← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 12

CHƯƠNG 12

New York có truyền thống ăn tối lúc bảy giờ, và thói quen ghé thăm nhau sau bữa tối vẫn rất phổ biến mặc dù nó bị những người theo phe nhà Archer chế nhạo. Khi chàng trai đi lên Đại lộ Năm từ Waver- ley Place, con đường dài rất vắng vẻ hầu như không có ai ngoài một nhóm xe ngựa đứng trước cửa nhà Reggie Chiv- ers (nơi có một bữa tối dành cho Công tước), thỉnh thoảng lại xuất hiện bóng dáng một quý ông lớn tuổi trong chiếc áo khoác ngoài nặng nề và khăn choàng cổ leo lên bậc cửa đá nâu, rồi biến mất vào một hành lang sáng ánh đèn khí. Khi Archer băng qua quảng trường Washington, anh nhận thấy ông lão du Lac đang ghé thăm họ hàng là nhà Dag- onet, và khi rẽ xuống phố Mười Tây, anh thấy ông Skip-worth, cùng hãng luật với anh, rõ ràng đang đến thăm các Miss Lanning. Xa hơn một chút trên Đại lộ Năm, Beaufort xuất hiện trong một quầng sáng nơi bậc cửa nhà, xung quanh là bóng tối bao trùm, y đến bên cỗ xe độc mã riêng của mình, và cỗ xe lăn bánh đến một địa điểm bí ẩn mà có lẽ không nên nói đến. Đêm đó không phải là một đêm có nhạc kịch, và không ai tổ chức tiệc, vì vậy việc Beaufort đi ra ngoài rõ ràng là một chuyện bí mật. Archer nghĩ đến một ngôi nhà nhỏ mới xây phía bên kia đại lộ Lexington, nơi có những rèm cửa sổ treo ruy băng và những bồn hoa; trước cánh cửa được sơn mới, cỗ xe độc mã màu vàng nhạt của Miss Fanny Ring thường xuyên được nhìn thấy.

Phía bên kia kim tự tháp nhỏ và trơn mà bao gồm thế giới của bà Archer là khu vực gần như không được những nghệ sĩ, nhạc sĩ và “những người viết lách” đưa lên bản đồ cư trú. Bởi vì những mảnh rải rác của cuộc sống con người ở khu vực này chưa bao giờ tỏ ý muốn được hợp nhất với cấu trúc xã hội. Mặc dù có những lề thói kỳ lạ, nhưng hầu hết mọi người đều cho là họ khá đứng đắn; tuy vậy họ thích sống khép kín hơn. Medora Manson, trong những ngày hoàng kim của mình, đã khánh thành một “phòng tiếp khách văn chương”. Nhưng nó nhanh chóng biến mất bởi người ta không thực sự thích văn chương khi lui tới đó.

Những người khác cũng có những nỗ lực tương tự, trong đó có nhà Blenker - một người mẹ sôi nổi và nói nhiều cùng ba cô con gái thô kệch giống bà - nơi bạn có thể gặp Edwin Booth[58], Patti và William Winter[59], và diễn viên mới đóng kịch Shakespeare là George Rignold, cùng vài biên tập viên tạp chí và những nhà phê bình âm nhạc, văn học.

Bà Archer và nhóm người của bà cảm thấy những người này có chút rụt rè. Họ kỳ cục, họ hay thay đổi, họ che giấu cuộc sống và tâm hồn họ. Văn học và nghệ thuật vốn được phe nhà Archer cực kỳ quan tâm, và bà Archer luôn bảo con cái rằng xã hội sẽ trở nên dễ chịu và văn minh hơn nhiều khi nó có những nhân vật như Washington Irving[60], Fitz-Grene Halleck[61] và nhà thơ sáng tác Nàng tiên phạm tội (The Culprit Fay)[62]. Những tác giả nổi tiếng nhất của thế hệ này là những “quý ông”; có lẽ những người vô danh kế tiếp họ cũng có những quan điểm quý phái, nhưng nguồn gốc, ngoại hình, cũng như kiểu tóc, và sự say mê âu yếm của họ với sân khấu và nhạc kịch, khiến cho họ không thích hợp với bất cứ tiêu chuẩn của New York cũ.

