảm giác mình vừa bị trưng bày như một con thú hoang mắc phải một cái bẫy khéo léo. Anh cho rằng việc đọc sách nhân loại học đã khiến anh có cái nhìn khó chịu đối với việc thể hiện tình cảm gia đình một cách tự nhiên và đơn giản này. Nhưng khi anh nhớ ra rằng nhà Welland không muốn đám cưới diễn ra trước mùa thu tới, và hình dung cuộc sống của mình sẽ ra sao đến tận lúc đó, tinh thần anh trở nên chán nản.

- Ngày mai - bà Welland gọi với theo anh - chúng ta sẽ đến thăm nhà Chivers và nhà Dallas.

Anh hiểu rằng bà đã chọn tới thăm hai gia đình một theo thứ tự abc, và họ chỉ là phần đầu tiên trong bảng chữ cái.

Anh định nói cho May biết về đề nghị của nữ Bá tước Olenska - yêu cầu của cô ta thì đúng hơn - rằng anh nên đến thăm cô ta chiều hôm đó, nhưng trong khoảng thời gian ngắn ngủi bên nhau, anh lại có quá nhiều điều cần thiết hơn để nói với May. Hơn nữa, anh chợt thấy hơi vô lý khi nhắc đến chuyện đó. Anh biết rằng May rất muốn anh đối tốt với chị họ cô, chẳng phải mong muốn đó đã thúc đẩy việc công bố lễ đính hôn sớm sao? Anh có cảm giác kỳ cục khi nghĩ rằng, nếu không có sự xuất hiện của nữ Bá tước, thì có lẽ tuy không hẳn là một người đàn ông tự do nhưng anh cũng không đến mức bị ràng buộc như thế này. Tuy nhiên, May đã muốn anh đối tốt với cô chị họ này, và dù sao anh cũng cảm thấy yên lòng về những bổn phận sắp tới - do đó khi còn tự do, nếu anh muốn, anh có thể ghé thăm chị họ cô mà không cần nói với cô.

Khi anh đứng bên ngưỡng cửa nhà Madame Olenska, tò mò là cảm giác trước nhất. Anh bối rối bởi giọng điệu mà cô mời anh, và kết luận rằng cô không phải là một phụ nữ đơn giản như cô vẫn tỏ ra.

Cánh cửa được mở bởi một cô hầu có vẻ ngoài ngoại quốc ngăm đen, với một vòng hoa nhô lên dưới chiếc khăn quàng cổ sặc sỡ, anh mơ hồ đoán cô này là người Sicil. Cô chào đón anh với một nụ cười để lộ hàm răng trắng, và trả lời những câu hỏi của anh với một cái lắc đầu không hiểu. Cô dẫn anh qua cái hành lang hẹp để vào một phòng khách lờ mờ tối. Căn phòng trống không, cô hầu gái để anh lại đó một lúc lâu khiến anh tự hỏi liệu có phải cô ta đi tìm cô chủ của mình không hay cô ta không hiểu anh đến đây để làm gì. Và anh nhận thấy chiếc đồng hồ, thứ duy nhất trong phòng mà anh nhìn rõ, đã chết và cần phải lên dây cót lại. Anh biết rằng những tộc người phía nam giao tiếp với nhau bằng một thứ ngôn ngữ ra hiệu, và bỗng xấu hổ khi nhớ lại cái nhún vai và nụ cười khó hiểu của cô. Cuối cùng, cô hầu cũng quay lại với một cái đèn, và Archer hỏi cô bằng một cụm từ mà anh ghép từ ngôn ngữ xứ Dante và xứ Petrarch, cuối cùng cô ta cũng hiểu và trả lời: “La signora è fuori; ma verrà subito”, anh hiểu nghĩa là: “Bà ấy đã ra ngoài… nhưng ông sẽ sớm gặp thôi.”

Nhờ chiếc đèn, anh đã thấy sự quyến rũ mờ ảo của căn phòng không giống bất cứ căn phòng nào anh từng biết. Anh biết rằng nữ Bá tước Olenska đã mang vài thứ tài sản theo - một ít đồ vụn vặt, cô gọi chúng thế - và anh cho rằng chúng chính là vài chiếc bàn nhỏ bằng gỗ đen, một món đồ tinh xảo bằng đồng Hy Lạp trên mặt lò sưởi, và một dải lụa Đa-mát đỏ đính trên tấm giấy dán tường đã bạc màu đằng sau cặp tranh Ý lồng trong những khung cũ.

