← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 15

CHƯƠNG 15

Newland Archer đến nhà Chivers vào tối thứ Sáu và đến tối thứ Bảy tất cả nghi lễ thích hợp với một kỳ nghỉ cuối tuần ở Highbank đã tỉ mỉ trôi qua.

Vào buổi sáng, anh có một cuộc đi dạo bằng thuyền chạy trên băng với nữ chủ nhân và vài vị khách khó chịu hơn. Vào buổi chiều, anh ghé qua nông trại với Reggie, và trong những chuồng ngựa được trang bị tỉ mỉ, anh lắng nghe những bản nghiên cứu ấn tượng và dài dòng về ngựa. Sau bữa trà anh nói chuyện trong một góc hành lang sáng ánh lò sưởi với một phụ nữ trẻ, người tự cho là mình tan nát trái tim khi cuộc đính hôn của anh được công bố, nhưng giờ thì háo hức kể cho anh nghe về những hy vọng hôn nhân của cô. Và cuối cùng, khoảng nửa đêm, anh giúp đặt một con cá vàng lên giường ngủ của một vị khách, cải trang thành một tên trộm trong phòng tắm của một bà dì hay hoảng sợ và tham gia trong vài giờ vào một vụ ném nhau bằng gối trải khắp từ phòng trẻ đến tầng hầm. Nhưng vào Chủ nhật sau bữa trưa anh mượn một chiếc thuyền một cột buồm và lái đến Skuytercliff.

Mọi người luôn được bảo rằng ngôi nhà ở Skuytercliff là một biệt thự kiểu Ý. Những người chưa từng đến Ý thì tin vào điều đó, vài người từng đến đó rồi cũng nghĩ vậy. Ngôi nhà được ông Van der Luyden xây khi còn trẻ, sau khi trở về từ “chuyến đi lớn” và trong sự mong đợi của đám cưới sắp tới với nàng Louisa Dagonet. Đó là một ngôi nhà có cấu trúc hình vuông lớn bằng gỗ, những bức tường có rãnh và có hình lưỡi được sơn màu trắng và xanh nhạt, một cổng xây kiểu Corinthian[73], và trụ bổ tường có rãnh máng giữa các cửa sổ. Từ cái sân cao trên đó có một dãy nhà bao quanh bởi hàng lan can và những cái lư, dốc dần xuống theo một kiểu khắc trên thép về phía một cái hồ nhỏ với một bờ rải nhựa đường được che phủ bởi những cây tùng bách rủ những cành hiếm hoi xuống. Phía bên phải và bên trái là những bãi cỏ nổi tiếng không có cỏ dại có những cây “mẫu” (mỗi cây thuộc nhiều loại khác nhau) trải khắp ra xa đến tận bãi cỏ dài được trang trí bởi những đồ bằng gang được tạo hình một cách tỉ mỉ. Bên dưới, trong một khoảng trống, là ngôi nhà bằng đá bốn phòng mà người Điền chủ đầu tiên đã xây trên mảnh đất được ban cho ông năm 1612.

Đối lập với thảm tuyết một màu và bầu trời mùa đông hơi xam xám, ngôi biệt thự kiểu Ý hiện ra khá ảm đạm, thậm chí trong mùa hè nó vẫn giữ khoảng cách của mình, và mảnh vườn trơ trụi chưa bao giờ mạo hiểm đến gần hơn mét chín tính từ mặt tiền uy nghiêm của ngôi biệt thự. Giờ đây, Archer nhấn chuông, tiếng leng keng kéo dài dường như ngân vang qua một lăng mộ, và sự ngạc nhiên của người quản gia, người mà cuối cùng cũng trả lời cuộc gọi, nhiều như thể ông ta đã bị phá mất giấc ngủ cuối cùng.

May mắn Archer là người trong gia đình, do đó dù sự xuất hiện của anh là không bình thường, anh vẫn được thông báo rằng nữ Bá tước Olenska đã ra ngoài, cô đã đến buổi lễ chiều cùng bà Van der Luyden chính xác là bốn mươi lăm phút trước.