- Khi mẹ còn trẻ - bà Archer thường nói - mẹ luôn biết tất cả mọi người sống giữa phố Battery và phố Canal, trong đó chỉ có vài người là có xe ngựa. Thời đó thật dễ dàng để đỗ một chiếc xe, nhưng bây giờ người ta không thể biết, và mẹ thì không muốn thử.

Chỉ có cụ bà Catherine Mingott, vốn không có thành kiến và thờ ơ với những sự khác biệt sâu sắc, có thể vượt qua ranh giới đó. Nhưng bà không bao giờ mở một quyển sách hay xem một bức tranh, và chỉ quan tâm đến âm nhạc vì nó gợi cho bà nhớ đến những đêm hội hè ở Italien, trong những ngày vinh quang tại Tulleries. Có lẽ Beaufort, đối thủ của bà về sự táo bạo, đã thành công trong việc mang đến sự hợp nhất, nhưng ngôi nhà lớn của ông ta với những gia nhân ăn mặc lịch sự là một vật cản lớn cho việc giao du thân mật. Hơn nữa, ông ta cũng dốt đặc như cụ bà Mingott, và coi “những gã viết lách” chỉ như những nhà thầu cung cấp lương thực được trả tiền để phục vụ cho thú vui của những người giàu; và không ai trong số họ đủ giàu để đưa ra ý kiến của mình về chuyện đó.

Newland Archer đã ý thức được những điều này kể từ khi anh có thể nhớ, và đã chấp nhận chúng như một phần cấu trúc thế giới của anh. Anh biết rằng có những xã hội mà các họa sĩ, các nhà thơ, các tiểu thuyết gia, những nhà khoa học, và thậm chí cả những diễn viên lớn, được săn đón như những vị Công tước. Anh thường tự hình dung sẽ ra sao nếu được sống trong không khí thân tình ở các phòng khách, nơi chỉ nói chuyện về Mérimée[63] (mà tác phẩm Lettres à une Inconnue[64] của ông không thể không được nhắc kèm), về Thackeray, Browning hay William Morris[65]. Nhưng những điều đó là không thể tưởng tượng được ở New York và không nên nghĩ đến. Archer biết hầu hết những “gã viết lách”, nhạc sĩ và họa sĩ, vì anh gặp họ ở Century, hay ở những câu lạc bộ kịch nghệ và âm nhạc nhỏ đang bắt đầu mọc lên. Anh thích gặp họ ở đó, và không thích gặp họ ở nhà Blenker, nơi họ bị lẫn vào những phụ nữ nồng nhiệt và lỗi thời, những người mà nhìn họ từ đầu đến chân như thể bắt giữ được sinh vật lạ. Thậm chí sau cuộc nói chuyện thú vị nhất của anh với Ned Winsett, Archer luôn có cảm giác rằng nếu thế giới của anh nhỏ bé, thì thế giới của họ cũng vậy, và cách duy nhất để mở rộng thêm thế giới của cả hai là đạt tới một thời kỳ mà hai thế giới có thể hòa hợp một cách tự nhiên.

Anh nhớ lại điều này bởi đang thử hình dung ra cái xã hội mà nữ Bá tước Olenska đã sống, chịu đựng, và có lẽ cũng đã hưởng những niềm vui bí mật. Anh thích thú nhớ lại cô từng kể với anh rằng bà Mingott của cô và nhà Welland đã phản đối việc cô sống trong một khu “Bohemian”[66] vốn toàn “những người viết lách”. Gia đình cô không thích họ không phải vì sự nguy hiểm mà chính vì sự nghèo khó của họ. Nhưng bóng tối của những lời phản đối đó đã rời bỏ cô, và cô cho rằng họ coi văn học như là sự hòa giải.

Bản thân cô không hề sợ nó, những quyển sách rải rác khắp trong phòng khách của cô (một phần của ngôi nhà mà sách thường xuyên được cho là “không đúng chỗ”). Mặc dù những tác phẩm trong đó chủ yếu là tiểu thuyết, nhưng chúng kích thích thị hiếu của Archer bởi những cái tên mới như sách của Paul Bourget[67], Huysmans[68], và anh em nhà Goncourt[69]. Suy nghĩ về những điều này khi tiến đến gần cánh cửa nhà cô, một lần nữa anh thấy rõ cái phương thức kỳ lạ mà cô đã làm đảo ngược những tiêu chuẩn giá trị của anh. Cô khiến anh thấy nếu anh giúp cô trong những khó khăn hiện tại thì anh cần phải nhận thức và suy ngẫm về những hoàn cảnh sống khác xa so với những gì anh đã biết.