Newland Archer tự hào với kiến thức về nghệ thuật Ý của mình. Thời niên thiếu, anh từng say sưa với sách của Ruskin, và anh đã đọc tất cả những sách gần đây nhất như: John Addington Symonds[43], “Euphorion” của Vernon Lee[44], những bài luận của P.G.Hamerton[45], và một quyển sách mới tuyệt vời có tên là “Phục hưng” của Walter Pater[46]. Anh nói chuyện dễ dàng về Botticelli[47], và đề cập Fra Angelico[48] với một sự chiếu cố. Nhưng những bức tranh này làm anh lúng túng, vì chúng chẳng giống với những gì anh từng xem (và do đó có thể hiểu được) khi anh du lịch đến Ý. Có lẽ năng lực quan sát của anh bị suy yếu bởi cảm giác kỳ lạ khi ở một mình trong căn nhà trống trải xa lạ, nơi rõ ràng không có ai mong đợi anh. Anh tiếc là đã không cho May Welland biết về lời đề nghị của nữ Bá tước Olenska, và hơi phiền khi nghĩ rằng vị hôn thê của anh có thể đến đây để gặp chị họ. Cô ấy sẽ nghĩ gì khi thấy anh ngồi đó chờ đợi một mình bên lò sưởi của một phụ nữ với vẻ như đã quen thân trong lúc trời nhá nhem tối thế này?

Nhưng vì anh đã đến nên anh muốn đợi. Anh ngả người xuống một cái ghế và duỗi chân về phía mấy khúc gỗ.

Thật kỳ cục khi cô ta mời anh đến kiểu đó, rồi quên mất anh, nhưng Archer cảm thấy tò mò nhiều hơn là xấu hổ. Không khí của căn phòng quá khác lạ so với những nơi anh từng biết, đến nỗi sự ngượng ngùng biến mất trong cảm giác phiêu lưu. Anh đã từng ở trong những căn phòng khách treo đầy lụa Đa-mát đỏ, với những bức tranh “theo trường phái Ý”. Nhưng ở đây điều gây ấn tượng cho anh chính là cách mà căn nhà thuê tồi tàn của Medora Manson, với bối cảnh đổ nát của đám cỏ đồng hoang và những tượng nhỏ Rogers, nhờ bàn tay xếp đặt khéo léo và sự hữu ích của vài món đồ, đã biến thành một ngôi nhà mang phong cách gì đó riêng biệt của “ngoại quốc”, và nó tế nhị gợi nên những khung cảnh và tình cảm lãng mạn cổ xưa. Anh cố quan sát sự khéo léo, để nắm bắt thật tỉ mỉ trong cách phối hợp bàn và ghế, trong việc chỉ có hai bông hồng Jacqueminot (mà không ai mua ít hơn một tá) được đặt trong một cái bình mỏng manh bên cạnh khuỷu tay anh đây; và trong mùi hương nước hoa lan tỏa trong không gian một cách mơ hồ, không giống như thứ hương người ta hay cho vào khăn tay mà khá giống hương vị của vài khu chợ ở nơi xa xôi nào đó, một mùi tạo nên từ cà phê Thổ Nhĩ Kỳ, long diên hương và hoa hồng khô.