- Ông Van der Luyden - người quản gia tiếp tục - có ở nhà thưa ông, nhưng tôi có cảm giác rằng ông ấy đang ngủ trưa hay cũng có thể đang đọc tờ Evening Post của ngày hôm qua. Tôi đã nghe ông ấy nói, thưa ông, trong chuyến đi từ nhà thờ về sáng nay, rằng ông ấy định xem qua tờ Evening Post sau bữa trưa. Nếu ông muốn, thưa ông, tôi có thể tới cửa thư viện và nghe ngóng…

Nhưng Archer đã cảm ơn ông ta, nói rằng anh sẽ đi tìm gặp các bà và người quản gia, rõ ràng thấy nhẹ nhõm, đóng cửa một cách đường bệ.

Một người giữ ngựa đưa chiếc thuyền một cột buồm vào buộc lại chắc chắn, Archer đi xuyên qua công viên đến đường cái. Ngôi làng Skuytercliff chỉ cách hơn hai ki-lô-mét, nhưng anh biết rằng bà Van der Luyden không bao giờ đi bộ, và anh phải đi trên đường để gặp cỗ xe ngựa. Tuy nhiên, ngay sau khi đi xuống một đường nhỏ ngang qua đường lớn, anh thấy một bóng người mờ nhạt trong chiếc áo choàng không tay màu đỏ, với một con chó to chạy trước. Anh vội tiến đến và Madame Olenska đột nhiên dừng lại với một nụ cười chào đón:

- A, anh đã tới! - cô nói, và tháo găng tay ra.

Chiếc áo choàng không tay màu đỏ khiến cô trông rực rỡ và đầy sức sống, như Ellen Mingott của những ngày xa xưa. Anh cười khi cầm lấy tay cô và trả lời:

- Tôi đến để xem chị đang chạy trốn khỏi cái gì. Khuôn mặt cô sầm lại, nhưng cô vẫn trả lời:

- À, thì anh sẽ biết ngay thôi. Câu trả lời làm anh bối rối.

- Sao thế? Ý chị là chị đã bị đuổi kịp ư?

Cô nhún vai, với một cử động nhẹ như của Nastasia và đáp trong một giọng nhẹ nhàng hơn:

- Chúng ta đi tiếp chứ? Tôi thấy quá lạnh sau bài thuyết giáo. Và nó có ý nghĩa gì nào, khi mà giờ anh đã ở đây để bảo vệ tôi?

Anh nóng bừng mặt và nắm lấy một nếp gấp trên áo choàng của cô.

- Ellen, đó là chuyện gì vậy? Chị phải nói với tôi.

- Ồ, ngay bây giờ, hãy chạy trên đường đua trước: chân tôi đang đông cứng xuống mặt đất rồi - cô nói lớn; và nhấc cái áo choàng lên, cô chạy băng qua mặt tuyết, con chó nhảy theo cô với tiếng sủa thách thức. Archer đứng nhìn một lúc, ánh mắt vui thích bởi vẻ lấp lánh của một ngôi sao băng đỏ trên mặt tuyết; rồi anh bắt đầu chạy theo cô, và họ gặp nhau, thở hổn hển và cười, tại một cổng nhỏ dẫn vào công viên.

Cô nhìn lên anh và mỉm cười.

- Tôi đã biết là anh sẽ đến!

- Chứng tỏ là chị muốn tôi đến - anh đáp trả, với một niềm vui không thích hợp trong những lời nói vô nghĩa của họ. Vẻ lấp lánh tinh khôi của đám cây làm không khí tràn đầy vẻ sáng ngời bí ẩn, và khi họ đi trên tuyết, mặt đất có vẻ như đang hát dưới chân họ.

- Anh đã đến từ đâu vậy? - Madame Olenska hỏi. Anh trả lời cô, và thêm vào:

- Bởi vì tôi đã nhận được thư của chị.

Sau một lúc ngừng lại, cô nói, với một sự lạnh nhạt có thể nhận thấy trong giọng nói:

- May bảo anh đến chăm sóc cho tôi phải không?

- Tôi không cần ai bảo cả.

- Ý anh là… rõ ràng tôi không có ai giúp đỡ và không thể tự bảo vệ mình? Chắc anh nghĩ tôi thật tội nghiệp! Nhưng những phụ nữ ở đây thì có vẻ không… có vẻ không bao giờ cảm thấy nhu cầu đó: không gì hơn là hạnh phúc trên thiên đường.

Anh hạ thấp giọng để hỏi:

- Phần nào của một nhu cầu?

- Ôi, đừng hỏi tôi! Tôi không nói thứ ngôn ngữ của anh - cô đáp lại hờn dỗi.

