← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 10

CHƯƠNG 10

Ngày hôm sau, anh đã thuyết phục May trốn đi dạo ở công viên sau bữa trưa. Theo như phong tục Tân giáo cổ hủ của New York, cô thường theo cha mẹ đến nhà thờ mỗi chiều Chủ nhật. Nhưng bà Welland đã bỏ qua chuyện đó, vì ngay sáng hôm đó bà còn bận rộn với việc chuẩn bị những thứ cần thiết cho một cuộc đính hôn dài, bà cần thời gian để chuẩn bị quần áo tư trang thêu tay với con số một tá.

Ngày hôm đó thật đẹp. Những vòm cây trơ trụi dọc khu phố mua sắm đội trên đầu một bầu trời xanh dịu dàng, và uốn cong trên mặt tuyết lấp lánh như pha lê vỡ vụn. Thời tiết ấy làm tôn thêm vẻ lộng lẫy của May, và cô bừng sáng như một cây gỗ thích non trong sương giá. Archer tự hào khi những cái nhìn đều hướng về cô, và niềm vui giản dị của người sở hữu đã xua tan mọi lúng túng ẩn sâu bên trong anh.

- Thật là thú vị… mỗi khi thức dậy vào buổi sáng đều được ngửi thấy mùi lan chuông trong phòng - cô nói.

- Hôm qua chúng đã đến muộn. Anh không có thời gian vào buổi sáng...

- Nhưng việc anh nhớ gửi chúng cho em hàng ngày khiến em yêu chúng nhiều hơn là anh đặt một lần cố định, để chúng đến mỗi sáng vào một giờ nhất định, như một giáo viên dạy nhạc… vì em biết như Gettrude Lefferts chẳng hạn, đã nhận được hoa như thế, khi cô ấy và Lawrence đính hôn.

- Ồ… họ đã làm vậy! - Archer cười, thích thú trước sự say mê của cô. Anh nhìn một bên má như quả chín của cô và đánh bạo nói thêm. - Khi anh gửi hoa lan chuông cho em chiều hôm quá, anh đã nhìn thấy những bông hồng vàng khá kiều diễm và đã gói chúng để gửi cho Madame Olenska. Anh làm thế có được không?

- Anh thật đáng yêu! Bất cứ điều gì tử tế như thế đều làm chị ấy vui. Thật kỳ là chị ấy không hề nhắc đến việc đó. Chị ấy đã ăn trưa với gia đình em hôm nay, và nói chuyện về việc ông Beaufort đã gửi cho chị ấy những giò phong lan tuyệt vời và bác họ Henry Van der Luyden cũng gửi một hòm toàn hoa cẩm chướng từ Skuytercliff. Chị ấy có vẻ ngạc nhiên khi nhận được hoa. Ở châu Âu mọi người không tặng nhau hoa sao? Chị ấy nghĩ đó là một phong tục dễ thương.

- Ồ, vậy thì chắc là hoa của anh đã bị lu mờ trước hoa của Beaufort - Archer cáu kỉnh nói. Sau đó nhớ ra rằng mình không để thiệp vào đóa hồng, anh thấy bực mình khi nói chuyện về chúng. Anh muốn nói: “Anh đã ghé thăm chị họ em hôm qua” nhưng lại do dự. Nếu Madame Olens- ka không kể về chuyến viếng thăm của anh thì anh cũng không nên nói ra. Tuy nhiên, vì anh không làm thế nên chuyện tình của họ có một vẻ gì đó bí ẩn mà anh không thích chút nào. Để giũ sạch vấn đề đó anh bắt đầu đề cập đến những kế hoạch của họ, về tương lai, và sự khăng khăng của bà Welland về một lễ đính hôn kéo dài.

- Nếu anh gọi thế là dài! Isabel Chivers và Reggie đã đính hôn trong hai năm, Grace và Thorley gần một năm rưỡi. Sao chúng ta không bằng lòng với hiện tại?

Đó là câu hỏi truyền thống của các cô gái chưa chồng, và anh tự thấy xấu hổ khi nhận ra nó cực kỳ ngây ngô. Rõ ràng cô chỉ đơn giản lặp lại những gì được dạy bảo, nhưng cô đã gần hai mươi hai tuổi, và anh tự hỏi đến tuổi nào thì những phụ nữ “ngoan” mới bắt đầu nói những điều của chính họ.