Trí óc anh vẩn vơ nghĩ không biết phòng khách của May trông sẽ như thế nào. Anh biết rằng ông Welland, người cư xử “rất rộng rãi”, đã để mắt đến việc xây dựng ngôi nhà mới ở phố Ba mươi chín Đông. Nơi đó khá hẻo lánh, và ngôi nhà được xây bằng đá màu vàng lục, loại đá đang bắt đầu được những kiến trúc sư trẻ dùng để chống lại đá nâu, vốn đang là thứ màu đồng phục mà các ngôi nhà ở New York khoác lên giống như một thứ dung dịch sô-cô-la lạnh lẽo; và hệ thống ống nước của ngôi nhà mới này thì tuyệt vời. Archer muốn đi du lịch và tạm hoãn chuyện nhà cửa, nhưng mặc dù nhà Welland đã đồng ý hai vợ chồng trẻ sẽ có một tuần trăng mật dài ngày ở châu Âu (thậm chí có lẽ là một mùa đông ở Ai Cập), họ vẫn khẳng định rằng ngôi nhà cần phải được hoàn thành khi đôi vợ chồng trẻ quay về. Chàng trai trẻ cảm thấy số phận của anh đã được định đoạt: suốt phần đời còn lại, anh sẽ đi lên những bậc cửa màu vàng lục mỗi tối giữa hai hàng thanh vịn bằng gang, và đi qua một cái hành lang thiết kế kiểu Pompeian để vào phòng đợi có ván lát chân tường bằng gỗ vàng đánh véc-ni. Nhưng trí tưởng tượng của anh không thể đi xa hơn. Anh biết phòng khách phía trên có một cửa sổ lồi, nhưng anh không thể tưởng tượng May sẽ làm gì với nó. Cô đã vui vẻ đưa ra ý kiến về việc dùng sa-tanh màu tía, những đồ thêu màu vàng và kê những cái bàn Buhl phủ khăn cùng những tủ kính mạ vàng đầy giấy Saxe hiện đại trong phòng khách nhà Welland. Anh thấy không lý do gì khiến cô không muốn có những thứ đó trong căn nhà của chính mình; Và điều duy nhất khiến anh thoải mái là ý nghĩ có lẽ cô sẽ để anh xếp đặt thư viện của mình vì anh thích những đồ đạc Eastlake “chân thật”, cùng những giá sách mới giản dị không có cửa kính.

Cô hầu có dáng người đầy đặn bước vào, kéo rèm che, đẩy lại một khúc gỗ trong lò sưởi, và nói một cách an ủi: “Ver- rà… verrà”. Khi cô đã đi khỏi, Archer đứng dậy và bắt đầu đi lang thang quanh phòng. Anh có nên chờ thêm không? Anh bắt đầu trở nên khá ngốc nghếch. Có lẽ anh đã hiểu nhầm Madame Olenska - có lẽ cô đã không hề mời anh.

Bên dưới, con đường trải sỏi cuội yên tĩnh vang lên những tiếng móng ngựa lộp cộp. Chúng dừng lại trước ngôi nhà và anh nghe thấy tiếng cửa xe mở ra. Vén rèm lên, anh nhìn ra ngoài dưới bóng chiều chạng vạng, một ngọn đèn đường đối diện với anh, và trong ánh sáng ấy, anh thấy cỗ xe độc mã nhỏ kiểu Anh của Julius Beaufort, được kéo bởi một con ngựa lang lớn. Vị chủ ngân hàng từ trên xe bước xuống, rồi giúp Madame Olenska bước ra.

Beaufort, tay cầm mũ, đứng nói điều gì đó khiến người bạn đồng hành của ông có vẻ không đồng ý, rồi họ bắt tay nhau, và ông ta nhảy vào xe ngựa trong khi cô leo lên bậc cửa.

Bước vào phòng, cô không tỏ ra ngạc nhiên khi trông thấy Archer ở đó. Ngạc nhiên dường như là cảm xúc ít thấy nhất ở cô.

- Anh có thích ngôi nhà thú vị của tôi không? - Cô hỏi. - Với tôi nó là thiên đường.

Vừa nói cô vừa cởi chiếc mũ nồi nhung nhỏ và thả nó xuống cùng với chiếc áo choàng dài không tay, và đứng nhìn anh với đôi mắt suy tư.

- Chị đã sắp đặt nơi này rất tuyệt - anh thành thật đáp, tuy lời nói vẫn bị ảnh hưởng bởi thói quen muốn biến nó trở nên đơn giản và ấn tượng.

- Ôi, nó là một nơi nhỏ bé và tồi tàn. Những người thân của tôi coi thường nó. Nhưng dù sao đi nữa, nó không đến nỗi ảm đạm như nhà Van der Luyden.

Những lời nói này khiến anh bị sốc, vì chỉ vài kẻ có tư tưởng chống đối mới dám bảo căn nhà trang nghiêm của gia đình Van der Luyden là ảm đạm. Những người được phép vào đó đều run rẩy và khen ngợi “vẻ đẹp” của nó. Nhưng đột nhiên, anh thấy vui vì cô đã đưa ra ý kiến khác người đó.