Nastasia mở cửa, cười bí hiểm. Trên băng ghế ở phòng đợi đã để sẵn một chiếc áo khoác lông chồn, một chiếc mũ chóp cao gấp nếp bằng lụa tối màu với một dòng chữ vàng J.B trên lớp vải lót, và một chiếc khăn choàng cổ bằng lụa trắng. Rõ ràng những vật đáng giá này là tài sản của Julius Beaufort.

Archer tức giận, quá giận dữ đến nỗi anh đã viết những dòng chữ nguệch ngoạc trên tấm thiệp và bỏ đi. Rồi anh nhớ lại rằng trong dòng viết cho Madame Olenska anh đã thiếu thận trọng nên không nói rõ rằng anh muốn gặp riêng cô. Do đó anh không thể đổ lỗi cho ai ngoài chính bản thân mình nếu cô mở cửa cho bất cứ vị khách nào khác. Và anh bước vào phòng khách với quyết tâm cao để làm cho Beaufort thấy rằng ông ta là vật cản đường, và sẽ ở lại lâu hơn ông ta.

Ông chủ ngân hàng đứng dựa vào thành lò sưởi. Nó được phủ lên trên bởi một tấm vải thêu cũ kỹ và những đài nến bằng đồng thau chứa những ngọn nến nhà thờ sáp vàng đặt chặn ở bên trên. Ông ưỡn ngực, tỳ vai vào mặt lò sưởi và đứng trên một bàn chân lớn đi giày da sơn. Khi Archer bước vào, ông ta đang cười và nhìn xuống nữ chủ nhân, người đang ngồi trên chiếc sofa đặt ở góc phải lò sưởi. Một chiếc bàn chất đầy hoa tạo thành một tấm bình phong phía đằng sau nó. Chiếc bàn tựa vào những cây phong lan và cây khô họ đỗ quyên mà chàng thanh niên nhận ra là được lấy từ nhà kính của Beaufort. Madame Olenska nửa ngồi nửa nằm, một tay đỡ lấy đầu và ống tay áo rộng của cô tuột xuống tận khuỷu tay.

Thông thường, các quý bà tiếp khách vào buổi tối mặc thứ được gọi là “đầm dạ tiệc đơn giản”; một cái áo bó sát người bằng lụa sừng cá voi, hơi mở ở cổ, với diềm đăng-ten tổ ong lấp đầy những chỗ hở, và hai cánh tay áo bó chặt với một đường viền ren để mở đủ để cổ tay khoe một chiếc vòng tay vàng Etruscan hay một băng đô bằng nhung. Nhưng Ma- dame Olenska không quan tâm đến truyền thống, cô mặc một chiếc áo dài nhung đỏ, quanh cằm và trước ngực áo là lớp lông thú đen mượt. Archer nhớ lại, trong chuyến đi cuối cùng tới Paris, đã nhìn thấy một bức chân dung vẽ bởi một họa sĩ mới là Carolus Duran[70]. Ông này là người có những bức tranh gây náo động trong cuộc triển lãm tranh hằng năm. Bức tranh đó vẽ một phụ nữ mặc một trong những chiếc áo dài táo bạo tương tự như của nữ Bá tước với cái cằm nép trong lớp lông thú. Có vẻ gì đó hư hỏng và khiêu khích trong việc mặc áo lông vào buổi tối tại một căn phòng khách ấm áp, và trong việc kết hợp một cái cổ bị choàng kín với đôi cánh tay trần.

Nhưng ấn tượng rõ ràng rất thú vị.

- Chúa yêu thương chúng ta… trọn ba ngày ở Skuytercliff. - Beaufort đang nói lớn đầy giễu cợt khi Archer bước vào. - Cô nên mang tất cả bộ váy áo lông thú của mình, và một chai nước nóng.

- Tại sao? Ngôi nhà ở đó quá lạnh à? - Cô hỏi, giơ tay trái cho Archer gợi ý bí mật rằng cô muốn anh hôn nó.

- Không phải ngôi nhà, mà là bà chủ - Beaufort nói, gật đầu qua với chàng trai trẻ.