“Mình nghĩ là không bao giờ, nếu bọn mình không cho phép họ” - anh trầm ngâm, và nhớ lại lần anh bộc lộ với ông Sillerton Jackson: ”Phụ nữ phải được tự do như chúng ta…”.

Giờ đây nhiệm vụ của anh là tháo lớp băng khỏi mắt của người phụ nữ trẻ này, và bảo cô nhìn ra thế giới. Nhưng có bao nhiêu thế hệ phụ nữ trước cô đã cởi bỏ lớp băng để ra khỏi “hầm mộ” gia đình? Anh thoáng rùng mình, nhớ lại vài ý trong những quyển sách khoa học, và những ví dụ trích dẫn về những con cá trong hang ở Kentucky đã ngừng phát triển mắt bởi vì chúng không còn có ích nữa. Chuyện gì sẽ xảy ra nếu anh bắt May Welland mở mắt ra, liệu có khi nào cô chỉ có thể nhìn một cách ngây dại vào khoảng không không?

- Chúng ta có thể sống vui vẻ hơn nhiều. Chúng ta có thể hoàn toàn bên nhau… chúng ta có thể đi du lịch.

Khuôn mặt cô sáng ngời.

- Điều đó thật thú vị - cô thừa nhận: cô muốn đi du lịch. Nhưng mẹ cô sẽ không hiểu mong muốn được làm những điều khác biệt của họ.

- Dường như từ “khác biệt” không thích hợp với chuyện này! - người tán tỉnh cô khăng khăng.

- Newland! Anh thật kỳ lạ! - cô hân hoan.

Lòng anh chùng xuống, vì anh thấy mình đang nói tất cả những điều mà các chàng trai khác đều nói trong tình huống tương tự, và cô đang trả lời theo những gì được dạy bảo quen thuộc và theo một cách khéo léo ngay cả khi cô bảo anh là kỳ lạ.

- Kỳ lạ! Chúng ta đều giống nhau như những con búp bê được làm từ những tờ giấy gấp cùng loại. Chúng ta như những vật mẫu in trên tường. Anh và em không thể là chính mình sao, May?

Anh dừng lại và nhìn vào cô trong sự sôi nổi của cuộc tranh luận, và đôi mắt cô nhìn lại anh với một sự ngưỡng mộ thấy rõ.

- Trời ơi… chúng ta sẽ trốn đi à? - cô cười.

- Nếu em muốn…

- Đúng là anh rất yêu em, Newland! Em rất hạnh phúc.

- Vậy thì… sao không thể hạnh phúc hơn?

- Dù sao chúng ta không thể cư xử như những người trong tiểu thuyết, đúng không anh?

- Tại sao không? Tại sao không? Tại sao không?

Cô có vẻ hơi lo lắng trước sự khăng khăng của anh. Cô biết rõ rằng họ không thể, nhưng thật khó khăn khi đưa ra một lý do.

- Em không đủ thông minh để tranh cãi với anh. Nhưng điều đó hơi… tầm thường, đúng không anh? - Cô gợi ý, thấy nhẹ nhõm khi chạm đến một từ chắc chắn sẽ có thể kết thúc toàn bộ cuộc tranh luận.

- Vậy ra em rất sợ trở nên tầm thường?

Cô rõ ràng bị dao động bởi điều này.

- Tất nhiên là em ghét điều đó… vậy còn anh? - Cô đáp, hơi cáu kỉnh.

Anh đứng im lặng, gõ gõ cái gậy lên mũi giày ống một cách bực tức, và cảm thấy cô đã thực sự tìm được một cách đúng đắn để kết thúc cuộc tranh luận, cô vui vẻ tiếp tục:

- Ôi, em đã kể cho anh việc em khoe Ellen chiếc nhẫn chưa? Chị ấy nghĩ đó là chiếc nhẫn đẹp nhất chị ấy từng thấy. Chị ấy nói là không có cái nào giống như thế ở rue de la Paix[51]. Em yêu anh lắm, Newland, vì anh thật là có óc thẩm mỹ!