- Thật là tuyệt… những thứ chị đã sắp đặt ở đây - anh lặp lại.

- Tôi thích những căn nhà nhỏ - cô thừa nhận - nhưng tôi cho rằng thứ tôi thích chính là niềm vui được ở đây, trên đất nước và trong thành phố của chính mình, và rồi, được sống một mình trong đó - cô nói rất nhỏ đến nỗi anh khó có thể nghe được cụm từ cuối, nhưng anh tiếp tục nói một cách vụng về.

- Chị thích ở một mình lắm à?

- Vâng, miễn là bạn bè tôi không khiến tôi cảm thấy cô đơn. - Cô ngồi xuống gần lò sưởi, nói - Nastacia sẽ mang trà lên ngay, - và ra hiệu cho anh quay lại chiếc ghế bành, cô nói thêm - tôi thấy anh đã chọn được góc của mình.

Ngả mình ra sau, cô đan tay sau đầu, và nhìn lò sưởi dưới đôi mi rủ xuống.

- Đây là giờ phút tôi thích nhất… còn anh?

Một ý thức về lòng tự trọng khiến anh trả lời:

- Tôi e rằng chị đã quên hết giờ giấc. Beaufort chắc là đã choán hết thì giờ của chị.

Cô trông có vẻ thích thú.

- Sao thế… Anh đợi tôi có lâu không? Ông Beaufort dẫn tôi đi xem một số ngôi nhà… vì dường như tôi không được phép ở lại căn nhà này - cô có vẻ không nghĩ gì đến cả Beaufort lẫn chính anh, và tiếp tục - tôi chưa bao giờ ở trong một thành phố nào mà người ta có vẻ không thích sống trong những khu vực xa trung tâm. Người ta sống ở đó thì có hề gì? Tôi thấy đây cũng là một khu đàng hoàng.

- Nó không sang trọng.

- Sang trọng! Có phải các vị nghĩ về điều đó quá nhiều? Tại sao không tự tạo một phong cách riêng cho mình? Nhưng tôi cho rằng tôi đã sống quá độc lập; dù sao đi nữa, tôi muốn làm theo những gì mọi người làm… tôi muốn cảm thấy được quan tâm và an toàn.

Anh xúc động, như cái đêm hôm trước khi cô nói cô cần được hướng dẫn.

- Đó là điều mà những người thân của chị muốn cảm nhận. New York là một nơi cực kỳ an toàn - anh nói thêm với một chút mỉa mai.

- Đúng vậy. Người ta cảm thấy thế. - cô nói lớn, không để ý đến sự nhạo báng. - Sống ở đây giống như… như… một cô gái nhỏ biết vâng lời được thưởng một kỳ nghỉ vậy.

Lời nói là có ý tốt, nhưng hoàn toàn không làm anh vui.

Anh không ngại những lời khiếm nhã về New York, nhưng không thích nghe bất cứ ai nói với giọng đó. Anh tự hỏi chẳng lẽ cô không bắt đầu nhận ra nó là một cỗ máy mạnh mẽ, và suýt nữa đã đè bẹp cô như thế nào? Bữa tối nhà Lovell Mingott tổ chức chào đón cô đã phải “vá víu trong vội vã” bằng những người kỳ cục và dưới đáy của xã hội, lẽ ra đã cho cô thấy bài học về lối thoát chật hẹp của cô. Nhưng có thể cô không hề ý thức rằng mình bị một tai họa bám theo sau, hoặc cô đã mờ mắt bởi ánh hào quang của buổi tối ở nhà Van der Luyden. Archer nghiêng về giả thuyết đầu; anh nghĩ rằng New York trong cô vẫn là một nơi hoàn toàn không phân biệt đối xử, và sự phỏng đoán này khiến anh bực tức.

- Đêm qua - anh nói - New York đã đón nhận chị. Nhà Van der Luyden chưa bao giờ làm gì nửa vời cả.

- Đúng vậy: họ thật là tử tế! Đó là một bữa tiệc thú vị. Mọi người đều có vẻ kính mến họ.

Lời nói của cô không hề thích hợp trong trường hợp này, nó chỉ hợp khi nói về một bữa tiệc trà tại nhà cụ bà Lan- nings thân mến mà thôi.