- Nhưng tôi nghĩ bà ấy rất tốt. Bà ấy đã đích thân đến để mời tôi. Bà yêu quý của tôi nói tôi chắc chắn phải đi.

- Dĩ nhiên là bà yêu quý của cô sẽ làm thế. Và tôi nói rằng thật thất vọng vì cô sẽ lỡ mất bữa tối nhẹ với món hàu mà tôi đã đặt cho cô ở Delmonico Chủ nhật tới, có Campanini và Scalchi cùng rất nhiều người thú vị.

Cô nhìn một cách nghi ngờ từ chủ nhà băng đến Archer.

- Ôi… điều đó cám dỗ tôi! Ngoại trừ buổi tối tại nhà bà Struthers kia, tôi chưa từng gặp một nghệ sĩ nào từ khi tôi ở đây.

- Dạng nghệ sĩ nào? Tôi biết một hai họa sĩ, là những anh chàng rất cừ, tôi sẽ mang họ đến gặp chị nếu chị cho phép. - Archer táo bạo nói.

- Họa sĩ? Ở New York cũng có họa sĩ à?

Beaufort nói, với giọng có ý nhấn mạnh rằng không thể có một họa sĩ nào vì ông ta không mua tranh của họ, và Ma- dame Olenska nói với Archer, với nụ cười trang nghiêm:

- Sẽ rất tuyệt. Nhưng tôi muốn nói đến những nghệ sĩ kịch nghệ, ca sĩ, diễn viên, nhạc sĩ. Nhà của chồng đã tôi luôn đầy những người đó.

Cô nói từ “chồng tôi” như thể không có mối liên hệ bất hạnh nào giữa họ và với một giọng gần như có vẻ luyến tiếc những niềm vui đã mất trong cuộc sống hôn nhân ấy. Archer nhìn cô một cách bối rối, tự hỏi liệu sự nhẹ dạ hay sự giả vờ đã giúp cô chạm vào quá khứ một cách dễ dàng như thế ngay khi cô đang phải đánh liều thanh danh của mình để phá bỏ cái quá khứ đó.

- Tôi nghĩ - cô tiếp tục, nói với cả hai người đàn ông - chính điều bất ngờ đã làm tăng thêm niềm vui của một người. Có lẽ đó là một sai lầm khi gặp những người giống nhau mỗi ngày.

- Dù sao cũng thật quá đỗi buồn tẻ, New York đang ngập chìm trong sự buồn tẻ - Beaufort càu nhàu - và khi tôi cố làm nó náo nhiệt thêm, cô lại quay lưng với tôi. Nào… hãy nghĩ kĩ hơn về chuyện này! Chủ nhật là cơ hội cuối cùng của cô, vì Campanini sẽ rời đi Baltimore và Philadelphia vào tuần tới. Tôi có một phòng riêng và một ban nhạc, họ sẽ hát suốt đêm cho tôi nghe.

- Thật tuyệt! Ông hãy để tôi suy nghĩ, và tôi sẽ viết cho ông sáng mai được không?

Cô nói nhã nhặn, tuy nhiên giọng lại ngụ ý muốn mời ông ta về. Beaufort rõ ràng cảm thấy điều đó, và không quen với việc bị đuổi, vẫn đứng nhìn cô chằm chằm với một cái nhíu mày bướng bỉnh.

- Tại sao không phải là bây giờ?

- Vấn đề ấy quá nghiêm túc để quyết định vào một giờ muộn như thế này.

- Cô gọi bây giờ là muộn ư?

Cô đáp lại cái nhìn của ông một cách lạnh lùng, - Đúng, vì tôi còn phải nói chuyện công việc với ông Archer một lúc.

- À - Beaufort cáu kỉnh.

Cô có vẻ không để ý gì đến điều đó, và với một cái nhún vai nhẹ ông đã lấy lại sự bình tĩnh, cầm tay cô, hôn với một dáng vẻ thuần thục, và nói vọng từ ngưỡng cửa:

- Nghe này, Newland, nếu cậu có thể thuyết phục nữ Bá tước ở lại thành phố thì tất nhiên cậu sẽ được mời đến bữa tối.

Rồi ông ta rời khỏi phòng với những bước đi nặng nề. Trong một lúc Archer tưởng rằng chắc là ông Letterblair đã nói với cô về việc anh đến, nhưng lời tiếp theo không thích hợp của cô khiến anh thay đổi suy nghĩ.