Chiều hôm sau, trước bữa tối, khi Archer ngồi buồn rầu hút thuốc trong phòng làm việc thì Janey thơ thẩn đi vào. Anh đã không ghé qua câu lạc bộ trên đường đến văn phòng nơi anh thực hành nghề luật sư trong sự nhàn hạ giống với những người New York giàu có thuộc tầng lớp của anh. Anh đang xuống tinh thần và hơi mất bình tĩnh, sự căm ghét mơ hồ việc làm những thứ giống nhau hàng ngày vào cùng một giờ bao vây đầu óc anh.

“Đơn điệu - đơn điệu!”, anh lẩm bẩm, từ này lướt qua đầu anh như một giai điệu quấy rầy khi anh thấy những nhân vật đội mũ chóp cao quen thuộc đi dạo sau tấm gương, và bởi vì anh cũng thường ghé vào câu lạc bộ vào giờ đó thay vì đi về nhà. Anh không chỉ biết trước những điều họ sẽ nói mà còn biết từng người sẽ tham gia vào câu chuyện như thế nào. Công tước dĩ nhiên sẽ là chủ đề chính, tuy nhiên sự xuất hiện ở Đại lộ Năm của một quý cô tóc vàng trong một cỗ xe độc mã màu vàng nhạt nho nhỏ với một cặp ngựa chân ngắn màu đen (mà thường được cho là của Beaufort) rõ ràng cũng sẽ được đưa vào. Những “phụ nữ” này (như họ được gọi) rất hiếm thấy ở New York, những người tự đánh xe ngựa còn ít hơn, và sự xuất hiện của Miss Fanny Ring ở Đại lộ Năm tại một giờ thích hợp đã kích thích xã hội một cách sâu sắc. Chỉ một ngày trước, khi xe ngựa của cô đã đi qua chỗ phu nhân Lovell Mingott, bà này ngay lập tức đã rung chiếc chuông nhỏ đặt bên khuỷu tay và ra lệnh cho người đánh xe đưa bà về. “Nếu chuyện này xảy ra với phu nhân Van der Luyden thì sao?”, mọi người hỏi nhau với một sự rùng mình. Archer có thể nghe Lawrence Lefferts, vào đúng lúc đó, lên tiếng bình luận về sự phân rã của xã hội.

Anh giận dữ ngẩng đầu lên khi em gái Janey bước vào, và rồi nhanh chóng cúi xuống quyển sách (Chasterlard của Swinburne[52] - vừa xuất bản) như thể anh không nhìn thấy cô. Cô liếc nhìn cái bàn làm việc chất đầy sách, mở một quyển trong bộ Contes Drolatiques[53], nhăn nhó nhìn người Pháp thời xưa, và thở dài:

- Anh đọc những thứ thật uyên bác!

- Sao…? - Anh hỏi, khi cô lởn vởn như Cassandra[54] trước anh.

- Mẹ rất giận.

- Giận à? Giận ai? Giận cái gì?

- Miss Sophy Jackson vừa ở đây. Bà ấy nói anh trai bà sẽ đến sau bữa tối. Bà ấy không thể nói nhiều, vì ông ấy không cho phép. Ông ấy muốn tự mình nói chi tiết. Hiện ông đang ở chỗ bác Louisa der van Luyden.

- Vì Chúa, em gái, nói lại rõ ràng hơn đi. Chỉ có Chúa trời thông thái mới biết em đang nói gì.

- Không phải lúc để báng bổ, anh Newland… Mẹ đã thấy đủ tệ hại khi anh không đến nhà thờ rồi…

Sau một tiếng rên rỉ, anh lại chúi đầu vào sách.

- Newland! Anh hãy nghe này. Madame Olenska bạn anh đã đến dự tiệc nhà Lemuel Struther tối qua, cô ta đi tới đó cùng Công tước và ông Beaufort.

Lời nói cuối cùng này khiến lồng ngực anh căng tràn một sự giận dữ vô thức. Để che giấu nó, anh cười:

- Ồ, thế thì sao? Anh đã biết cô ta sẽ làm thế. Janey tái mặt và đôi mắt cô bắt đầu trợn tròn lên.

- Anh đã biết cô ta sẽ làm thế và anh không cố ngăn cô ta lại? Không cố nhắc nhở cô ta?

- Dừng cô ta lại? Nhắc nhở cô ta? - Anh lại cười. - Anh không đính hôn để cưới nữ Bá tước Olenska - những lời này vang lên kỳ quái bên tai anh.