- Nhà Van der Luyden - Archer nói, cảm thấy mình hơi phô trương - là gia đình có ảnh hưởng lớn nhất trong xã hội New York. Thật không may… do sức khoẻ của phu nhân… họ rất hiếm khi tiếp khách.

Cô buông tay khỏi đầu, và nhìn anh suy tư.

- Có lẽ đó là lý do?

- Lý do…?

- Vì sự ảnh hưởng lớn của họ, nên họ mới khép kín như vậy.

Anh thoáng đỏ mặt, nhìn chằm chằm vào cô, và đột nhiên cảm thấy sự sắc sảo của lời nhận định ấy, đột nhiên cô đã đưa ra một lời nhận định thấu suốt về nhà Van der Luyden. Anh cười, và không nhắc đến họ nữa.

Nastasia mang trà trong những chén kiểu Nhật Bản không tay cầm có những chiếc đĩa tách nhỏ đậy ở trên tới, và đặt khay lên một cái bàn thấp.

- Nhưng anh có thể giải thích tất cả những điều này với tôi, anh hãy nói cho tôi hay những gì tôi cần biết - Madame Olenska tiếp tục, cúi về đằng trước để trao chén trà cho anh.

- Chính chị là người đang kể cho tôi, mở mắt cho tôi trước những thứ mà vì đã nhìn vào quá lâu nên tôi không còn nhận ra chúng.

Cô gỡ một hộp thuốc lá vàng nho nhỏ từ một trong những chiếc vòng tay, đưa ra cho anh, và tự lấy một điếu cho mình. Trên lò sưởi, có những cái đóm dài dể châm lửa.

- Vậy thì chúng ta có thể giúp nhau. Nhưng tôi cần được giúp đỡ nhiều hơn. Anh phải nói cho tôi biết những gì tôi cần làm.

Anh định nói: “Đừng để bị nhìn thấy đi loanh quanh với Beaufort trên đường phố…”, nhưng vì bị cuốn hút quá mạnh vào không khí của căn phòng, cũng chính là không khí của cô, nên việc đưa ra lời khuyên kiểu đó sẽ giống như nói với một người đang mặc cả tinh dầu hoa hồng ở Samarkand[49] rằng người ta luôn phải chuẩn bị đầy đủ để đối phó với cái giá rét của mùa đông New York. New York quá xa so với Samarkand, và nếu họ thực sự giúp đỡ lẫn nhau thì cô đang đưa ra thứ minh chứng cho sự chỉ dẫn qua lại đầu tiên giữa họ bằng cách để anh nhìn nhận thành phố quê hương mình một cách khách quan. Do đó, như qua đầu kia của chiếc kính viễn vọng, nó có vẻ nhỏ bé và xa xôi một cách khác thường, nhưng nhìn từ Samarkand thì đúng là như thế.

Một tia lửa bắn lên khỏi khúc gỗ và cô cúi xuống lò sưởi, vươn đôi tay gầy tới gần nó đến nỗi một quầng sáng mờ nhạt tỏa ra quanh những móng tay trái xoan của cô. Ánh sáng chiếu đến vài lọn tóc nâu đỏ rơi khỏi bím tóc cô, và khiến khuôn mặt xanh xao của cô thêm nhợt nhạt.

- Có nhiều người sẽ nói cho chị biết những gì chị phải làm - Archer đáp, phần nào ghen tỵ với họ.

- Ôi, tất cả những người cô, người dì của tôi ư? Và bà nội yêu quý của tôi? Cô cân nhắc ý kiến đó một cách vô tư. - Họ đều hơi bực mình với tôi khi tôi ra ở riêng, đặc biệt là bà nội. Bà muốn giữ tôi lại bên bà, nhưng tôi phải được tự do...

Anh thấy ấn tượng với cách nói nhẹ nhàng này về bà Catherine ghê gớm, và xúc động bởi ý nghĩ điều gì đã khiến cho Madame Olenska khao khát dù là sự tự do cô đơn nhất này. Nhưng ý nghĩ về Beaufort giày vò anh.

- Tôi nghĩ tôi hiểu chị cảm thấy thế nào - anh nói - tuy nhiên, gia đình chị có thể đưa ra lời khuyên, giải thích những sự khác biệt, và chỉ cách cho chị.

Cô nhướng đôi lông mày đen mảnh mai lên.