Câu trả lời đập mạnh vào anh như một cú đánh, và anh đứng yên trên đường, cúi xuống nhìn cô.

- Tôi đến đây làm gì, nếu tôi không nói thứ tiếng của chị?

- Ôi, bạn của tôi! - Cô đặt tay nhẹ nhàng lên cánh tay anh, anh nài nỉ tha thiết.

- Ellen, sao chị không nói với tôi chuyện gì đã xảy ra? Cô nhún vai lần nữa.

- Có chuyện gì từng xảy ra trên thiên đường không? Anh im lặng, họ bước đi vài mét mà không trao đổi với nhau lời nào. Cuối cùng, cô nói:

- Tôi sẽ kể cho anh… nhưng ở đâu? Ở đâu? Ở đâu? Người ta không thể ở một mình phút nào trong ngôi nhà trường đạo lớn ấy, với các cánh cửa đều mở rộng, và luôn có một người phục vụ mang trà tới, hay mang củi đến lò sưởi, hay mang báo! Không có ngôi nhà nào tại Mỹ mà người ta có thể ở một mình sao? Anh quá nhút nhát, tuy nhiên anh lại luôn phải xuất hiện trước đám đông. Tôi luôn cảm thấy như thể tôi lại ở trong một tu viện nữ… hay trên sân khấu, trước một khán giả lịch sự đến khó chịu vì không bao giờ vỗ tay.

- Chà, cô không thích chúng tôi! - Archer thốt lên.

Họ đang đi qua ngôi nhà của người điền chủ cũ, với những bức tường thấp và những cửa sổ vuông nhỏ chen chúc nhau nhóm quanh một ống khói trung tâm. Những cánh cửa chớp mở rộng, và qua một trong những cánh cửa sổ mới được lau, Archer thấy có ánh lửa.

- Tại sao… ngôi nhà mở cửa! - Anh nói. Cô đứng yên.

- Không, ít ra chỉ cho hôm nay thôi. Tôi muốn thấy nó, và ông Van der Luyden đã nhóm lửa và mở cửa sổ, vì thế chúng tôi có thể dừng lại đó trên đường từ nhà thờ về sáng nay - cô chạy lên những bậc thang và thử mở cánh cửa - Nó vẫn không khóa, may quá! Chúng ta hãy vào và nói chuyện kín đáo với nhau. Bà Van der Luyden đã đi gặp những người cô già cả ở Rhinebeck và chúng ta sẽ không thể ở trong ngôi nhà này quá một giờ.

Anh theo cô đi vào hành lang hẹp. Tinh thần anh, vốn đã giảm xuống, khi nghe những lời cuối cùng của cô, đã tăng lên với một cú nhảy vọt không tưởng. Căn nhà nhỏ giản dị đứng đó, những tấm pa-nô và đồ đồng sáng lóa trong ánh lửa, như thể được tạo ra một cách ma thuật để đón họ. Một đống than hồng lớn vẫn lập lòe trong lò sưởi nhà bếp, dưới cái nồi sắt được treo trên một cái trục cổ. Những chiếc ghế bành mặt cói quay vào nhau hai bên nền lò sưởi lát gạch. Archer dừng lại và ném một khúc gỗ lên đống than hồng.

Madame Olenska, bỏ áo choàng, ngồi xuống một trong những chiếc ghế, Archer dựa vào lò sưởi và nhìn cô.

- Giờ thì chị đang cười, nhưng khi chị viết cho tôi chị lại đang không vui - anh nói.

- Đúng vậy. - Cô ngừng lại. - Nhưng tôi không thể cảm thấy không vui khi có anh ở đây.

- Tôi sẽ không ở đây lâu - anh đáp, môi anh cứng lại với cố gắng để nói nhiều và không hơn.

- Không. Tôi biết. Nhưng tôi không biết lo xa: tôi chỉ sống trong khoảnh khắc khi mà tôi vui vẻ.

Những lời này lướt qua anh như một sự quyến rũ, và đến gần những giác quan của anh, anh rời khỏi lò sưởi và đứng nhìn ra những thân cây đen trên nền tuyết. Nhưng như thể cô đã thay đổi vị trí, anh vẫn nhìn thấy cô, giữa anh và những cái cây, ủ rũ bên lò sưởi với một nụ cười biếng nhác. Trái tim Archer đập loạn xạ. Sẽ ra sao nếu cô đã bỏ đi vì anh, và sẽ như thế nào nếu cô đã chờ cho đến khi họ ở đây một mình bên nhau trong căn phòng bí mật này để kể cho anh điều đó?