- Anh sẽ kết thông gia với gia đình họ.

- Ồ, gia đình… gia đình - anh chế nhạo.

- Newland… anh không quan tâm tới Gia đình sao?

- Không nghĩa lý gì hết.

- Cả việc bác Louisa Van der Luyden sẽ nghĩ gì?

- Không một chút nào… nếu bác ấy nghĩ những điều vớ vẩn giống một bà cô già như vậy!

- Mẹ không phải là một bà cô già. - Cô em gái chưa chồng của anh mím môi nói.

Anh muốn quát lại: “Đúng, mẹ là như thế đấy, cả nhà Van der Luyden nữa, và tất cả chúng ta nữa, khi chúng ta đối mặt với sự thực”. Nhưng vì thấy khuôn mặt thanh lịch thon dài của cô đang nhăn lại sắp khóc, anh thấy xấu hổ về nỗi đau vớ vẩn mình đang giáng xuống đầu cô.

- Nữ Bá tước Olenska chết tiệt! Đừng ngốc nghếch như thế, Janey! Anh không phải là người quản lý cô ta.

- Đúng, nhưng anh đã đề nghị nhà Welland công bố việc đính hôn sớm hơn vì thế mọi người đều ủng hộ cô ta, và nếu không vì thế thì bác Louisa đã không mời cô ta đến ăn tối với Công tước.

- Sao… mời cô ta đến đó thì có hại gì nào? Cô ta đã là người phụ nữ xinh đẹp nhất trong phòng, và đã làm bữa tiệc ít ảm đạm hơn những buổi dạ tiệc khác của nhà Van der Luyden.

- Anh biết là bác Henry đã mời cô ấy để làm vui lòng anh, bác ấy đã thuyết phục bác Louisa. Và bây giờ họ đang thất vọng đến nỗi sẽ quay lại Skuytercliff ngày mai. Newland ơi, em nghĩ là anh nên đi xuống đi. Anh có vẻ không hiểu những cảm giác của mẹ.

Newland thấy mẹ trong phòng khách. Bà ngẩng lên từ đống đồ đan lát và nhướng đôi lông mày phiền muộn hỏi:

- Janey đã nói với con chưa?

- Rồi ạ. - Anh cố giữ giọng nói đều đều như của bà. - Nhưng con không thể coi chuyện đó là nghiêm trọng.

- Không phải chuyện bác Louisa và Henry bị xúc phạm chứ?

- Chuyện họ có thể bị xúc phạm bởi một việc vặt như việc nữ Bá tước Olenska đến nhà một phụ nữ bị coi là tầm thường.

- Coi là…!

- Đúng, người bị coi như thế; nhưng lại có những bản nhạc hay, và giải trí cho mọi người vào mỗi tối Chủ nhật, khi mà toàn bộ New York đang chìm trong sự trống rỗng.

- Những bản nhạc hay à? Tất cả những gì mẹ biết là có một phụ nữ leo lên một cái bàn, và hát những thứ mà họ thường hát ở những nơi con từng đến ở Paris. Có khói thuốc và rượu.

- Ồ, chuyện đó xảy ra ở những nơi khác nữa, và thế giới vẫn tiếp diễn.

- Mẹ không cho là như vậy, con yêu, con đang thực sự biện hộ cho Chủ nhật kiểu Pháp đấy à?

- Con thường nghe mẹ càu nhàu về Chủ nhật kiểu Anh khi chúng ta ở London đủ rồi mẹ ạ.

- New York không phải là Paris hay London.

- Ồ, không, không phải! - Con trai bà lầm bầm.

- Mẹ cho là con muốn nói xã hội ở đây không phồn hoa? Mẹ dám chắc là con đúng, nhưng chúng ta thuộc về nơi này, và người khác nên tôn trọng lề thói của chúng ta khi họ đến đây. Đặc biệt là Ellen Olenska, cô ta đã phải quay trở về để tránh xa lối sống mà người ta đang theo trong những xã hội phồn hoa kia.

Newland không trả lời, và sau một lúc mẹ anh đánh liều nói:

- Mẹ đang định đội mũ nồi và nhờ con đưa đến gặp bác Louisa một lúc trước bữa tối.