- Vậy anh biết những họa sĩ à? Anh sống trong xã hội của họ à? - cô hỏi, mắt chứa đầy vẻ thích thú.

- Ôi, không thực sự thế. Tôi không biết rằng nghệ thuật có một xã hội ở đây, với bất cứ loại hình nào, chúng giống như vùng ngoại ô thưa thớt hơn.

- Nhưng anh quan tâm đến những thứ đó?

- Cực kỳ. Khi ở Paris hay London tôi chưa bỏ lỡ một triển lãm nào. Tôi cố gắng để duy trì điều đó.

Cô nhìn xuống mũi chiếc giày ống sa-tanh nhỏ nhắn đang hé lộ qua những nếp váy dài.

- Tôi cũng từng quan tâm rất nhiều. Cuộc đời tôi tràn đầy những thứ như vậy. Nhưng giờ tôi không muốn tiếp tục.

- Chị không muốn tiếp tục?

- Vâng, tôi muốn vứt bỏ tất cả cuộc sống cũ, để trở nên giống với mọi người ở đây.

Archer đỏ mặt.

- Chị sẽ không bao giờ giống mọi người - anh nói. Cô hơi nhướng đôi lông mày thẳng của mình.

- Ôi, đừng nói thế. Nếu anh biết tôi ghét bị trở nên khác người như thế nào!

Khuôn mặt cô trở nên ủ rũ như một chiếc mặt nạ bi kịch. Cô cúi xuống, ôm chặt gối trong đôi tay gầy, và nhìn ra khoảng không mờ tối xa xa.

- Tôi muốn tránh xa tất cả điều đó - cô khăng khăng.

Anh đợi một lúc và nói tiếp.

- Tôi biết. Ông Letterblair đã kể cho tôi.

- Hả?

- Đó là lý do tôi đến đây. Ông ấy đã đề nghị tôi… chị biết đấy, tôi ở trong hãng luật của ông ấy.

Cô có vẻ hơi ngạc nhiên, và rồi đôi mắt cô sáng lên.

- Ý anh là anh có thể giải quyết việc này cho tôi? Tôi có thể nói chuyện với anh thay vì ông Letterblair? Ôi, thế thì sẽ dễ dàng hơn nhiều.

Giọng nói của cô làm anh xúc động, và sự tự tin của anh tăng dần với sự tự mãn. Anh hiểu rằng cô nói về công việc với Beaufort chỉ đơn giản là để thoát khỏi ông ta, và đã thành công khi đuổi được Beaufort về.

- Tôi đến đây để nói về chuyện đó - anh nhắc lại.

Cô ngồi im lặng, đầu vẫn đặt trên cánh tay đang dựa trên lưng ghế sofa. Khuôn mặt cô xanh xao và mờ nhạt, như thể bị lu mờ bởi màu đỏ rực rỡ của bộ váy. Đột nhiên Archer cảm thấy cô như một nhân vật tội nghiệp và thậm chí đáng thương.

“Giờ chúng ta đang tiến đến những vấn đề khó khăn rồi đây”, anh nghĩ, tự ý thức về sự chùn bước theo bản năng mà anh vẫn thường chỉ trích mẹ và những người đương thời với bà. Anh đã luyện tập quá ít trong việc giải quyết những tình huống bất thường! Những từ ngữ chính của chúng không hề quen thuộc với anh, mà có vẻ thuộc về tiểu thuyết và sân khấu. Đối mặt với những điều sắp đến anh cảm thấy vụng về và bối rối như một cậu bé.

Sau một lúc ngừng lại, phu nhân Olenska bất ngờ thốt lên mạnh mẽ:

- Tôi muốn tự do. Tôi muốn xóa sạch quá khứ.

- Tôi hiểu điều đó. Khuôn mặt cô ấm áp.

- Vậy anh sẽ giúp tôi chứ?

- Trước hết - anh do dự - có lẽ tôi nên biết thêm một chút nữa.

Cô có vẻ ngạc nhiên.

- Anh muốn biết về chồng tôi… về cuộc sống của tôi với ông ta?

Anh ra hiệu đồng ý.

- Ồ… thì… có gì hơn nữa nào? Trong đất nước này những thứ như vậy có được tha thứ? Tôi là một người theo đạo Tin Lành… nhà thờ của chúng ta không cấm ly dị trong những trường hợp như thế này.