- Ellen, nếu tôi thực sự có thể giúp chị - nếu chị thực lòng muốn tôi đến - hãy kể cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra, nói cho tôi chị đang chạy trốn khỏi cái gì - anh khăng khăng.

Anh nói mà không thay đổi vị trí, thậm chí không quay lại nhìn cô: nếu điều đó xảy ra, nó xảy ra theo cách này, với toàn bộ chiều rộng căn phòng giữa họ, và đôi mắt anh vẫn gắn chặt trên tuyết ngoài xa.

Trong một lúc lâu cô im lặng, và trong khoảnh khắc đó Archer tưởng tượng ra cô, gần như là nghe thấy cô, lén đến sau anh để vòng đôi tay mảnh mai quanh cổ anh. Trong khi anh chờ đợi, tâm hồn và cơ thể đập rộn ràng với điều kỳ diệu sắp đến, thì đôi mắt anh máy móc nhận thấy hình ảnh của một người đàn ông mặc áo khoác nặng nề với chiếc cổ áo lông dựng lên đang tiến dọc theo con đường đến ngôi nhà. Người đó là Julius Beaufort.

- Ái chà! - Archer thét lên, bật cười lớn.

Madame Olenska đứng bật dậy và đến cạnh anh, cầm lấy tay anh, nhưng sau một cái nhìn qua cửa sổ khuôn mặt cô tái đi và cô lùi lại.

- Vậy là điều đó à? - Archer nói chế giễu.

- Tôi không biết ông ta ở đây - Madame Olenska lẩm bẩm. Tay cô vẫn bám lấy tay Archer, nhưng anh giật ra khỏi cô và đi ra hành lang mở toang cánh cửa của ngôi nhà.

- Chào Beaufort… lối này! Madame Olenska đang đợi ông - anh nói.

Trong hành trình trở lại New York vào sáng hôm sau, Archer mệt nhọc hồi tưởng lại một cách sống động những khoảnh khắc cuối cùng ở Skuytercliff.

Beaufort, dù rõ ràng thấy phiền khi nhận ra anh với Ma- dame Olenska, nhưng như thường lệ, đã chấp nhận tình huống một cách ngạo mạn. Cái kiểu ông ta lờ đi sự có mặt của người gây phiền phức cho ông thực sự khiến cho họ, nếu họ nhạy cảm với nó, một cảm giác vô hình như mình không tồn tại. Khi ba người đi dạo qua công viên, Archer nhận thấy cảm giác kỳ cục này và vì điều đó hạ thấp lòng kiêu ngạo của anh nên anh có thể lén quan sát một cách thuận lợi.

Beaufort đã đi vào ngôi nhà nhỏ với sự tự tin thoải mái thường thấy nhưng ông không thể cười để xua tan cái nhíu mày. Khá rõ ràng là Madame Olenska không biết ông sẽ đến, những lời cô nói với Archer đã gợi ý khả năng ấy. Hiển nhiên là cô đã không nói cho ông ta hay cô sẽ đi đâu khi rời New York, và sự ra đi không lời giải thích của cô đã làm ông ta cáu giận. Lý do bề ngoài cho sự xuất hiện của ông ta là ngay đêm hôm trước, ông ta đã tìm thấy một “ngôi nhà nhỏ hoàn hảo” thực sự dành cho cô, không phải đang rao bán nhưng có thể bị lấy mất ngay lập tức nếu cô không giữ lấy nó. Ông to tiếng trách mắng cô vì cô đã bỏ đi ngay khi ông tìm thấy nó.

- Giá mà việc gọi điện mới mẻ này hoàn hảo hơn một chút, thì tôi đã có thể kể cho cô nghe mọi chuyện từ thành phố, và giờ này lẽ ra những ngón chân tôi đang được sưởi ấm trước lò sưởi ở câu lạc bộ, thay vì phải cuốc bộ đi theo cô qua tuyết. - ông lầm bầm, che giấu một nỗi giận dữ thật sự bên dưới vẻ giả bộ bực mình.