Anh cau mày và bà tiếp tục:

- Mẹ nghĩ con nên giải thích cho bác ấy những gì con vừa nói, rằng cái xã hội nước ngoài kia thật khác… rằng mọi người không quá câu nệ mọi chi tiết, và Madame Olenska có lẽ không biết cảm nghĩ của chúng ta về những chuyện như vậy. Con yêu, - bà nói thêm với một sự khéo léo vô hại - nếu con quan tâm đến Madame Olenska thì hãy làm như mẹ nói.

- Mẹ yêu quý nhất của con, con thực sự không thấy chúng ta có liên quan gì tới vấn đề này. Công tước dẫn Ma- dame Olenska đến nhà bà Struthers - thực ra là ông ấy mang bà Struthers ghé thăm cô ấy. Con đã ở đó khi họ tới. Nếu nhà Van der Luyden muốn cãi cọ với ai, thì đó chính là kẻ đang ở dưới mái nhà họ.

- Cãi cọ? Newland, con đã từng thấy bác Henry cãi cọ với ai chưa? Hơn nữa, Công tước là khách của bác ấy, và cũng là người lạ. Những người lạ làm sao mà phân biệt được. Nữ Bá tước Olenska là một người New York, nên cô ấy phải tôn trọng những cảm giác của New York.

- Vậy thì, nếu họ phải có một nạn nhân, con đồng ý để mẹ ném Madame Olenska cho họ - con trai bà la lên, bực tức. - Con không thấy bản thân mình hay cả mẹ nữa, phải nộp mình để đền tội cho cô ta.

- Ôi, rõ ràng là con chỉ biết đứng về phía nhà Mingott thôi - mẹ anh trả lời, trong một giọng xúc động mà gần như là giận dữ.

Người quản gia ủ rũ kéo tấm màn treo ở phòng khách và tuyên bố:

- Ông Henry Van der Luyden.

Bà Archer buông kim đan và đẩy ghế lại với một bàn tay kích động.

- Một cái đèn khác. - Bà thét với người hầu đang đi ra, trong khi Janey cúi xuống vuốt phẳng mũ cho mẹ.

Bóng ông Van der Luyden mờ mờ hiện ra ở ngưỡng cửa, và Newland Archer đi tới chào người bác họ.

- Mọi người đang nói chuyện về bác, thưa bác - anh nói. Ông Van der Luyden có vẻ xúc động bởi lời nói đó. Ông tháo găng để bắt tay những người phụ nữ, và vuốt phẳng chiếc mũ cao một cách bẽn lẽn, trong khi Janey mang một cái ghế lại, và Archer tiếp tục:

- Và nữ Bá tước Olenska. Bà Archer tái mặt.

- À… một phụ nữ quyến rũ. Tôi vừa đến gặp cô ấy - ông Van der Luyden nói, lông mày đã giãn ra. Ông thả mình xuống ghế, đặt mũ và găng tay trên sàn bên cạnh mình theo lối cũ, và tiếp tục nói. - Cô ấy thực sự có năng khiếu trong việc sắp xếp những bông hoa. Tôi đã gửi cho cô ấy vài bông cẩm chướng từ Skuytercliff, và tôi đã ngạc nhiên. Thay vì chất chúng thành những bó lớn như những thợ làm vườn vẫn làm, cô ấy rải chúng ra xung quanh, đây đó… Tôi không thể tả được. Công tước đã nói với tôi: “Hãy đến và xem cô ấy sắp đặt phòng khách thông minh đến mức nào”. Và đúng là thế thật. Tôi thực lòng muốn đưa Louisa đến gặp cô ấy, nếu khu đó không quá tầm thường như thế.

Một sự im lặng hoàn toàn đón chào những lời kỳ lạ của ông Van der Luyden. Bà Archer kéo đồ thêu ra khỏi cái giỏ mà bà đã làm xáo trộn nó một cách lo lắng. Và Newland, dựa vào thành lò sưởi, tay đang xoắn xoắn một tấm màn bằng lông chim ruồi, thấy vẻ mặt há hốc của Janey hiện lên rõ ràng bởi chiếc đèn thứ hai đã được mang đến.