- Chắc chắn là không.

Họ lại im lặng, và Archer cảm thấy bóng ma lá thư của Bá tước Olenski đang nhăn nhó một cách gớm ghiếc giữa họ. Lá thư chỉ vẻn vẹn nửa trang giấy và anh đã mô tả khi nói về nó cho ông Letterblair là: đó chỉ là sự buộc tội mơ hồ của một kẻ đê tiện đang tức giận. Nhưng đằng sau nó, sự thật chiếm bao nhiêu? Chỉ có vợ của Bá tước Olenski mới có thể trả lời.

- Tôi đã xem qua đống giấy tờ mà chị gửi cho ông Letter-blair - cuối cùng anh nói.

- Vậy có gì tệ hơn nữa không?

- Không.

Cô thay đổi vị trí một cách nhẹ nhàng, đưa tay lên che giấu đôi mắt.

- Tất nhiên chị biết - Archer tiếp tục - rằng nếu chồng chị chọn cách đấu tranh với vụ này, như ông ta đe doạ…

- Thì sao?

- Ông ta có thể nói những điều… những điều mà có thể kh… có thể không vừa ý với chị: nói một cách công khai, vì vậy chúng sẽ lan truyền đi, và làm hại chị, thậm chí nếu…

- Nếu sao?

- Ý tôi là dù chúng không có căn cứ đi chăng nữa.

Cô ngừng lại một lúc lâu, lâu đến nỗi, không muốn để mắt đến khuôn mặt u tối của cô, anh dành thời gian để ghi sâu trong óc hình dáng chính xác của bàn tay đang đặt trên đầu gối của cô, và mọi chi tiết của ba chiếc nhẫn trên ngón áp út và ngón út. Trong số chúng, anh nhận thấy, chiếc nhẫn cưới không có mặt.

- Sự kết tội đó có hại gì cho tôi ở đây, thậm chí nếu ông ta công khai chúng?

Anh muốn thốt lên: “Cô bé tội nghiệp… có hại hơn ở bất cứ đâu!”, nhưng thay vào đó, anh lại trả lời trong một giọng nghe như của ông Letterblair:

- Xã hội New York là một thế giới rất nhỏ bé so với những nơi cô từng sống. Và bất chấp vẻ bề ngoài tự do của nó, nó được thống trị bởi một số ít người với…, ừm, những quan niệm khá cổ hủ.

Cô không nói gì và anh tiếp tục:

- Quan niệm của chúng tôi về hôn nhân và ly hôn là đặc biệt cổ hủ. Pháp luật cho phép ly hôn, nhưng những phong tục xã hội thì không.

- Không bao giờ ư?

- Đúng, nếu người phụ nữ, dù bị tổn thương và không có gì để chê trách, có những biểu hiện bên ngoài không thích hợp và do những hành động trái với lẽ thường đã tự đặt mình vào… vào những lời bóng gió chướng tai gai mắt…

Cô gục đầu xuống thấp hơn một chút và anh lại đợi. Anh rất mong sẽ có một sự căm phẫn bùng lên, hay ít nhất là một tiếng kêu phản đối. Nhưng không có gì xảy ra.

Một chiếc đồng hồ du lịch nhỏ kêu “grừ-grừ” dưới khu- ỷu tay cô, một khúc gỗ gãy làm đôi bắn ra những hàng tia lửa. Toàn bộ căn phòng im ắng và ủ ê dường như cũng đang yên lặng chờ đợi như Archer.

- Vâng - cuối cùng cô lẩm bẩm - đó là những gì gia đình tôi bảo tôi.

Anh hơi cau mày.

- Điều đó không tự nhiên…

- Gia đình chúng ta - cô tự sửa lại và Archer đỏ mặt - vì anh sắp là họ hàng với tôi - cô nhẹ nhàng tiếp tục.

- Tôi hy vọng thế.

- Và anh giữ quan điểm của họ?

Anh đứng lên vì nghe câu này, đi loanh quanh căn phòng, nhìn với cặp mắt trống rỗng vào một trong những bức tranh trên tấm lụa Đa-mát cũ màu đỏ, và do dự quay lại bên cô. Anh có thể nói gì? “Đúng, nếu những lời bóng gió của chồng chị là đúng hoặc nếu chị không có cách nào bác bỏ nó”.