Và đến đấy, Madame Olenska đã xoay câu chuyện sang một khả năng tuyệt vời là một ngày nào đó, họ có thể thực sự chuyện trò với nhau từ đường phố này sang đường phố khác, hay thậm chí - một giấc mơ lạ thường! - từ thành phố này đến thành phố kia. Điều này làm cho cả ba người liên tưởng đến Edgar Poe và Jules Verne, nó giống như những điều vô lý tự nhiên phát ra trên môi của những người thông minh nhất khi đang nói chuyện vượt thời gian, và thực hiện một phát minh mới điều mà có vẻ ngây thơ nếu tin vào nó quá sớm. Và vấn đề điện thoại đã mang họ trở lại ngôi nhà lớn an toàn.

Bà Van der Luyden chưa trở về, Archer cáo từ và đi tìm chiếc thuyền một cột buồm, trong khi Beaufort theo nữ Bá tước Olenska vào nhà. Có thể, nhà Van der Luyden ít khuyến khích những cuộc viếng thăm không báo trước, nhưng ông có thể hy vọng được mời ăn tối và quay lại nhà ga để kịp bắt chuyến tàu chín giờ. Hơn thế, chắc chắn ông ta sẽ không thể ở lại, vì những vị chủ nhà có thể thấy thật kỳ lạ khi một quý ông không mang theo hành lý muốn trải qua đêm ở đó, và họ sẽ thấy khó chịu khi đề nghị điều đó với một người có mối quan hệ giới hạn như Beaufort.

Beaufort đã biết tất cả và phải thấy trước được những chuyện này, việc ông đi một hành trình dài như thế để nhận chút ân huệ quá nhỏ đã cho thấy được sự thiếu kiên nhẫn của ông. Rõ ràng là ông đang theo đuổi nữ Bá tước Olenska, theo quan điểm của Beaufort, ông chỉ có một mục tiêu khi theo đuổi những người phụ nữ đẹp. Ngôi nhà ảm đạm và thiếu vắng trẻ con từ lâu đã làm ông chán ngấy. Và ngoài những niềm an ủi lâu dài hơn, ông luôn luôn tìm kiếm những cuộc phiêu lưu tình ái trong tầng lớp của ông. Đó là người đàn ông mà Madame Olenska đang chạy trốn một cách công khai. Vấn đề là liệu cô bỏ trốn vì sự quấy rầy của ông làm cô khó chịu hay vì cô không hoàn toàn tin mình có thể chống lại chúng; trừ phi, tất cả những gì cô nói về sự bỏ chạy của mình là thật, nếu không thì việc ra đi của cô không hơn gì một kế hoạch đã sắp đặt một cách khéo léo.

Archer không thực sự tin điều này. Ngay khi anh nhìn thấy Madame Olenska, anh đã có thể đoán được qua nét mặt cô, và nếu không phải nét mặt thì là giọng nói của cô, cả hai đều biểu lộ sự phiền muộn, thậm chí là mất hết tinh thần, khi Beaufort đột ngột xuất hiện. Nhưng, xét cho cùng, liệu có tồi tệ hơn không nếu cô rời New York với mục đích chính là gặp ông ta? Nếu làm thế, cô sẽ trở thành một đối tượng gây chú ý, số phận cô sẽ là một kẻ lừa dối tầm thường nhất: một phụ nữ dính vào chuyện tình với Beaufort đã tự “phân loại” bản thân vào vị thế không thể cứu vãn.

Không, nó còn tệ hơn nghìn lần nếu sau khi đánh giá Beaufort và có lẽ còn coi thường ông ta, cô vẫn bị cuốn hút vào ông bởi tất cả những thứ đã cho ông lợi thế hơn những người đàn ông khác xung quanh cô: thói quen của ông từ hai lục địa và hai xã hội, mối liên hệ quen thuộc với những nghệ sĩ, diễn viên, những người tầm thường trong con mắt của giới thượng lưu, và sự coi khinh thờ ơ của ông ta với những định kiến của thành phố này. Beaufort là người thô tục, ông ta không có giáo dục, hợm hĩnh. Nhưng những hoàn cảnh của cuộc đời ông, và một sự khôn ngoan bẩm sinh nào đó, khiến ông ta đáng để nói chuyện cùng hơn nhiều người đàn ông khác, những người hơn ông về mặt đạo đức và địa vị xã hội, mà tầm nhìn của họ bị giới hạn bởi Battery và công viên Trung tâm. Bất cứ ai đến từ một thế giới rộng lớn hơn không thể không cảm thấy sự khác biệt đó và bị thu hút bởi nó.