- Thực ra là - ông Van der Luyden tiếp tục, vuốt ve ống quần xám dài với bàn tay tái nhợt bị đè nặng bởi chiếc nhẫn khắc ấn chỉ lớn của Patroon[55] - thực ra là tôi ghé qua để cảm ơn cô ấy vì những dòng rất dễ thương mà cô đã viết cho tôi về những bông hoa; và cũng, nhưng tất nhiên điều này chỉ giữa chúng ta biết thôi, thân thiện báo trước cho cô ấy biết chúng tôi đồng ý để Công tước đưa cô đi dự tiệc cùng. Tôi không rõ liệu mọi người đã nghe về…

Bà Archer nở một nụ cười hòa hoãn:

- Công tước đã đưa cô ấy theo cùng đến các bữa tiệc chưa?

- Cô biết những người quý tộc Anh là như thế nào. Họ đều giống nhau. Louisa và tôi rất quý người họ hàng ấy, nhưng thật vô ích khi muốn những người vốn quen thuộc với triều đình phong kiến ở châu Âu phải bận tâm đến những khác biệt cộng hoà nho nhỏ của chúng ta. Công tước thường đến những nơi mà ông ấy cảm thấy thú vị.

Ông Van der Luyden ngừng lại, nhưng không ai nói gì.

- Đúng…, hình như ông đã dẫn cô ấy đi cùng đến nhà phu nhân Lemuel Struthers tối qua. Sillerton Jackson vừa ở chỗ chúng tôi với câu chuyện ngốc nghếch đó, và Louisa khá phiền lòng. Vì vậy tôi nghĩ cách ngắn nhất là đến thẳng nhà nữ Bá tước Olenska và giải thích cho cô ấy, bằng những dấu hiệu nhỏ nhất, rằng ở New York người ta nghĩ gì về một số việc. Tôi thấy mình phải làm thế, mà không khiếm nhã, bởi vì hôm cô ấy đến ăn cùng chúng tôi, cô ấy đã gợi ý… phần nào giúp tôi thấy rằng cô ấy cần có sự hướng dẫn. Và cô ấy đã được thế.

Ông Van der Luyden nhìn quanh phòng với vẻ tự mãn không giống những cảm xúc thông thường. Trên mặt ông hiện lên sự rộng lượng hòa nhã mà vẻ mặt bà Archer đáp lại một cách tôn kính.

- Hai người thật tốt quá, Henry thân mến! Newland sẽ rất biết ơn những gì anh đã làm vì May yêu quý và những người thân mới của nó.

Bà chiếu một cái nhìn nhắc nhở về phía con trai, và anh nói:

- Cháu hết sức biết ơn bác. Nhưng cháu chắc bác cũng quý Madame Olenska.

Ông Van der Luyden nhìn anh với vẻ cực kỳ lịch thiệp.

- Tôi chưa bao giờ mời về nhà tôi, Newland thân mến - ông nói - bất cứ ai mà tôi không thích. Và tôi cũng đã nói với Sillerton Jackson như thế.

Với một cái liếc nhìn về phía đồng hồ, ông đứng dậy và nói thêm:

- Louisa đang đợi tôi. Chúng tôi sẽ ăn tối sớm, để còn dẫn Công tước đến rạp hát.

Sau khi tấm rèm che nghiêm nghị đóng vào sau lưng vị khách, một sự im lặng đổ xuống gia đình Archer.

- Thật tử tế. Thật như trong mơ! - cuối cùng Janey thốt lên. Không ai biết chính xác điều gì đã thôi thúc cô buông ra những lời bình luận ngắn ngủn ấy, và những người thân của cô từ lâu đã không còn cố gắng giải thích chúng.

Bà Archer lắc đầu với một tiếng thở dài.

- Miễn là tất cả mọi thứ đều trở nên tốt đẹp - bà nói, với một giọng của người biết chắc chắn nó sẽ không xảy ra.

- Newland, con phải ở đây và gặp Sillerton Jackson khi ông ấy đến tối nay. Mẹ thực sự không biết phải nói gì với ông ấy.

- Mẹ tội nghiệp! Nhưng ông ấy sẽ không đến đâu… - con trai bà cười, cúi xuống hôn bà để xóa nỗi bực tức của bà.

_____________________________

Chú thích:

[27] Là những bài thơ của nhà thơ người Anh Alfred Lord Tennyson (1809-1892).

[28] Tướng John Burgoyne (1722 - 1792) của quân đội Anh đầu hàng quân đội Mỹ ở Saratoga ngày 7 tháng 10 năm 1777.