- New York là một mê cung như thế này phải không? Tôi đã nghĩ nó cứ thẳng rồi lại cong như Đại lộ Năm, với tất cả những con đường cắt ngang đều được đánh số! - Cô có vẻ đoán được sự bất đồng của anh về điều này, và nở nụ cười hiếm hoi làm tăng lên vẻ quyến rũ trên toàn khuôn mặt cô. - Giá mà anh biết tôi thích điều đó như thế nào - sự lên thẳng và xuống cong ấy - và những cái nhãn thành thực to tướng dán cho mọi thứ!

Anh thấy cơ hội của mình.

- Mọi thứ đều được dán nhãn, nhưng con người thì không.

- Có lẽ. Tôi có thể đã đơn giản hóa quá nhiều… nhưng anh hãy cảnh báo cho tôi biết nếu tôi làm thế. - Cô quay lại từ lò sưởi để nhìn vào anh. - Chỉ có hai người ở thành phố này khiến tôi cảm thấy rằng có vẻ họ đã hiểu tôi muốn gì và có thể giải thích mọi thứ cho tôi, đó là anh và ông Beaufort.

Archer cau mày về việc cô ghép hai cái tên với nhau, nhưng rồi, nhanh chóng điều chỉnh lại, anh thấy hiểu, thông cảm và thương hại cô. Chắc là cô đã phải sống quá gần với quỷ dữ nên cô vẫn chưa lường hết được mọi việc trong thế giới ở đây. Vì cô cảm thấy rằng anh cũng hiểu cô, nên việc của anh sẽ là giúp cô nhận ra con người thực của Beaufort, với tất cả những gì ông ta đại diện cho - để cô thấy ghê tởm nó.

Anh trả lời lịch thiệp:

- Tôi hiểu. Nhưng trước hết đừng rời xa tầm tay những người thân lớn tuổi của chị, ý tôi là những phụ nữ, bà nội Mingott của chị, phu nhân Welland, phu nhân Van der Luyden. Họ quý mến và ngưỡng mộ chị, họ muốn giúp chị.

Cô lắc đầu và thở dài:

- Ồ, tôi biết… tôi biết! Nhưng với điều kiện là họ không nghe thấy bất cứ thứ gì không hay. Cô Welland đã nói thế khi tôi cố… Có phải là ở đây không ai muốn biết sự thật không, anh Archer? Sự cô đơn thực sự chính là sống giữa những người tử tế mà những người này chỉ luôn bắt người ta phải giả vờ. - Cô đưa tay lên mặt, và anh thấy đôi vai gầy của cô run lên bởi tiếng thổn thức.

- Madame Olenska!… Ôi không, Ellen - anh nói lớn, nhỏm dậy và cúi xuống cô. Anh kéo một bàn tay của cô xuống, siết chặt và xoa nó như tay của một đứa trẻ và thì thầm những lời an ủi, nhưng trong khoảnh khắc cô đã tự giải thoát khỏi cơn nức nở và nhìn anh với hàng mi ướt.

- Ở đây cũng không có ai khóc đúng không? Tôi cho rằng điều đó là không cần thiết, ở chốn thiên đường - cô nói, chỉnh lại những bím tóc bị lỏng với một nụ cười, và cúi xuống ấm trà. Anh nhớ rằng mình đã gọi cô là “Ellen” - gọi cô hai lần, nhưng cô không nhận ra. Ở đầu kia của cái kính viễn vọng đảo ngược anh thấy hình bóng trắng mờ nhạt của May Welland - ở New York.

Đột nhiên Nastasia thò đầu vào nói gì đó trong thứ tiếng Ý đặc sệt.

Madame Olenska, lại đưa tay lên tóc, thốt lên một sự tán thành - nghe như “Già - già” - và Công tước St Austrey bước vào, dẫn theo một phụ nữ trong chiếc áo lông thú màu mận chín và đeo bộ tóc giả màu đen dày cộm.

- Nữ Bá tước thân mến, tôi đã mang một người bạn cũ của tôi đến gặp cô, phu nhân Struthers. Bà ấy không được mời đến bữa tiệc tối qua và bà ấy muốn gặp cô.