Madame Olenska, trong một lúc tức giận, đã nói với Archer rằng anh và cô không nói chung một ngôn ngữ; và chàng trai hiểu rằng trong vài khía cạnh điều này là đúng. Thế mà Beaufort hiểu mọi ngôn ngữ của cô, và nói một cách trôi chảy: quan điểm về cuộc sống của ông ta, giọng nói, thái độ, là một sự phản ánh thô lỗ hơn cả những thứ được viết trong thư của Bá tước Olenski. Điều này có thể là bất lợi của ông trước vợ của Bá tước Olenski, nhưng Archer quá thông minh đến nỗi không thể nghĩ rằng một phụ nữ trẻ như Ellen Olenska lại cần phải lùi bước trước những thứ gợi cho cô nhớ về quá khứ của mình. Cô có thể cho rằng mình hoàn toàn ghê tởm nó, nhưng thứ gì đã hấp dẫn cô thì sẽ vẫn quyến rũ cô, dù nó chống lại ý muốn của cô.

Do đó, với một sự công bằng đau lòng, chàng trai trẻ đã bào chữa cho trường hợp của Beaufort và nạn nhân của Beaufort. Trong anh, niềm khao khát được giải thoát cho cô rất mạnh mẽ; có những khoảnh khắc anh đã tưởng rằng tất cả những gì cô muốn là sự giải thoát.

Tối đó anh mở những quyển sách được gửi tới từ London. Chiếc hộp chứa đầy những thứ anh đã nôn nóng chờ đợi, một cuốn sách mới của Herbert Spencer[74], tuyển tập những câu chuyện lỗi lạc khác trong nhiều tác phẩm của Alphonse Daudet[75], và một cuốn tiểu thuyết tên Middlemarrch[76], vì gần đây có những điều đáng quan tâm được đề cập trong những bài phê bình về chúng. Anh đã từ chối ba lời mời ăn tối vì “bữa tiệc” này; nhưng dù anh giở những trang sách với niềm vui của người yêu sách, anh không biết mình đang đọc cái gì, và hết quyển này đến quyển khác rơi khỏi tay anh. Đột nhiên, ở giữa chúng, anh bắt gặp một quyển thơ nhỏ được anh đặt mua vì cái tên đã thu hút anh: Ngôi nhà cuộc sống[77]. Anh nhặt nó lên, và thấy mình chìm vào trong một không khí không giống những gì anh đã cảm thấy ở những quyển sách khác, quá ấm áp, quá phong phú, tuy nhiên lại nhẹ nhàng không kể xiết. Nó mang đến một vẻ đẹp ám ảnh, mới mẻ tới những đam mê cơ bản nhất của con người. Suốt đêm anh bám lấy những trang say mê với hình ảnh một phụ nữ có khuôn mặt của Madame Olenska. Nhưng khi anh thức dậy vào sáng hôm sau, nhìn ra những ngôi nhà đá nâu dọc khu phố, nghĩ về chiếc bàn làm việc ở văn phòng của ông Letterblair và chỗ ngồi riêng của gia đình ở nhà thờ Grace, thì những giờ phút trong công viên ở Skuytercliff trở nên quá xa vời như những ảo ảnh trong đêm.

- Ôi trời, trông anh xanh xao quá, Newland! - Janey bình luận khi dùng cà phê tại bữa sáng, và mẹ anh nói thêm.

- Newland, con yêu, gần đây mẹ mới nhận thấy con đang bị ho. Con không làm việc quá sức đấy chứ?

Hai người phụ nữ tin chắc rằng dưới chế độ chuyên quyền sắt đá của cấp trên, chàng trai đã phải trải qua những giờ lao động kiệt sức nhất - và anh không bao giờ thấy cần thiết để làm họ tỉnh ngộ.

Hai hay ba ngày sau trôi qua trong nặng nề. Mùi vị của sự quen thuộc như xỉ than trong miệng anh, và có những lúc anh cảm thấy như đang bị chôn sống bởi tương lai của mình. Anh không nghe tin gì về nữ Bá tước Olenska, hay về ngôi nhà nhỏ hoàn hảo, và dù anh đã gặp Beaufort ở câu lạc bộ họ chỉ gật đầu với nhau qua bàn chơi bài whist. Cho đến buổi tối thứ tư anh mới nhận được một tờ giấy nhắn trên đường về nhà. “Ngày mai hãy đến muộn. Tôi phải giải thích cho anh. Ellen”. Đó là dòng duy nhất trên tờ giấy.