[29] Những gia đình chính trị Anh nổi tiếng.

[30] Bá tước de Grasse (1722 - 1788): Một đô đốc người Pháp, người đã chiến thắng ở Vịnh Chesapeake năm 1781 và chính thắng lợi này đã đem đến lợi thế cho Cách mạng Mỹ.

[31] Thomas Chippendale (1718 - 1779): Một nhà thiết kế đồ đạc nổi tiếng người Anh.

[32] Charles Cornwallis (1738 - 1779): Là tướng quân và thống đốc người Anh tại thuộc địa Mỹ.

[33] Thomas Gainsborough (1727 - 1788): Họa sĩ tranh chân dung và phong cảnh người Anh.

[34] Daniel Huntington (1816 - 1906): Họa sĩ người Mỹ.

[35] Alexandre Cabanel (1823 - 1889): Hoạ sĩ người Pháp.

[36] Ahasuerus và Esther là tên của vua và hoàng hậu xứ Persian trong Cuốn sách của Esther của người Do Thái. (ND)

[37] Adelina Patti (1843 - 1919): Giọng nữ cao nổi tiếng nhất thế kỷ XIX.

[38] Sonnambula (Kẻ mộng du): Vở nhạc kịch nổi tiếng của Bellini, công diễn lần đầu ở Milan năm 1831 và ở New York năm 1835.

[39] Debrett’s Peerage: Sách hướng dẫn về những quý tộc Anh xuất bản lần đầu năm 1802.

[40] Tên các loại bát đĩa bằng sành.

[41] Jean-Baptiste Isabey (1767 - 1855): Họa sĩ người Pháp, chuyên vẽ những bức chân dung tiểu họa.

[42] Diana: Nữ thần săn bắn trong thần thoại Hy Lạp, xinh đẹp, khỏe khoắn, là hiện thân của sự trong trắng. (ND)

[43] John Addington Symonds (1843 - 1894): Nhà thơ và nhà sử học người Anh.

[44] Vernon Lee: Bút danh của Violet Paget (1856 - 1935), học giả về thời kỳ Phục Hưng, như bà đã viết trong tác phẩm Euphorion. Wharton đã gặp bà ở biệt thự riêng của bà gần Florence năm 1894.

[45] Philip Gilbert Hamerton (1834 - 1894): Họa sĩ, nhà phê bình nghệ thuật và nhà văn người Anh.

[46] Walter Horatio Pater (1839 - 1894): Họa sĩ, nhà văn tiểu luận, nhà phê bình văn học người Anh. Ông viết cuốn sách Những nghiên cứu về lịch sử thời Phục Hưng năm 1873.

[47] Sandro Botticelli - tên thật Alessandro di Mariano di Vanni Filipepi (1445-1510): Họa sĩ nổi tiếng ở Florentine với bức Ngày ra đời của thần Vệ nữ vẽ năm 1485.

[48] Fra Angelico (1378 - 1455): Họa sĩ người Ý và là thành viên của Dominican Order. “The Annuciation” là một trong những bức tranh nổi tiếng nhất của ông.

[49] Samarkand: Một thành phố ở Uzbekistan. (ND)

[50] Pablo Martin Meliton Sarasate (1844 - 1908): Nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng người Tây Ban Nha.

[51] Tên một khu phố thời trang cao cấp ở Paris. (ND)

[52] Algernon Charles Swinburne (1837 - 1909): Nhà thơ người Anh.

[53] Những tác phẩm xuất bản từ năm 1832 đến năm 1837 của Honoré de Balzac (1799 - 1850).

[54] Công chúa con vua Priam và hoàng hậu Hecuba của thành Troy. Trong thần thoại Hy Lạp, vì sắc đẹp của mình cô được thần Apollo ban cho khả năng tiên tri, nhưng khi cô không đáp lại tình yêu của thần Apollo, cô đã bị thần yểm một lời nguyền rằng sẽ không có bất kỳ ai tin lời tiên tri của cô cả. (ND)

[55] Patroon: Trong tiếng Hà Lan, từ này dùng để chỉ một người điền chủ lớn có nhiều đất đai, quyền lực, là một tước hiệu đã được công nhận. Ở đây muốn nói đến chiếc nhẫn biểu thị quyền lực và sự giàu có được truyền lại của nhà Van der Luyden. (ND)