- Một cách thành thật… - cô bỗng xen vào, khi anh định nói.

Anh nhìn vào lò sưởi.

- Thành thật mà nói… chị sẽ thu được gì để bù đắp cho khả năng… điều chắc chắn… nhận được nhiều tin đồn xấu?

- Nhưng tự do của tôi… không là gì cả sao?

Ngay lập tức anh lóe lên ý nghĩ rằng sự buộc tội trong lá thư là đúng và rằng cô muốn được kết hôn với người đồng phạm với cô. Làm thế nào anh có thể nói với cô rằng, nếu cô thực sự nuôi dưỡng kế hoạch đó, luật pháp của Bang sẽ phản đối không thương tiếc? Chỉ sự nghi ngờ trong đầu cũng đủ khiến anh cảm thấy cô thật nhẫn tâm và thiếu kiên nhẫn.

- Nhưng chẳng phải chị tự do như không khí sao? - anh đáp lại - Ai có thể chạm vào chị? Ông Letterblair nói với tôi rằng vấn đề tài chính đã được giải quyết…

- Ồ, đúng - cô thờ ơ nói.

- Vậy thì, nó có đáng để đánh liều với thứ gây ra bất đồng và đau lòng vô hạn hay không? Hãy nghĩ về những bài báo… Sự hèn hạ của chúng! Tất cả đều ngốc nghếch, hẹp hòi và bất công… nhưng một người không thể cải tạo xã hội.

- Đúng - cô thừa nhận, giọng nói của cô yếu ớt và phiền não đến nỗi anh đột nhiên thấy hối hận về những ý nghĩ hà khắc của mình.

- Một cá nhân, trong những trường hợp này, gần như luôn phải hi sinh cho thứ được coi là lợi ích tập thể. Người ta bám lấy bất kỳ sự thỏa thuận ngầm nào để giữ gia đình bên nhau… bảo vệ lũ trẻ, nếu họ có con - anh nói dông dài, thốt ra bất cứ cụm từ sẵn có nào dâng lên môi trong khát vọng mãnh liệt che đậy sự thật đáng sợ mà sự im lặng của cô dường như đã phơi trần ra. Vì cô không nói hay không thể nói một lời để có thể xua tan không khí nặng nề, anh mong rằng không để cô cảm thấy là anh đang cố thăm dò bí mật của cô. Tốt nhất là cứ giữ lấy bề mặt, theo cách thận trọng của New York truyền thống, còn hơn là liều lĩnh mở ra một vết thương mà anh không thể hàn gắn.

- Công việc của tôi, chị biết đấy - anh tiếp tục - là giúp chị hiểu được những điều này như những người quá yêu quý chị đã hiểu rõ. Nhà Mingott, nhà Welland, nhà Van der Luyden, tất cả bạn bè và người thân của chị, nếu tôi không thành thật chỉ cho chị rõ họ đánh giá việc này như thế nào, thì chẳng phải là tôi không công bằng hay sao? - anh nhấn mạnh, gần như nài xin cô trong sự tha thiết của mình để che đậy sự im lặng buồn tẻ.

Cô nói chậm chạp:

- Không, nó không công bằng.

Ngọn lửa lụi tắt thành một màu xám, và một trong những cái đèn kêu lên ùng ục thu hút sự chú ý. Madame Olenska đứng dậy, vặn bấc chiếc đèn, và quay lại bên lò sưởi, nhưng không ngồi lại chỗ cũ.

Cô vẫn đứng, dường như có ý rằng cả hai không còn gì hơn để nói, và Archer cũng đứng dậy.

- Được rồi, tôi sẽ làm theo anh muốn - cô nói cộc lốc. Trán anh nóng bừng; và ngạc nhiên bởi sự đầu hàng đột ngột của cô, anh vụng về nắm lấy hai tay cô.

- Tôi… Tôi thực sự muốn giúp chị - anh nói.

- Anh đang giúp tôi. Chúc ngủ ngon, em họ.

Anh cúi người và đặt môi lên đôi bàn tay giá lạnh và thiếu sức sống của cô. Cô kéo tay ra, anh quay ra cửa, tìm thấy áo khoác và mũ dưới ánh đèn khí nhợt nhạt ở phòng đợi, rồi lao ra ngoài đêm đông. Môi anh thốt lên những lời muộn màng, những điều không thể nói.