Chàng trai trẻ, đang trên đường ra ngoài ăn tối, nhét mẩu thư vào túi, hơi mỉm cười với kiểu tiếng Pháp của từ “cho anh”. Sau bữa tối anh đi xem kịch, mãi đến khi anh về nhà sau nửa đêm, anh mới lôi lá thư của Madame Olenska ra lần nữa và đọc lại nó một cách chậm chạp mấy lần.

Có nhiều cách để trả lời, và anh cân nhắc mỗi cách trong sự trằn trọc của một đêm kích động. Cuối cùng, khi ban mai đến, anh quyết định rằng phải ném vài bộ quần áo vào một chiếc va li và chiều hôm đó lên một chuyến tàu thủy để đi St Augustine.

___________________________

Chú thích:

[56] Bức tranh của họa sĩ người Mỹ John Singleton Copley (1738 - 1815) vẽ một chính khách người Anh vĩ đại vào năm 1781.

[57] Tranh của họa sĩ người Pháp Jacques Louis David (1748 - 1825).

[58] Edwin Booth (1833 - 1893): Diễn viên nổi tiếng trong những vở bi kịch của Shakespeare; em trai ông đã ám sát Lincoln.

[59] William Winter (1837 - 1917): Nhà văn, nhà phê bình kịch nghệ người Mỹ.

[60] Washington Irving (1783 - 1859): Là người Mỹ đầu tiên có được danh tiếng trong nền văn học thế giới; nổi tiếng nhất với tác phẩm Rip Van Winkle.

[61] Fitz-Grene Halleck (1790 - 1867): Nhà thơ Mỹ.

[62] Joseph Rodman Drake (1795 - 1820): Tác phẩm The Culprit Fay được xuất bản sau khi ông mất năm 1835. Drake là bạn của Halleck. Thơ của ông cố gắng đem sự hiểu biết về thần tiên đến cho nước Mỹ.

[63] Prosper Mérimée (1803 - 1870): Nhà viết kịch, nhà nghiên cứu lịch sử, nhà khảo cổ người Pháp, tác giả của vở nhạc kịch Carmen.

[64] Lettres à une Inconnue (tiếng Pháp): Lá thư gửi một người đàn bà không quen biết (đây là tuyển tập những lá thư của Mérimée gửi cho Jenny Dacquin xuất bản năm 1874, sau khi ông mất). (ND)

[65] William Morris (1834 - 1896): Nhà thơ, họa sĩ của Anh và là người theo chủ nghĩa xã hội.

[66] Ở đây muốn nói đến những người sống tự do, phóng túng (về mặt sinh hoạt, đạo đức), không chịu theo khuôn phép chung của xã hội. (ND)

[67] Paul Bourget (1832 - 1935): Tiểu thuyết gia người Pháp, sau này trở thành một người bạn của Wharton.

[68] Joris Karl Huysmans (1848 - 1907): Tiểu thuyết gia người Pháp.

[69] Anh em người Pháp nổi tiếng ở thế kỷ XIX trong giới văn học Pháp.

[70] Carolus Duran (1837 - 1917): Họa sĩ người Pháp.

[71] Vở kịch của Dion Boucicault (1820 - 1890).

[72] Eugène Labiche (1815 - 1888): Le Voyage de M. Perrichon là một bài văn châm biếm về sự vô ơn.

[73] Phong cách kiến trúc kết hợp giữa kiến trúc Roma và kiến trúc Hy Lạp cổ. (ND)

[74] Herbert Spencer (1820 - 1903): Nhà triết học, nhà lý luận chính trị lỗi lạc theo chủ nghĩa tự do, nhà lý luận xã hội học người Anh. (ND)

[75] Alphonse Daudet (1840 - 1897): Tiểu thuyết gia người Pháp.

[76] Tiểu thuyết của George Eliot (1819 - 1880), người có ảnh hưởng lớn tới Wharton.

[77] Một chuỗi bài thơ được xuất bản lần đầu năm 1870 của Dante Gabriel Rossetti (1828 - 1882).