Công tước nhìn vào nhóm người và Madame Olenska tiến lên với lời chào đón thì thầm trên môi về phía cặp đôi kỳ lạ. Cô có vẻ không quan tâm đến sự kết hợp của họ là kỳ cục đến mức nào hay việc Công tước mang theo người bạn đồng hành của mình là tuỳ tiện ra sao - và để cho công bằng, như Archer nhận thấy, Công tước có vẻ cũng không chú ý gì về điều tương tự.

- Tất nhiên tôi muốn gặp cô, bạn thân mến - Bà Struthers nói trong một giọng vang rền tròn trĩnh phù hợp với chiếc áo lông táo bạo và bộ tóc giả trơ tráo. - Tôi muốn biết tất cả những ai trẻ trung, thú vị và quyến rũ. Và Công tước nói với tôi rằng cô thích âm nhạc, đúng không thưa Công tước? Tôi nghĩ rằng cô biết chơi piano? Ôi, cô có muốn nghe Sarasate[50] chơi tối mai ở nhà tôi không? Cô biết đấy tôi thường tổ chức thứ gì đó mỗi tối Chủ nhật, đó là ngày mà New York không biết mình phải làm gì, vì vậy tôi nói với nó: “Hãy đến và cùng vui vẻ”. Và Công tước nghĩ cô thích Sarasate. Cô sẽ tìm thấy vài người bạn ở đó.

Khuôn mặt của Madame Olenska ngời lên rạng rỡ.

- Tuyệt quá! Công tước thật tốt khi nghĩ đến tôi - cô kéo ghế đến bên bàn uống trà và bà Struthers ngả người xuống một cách thú vị. - Tất nhiên tôi sẽ rất vui lòng đến đó.

- Tốt lắm, bạn thân mến. Và hãy mang cả chàng trai trẻ thanh lịch của cô theo cùng, - bà Struthers đưa tay thân mật cho Archer - tôi không biết tên anh, nhưng tôi chắc chắn đã gặp anh rồi, tôi đã gặp tất cả mọi người, ở đây hoặc Paris hay London. Có phải anh ở trong ngành ngoại giao không? Tất cả các nhà ngoại giao đều đến với tôi. Anh cũng thích âm nhạc chứ? Công tước, ông phải chắc chắn là mang anh ấy theo.

Công tước nói: “Dĩ nhiên” từ dưới đáy bộ râu của mình, và Archer rút lui với một cái cúi chào vòng quanh cứng nhắc khiến anh thấy mình nổi đầy gai ốc như một học sinh e thẹn giữa những người lớn tuổi thờ ơ và không chú ý.

Anh không lấy làm buồn về đoạn cuối của cuộc viếng thăm: anh chỉ ước ao phải chi nó đến sớm hơn, và tiết kiệm cho anh một sự lãng phí về cảm xúc. Khi anh bước ra ngoài màn đêm lạnh giá, New York lại trở nên rộng lớn và đầy chông gai, và May Welland là người phụ nữ đáng yêu nhất ở đó. Anh quay lại hàng hoa quen thuộc và gửi cho cô một hộp lan chuông như thường lệ mà anh bối rối nhận ra là mình đã quên gửi sáng hôm đó.

Khi anh viết chữ lên tấm danh thiếp của mình và đợi một chiếc phong bì, anh liếc nhìn xung quanh cửa hàng vốn ẩn trong một lùm cây, và mắt anh tình cờ chạm phải một bó hồng vàng. Anh chưa từng thấy màu vàng rực rỡ như thế bao giờ, nên ngay lập tức anh nảy ra ý gửi chúng cho May thay vì hoa lan chuông. Nhưng chúng trông không giống cô, vì có cái gì đó quá lộng lẫy và quá mạnh mẽ trong vẻ đẹp mãnh liệt của chúng. Trong một tâm trạng thay đổi đột ngột, hầu như không cần biết mình đã làm gì, anh ra hiệu cho người bán hoa đặt hoa hồng vào một hộp dài khác, và thả tấm danh thiếp của mình vào một chiếc phong bì thứ hai, trên đó anh viết tên nữ Bá tước Olenska, rồi ngay khi định quay đi, anh lại kéo tấm danh thiếp ra, và để chiếc phong bì rỗng trên hộp.

- Chúng sẽ được chuyển đi ngay lập tức chứ? - Anh hỏi, chỉ tay vào những bông hồng.

Người bán hoa đảm bảo với anh rằng chúng sẽ được chuyển đi ngay.