← Quay lại trang sách

CHƯƠNG 16

Khi Archer đi xuôi theo con đường chính đầy cát ở St Augustine để đến ngôi nhà của ông Welland mà anh được chỉ và thấy May Welland đang đứng dưới cây mộc lan với ánh nắng lấp lánh trên tóc, anh tự nhủ sao mình lại chần chừ quá lâu mới đến đây.

Đây là sự thật, đây là thực tại, đây là cuộc sống thuộc về anh; và anh đã cười nhạo sự kiềm chế không cần thiết của mình, khi không dám rời khỏi công việc vì sợ mọi người nghĩ là mình lén trốn đi nghỉ!

Lời đầu tiên cô thốt lên là: “Newland… có chuyện gì xảy ra thế?” và anh chợt nảy ra ý nghĩ là cô sẽ “đàn bà” hơn nếu ngay lập tức đọc được trong mắt anh lý do anh đến. Nhưng khi anh trả lời: “Đúng… anh nhận thấy anh phải gặp em”, vẻ đỏ mặt hạnh phúc của cô đã lấy đi vẻ lạnh lẽo ngạc nhiên ban đầu, anh thấy anh thật dễ được tha thứ, và sự phản đối yếu ớt của ông Letterblair sẽ sớm bị xóa tan bởi một gia đình khoan dung.

Vì còn sớm, con phố chính không có chỗ cho bất cứ gì khác ngoài những lời chào hỏi theo nghi thức, và Archer nóng lòng muốn được ở riêng với May để thổ lộ tất cả sự ân cần và nóng lòng của anh. Vẫn còn một tiếng nữa mới đến giờ ăn sáng tại nhà Welland, thay vì mời anh vào nhà, cô đề nghị rằng họ sẽ cùng nhau đi dạo đến một vườn cam lâu năm phía trên thị trấn. Cô vừa chèo thuyền trên sông, và mặt trời đang đan những gợn sóng nhỏ với màu vàng lấp lánh dường như vây lấy cô trong tấm lưới của mình. Hai bên đôi má rám nắng ấm áp của cô, mái tóc tung bay rực rỡ như sợi dây bạc, và đôi mắt cô trông nhạt hơn, hầu như bị lu mờ bởi nét trong sáng, tươi trẻ của chúng. Khi cô bước đi bên cạnh Archer với dáng đi nhịp nhàng, khuôn mặt cô mang vẻ bình yên lơ đãng của một bức tượng nữ thần trẻ bằng cẩm thạch.

Đối với những sợi dây thần kinh căng thẳng của Archer, hình ảnh này xoa dịu anh như cảnh đẹp của bầu trời xanh và dòng sông lười biếng. Họ ngồi xuống một chiếc ghế băng dưới những cây cam, anh vòng tay quanh người rồi hôn cô. Cảm giác giống như uống nước ở một dòng suối lạnh với mặt trời bên trên, nhưng áp lực của anh có lẽ mãnh liệt hơn anh tưởng, vì mặt cô đỏ bừng và lùi lại như thể anh làm cô giật mình.

- Gì thế? - anh mỉm cười hỏi và cô nhìn anh ngạc nhiên, trả lời:

- Không có gì.

Hai người cảm thấy hơi lúng túng, cô rút tay ra khỏi anh. Đó là lần duy nhất anh hôn lên môi cô ngoại trừ một lần thoáng qua ở nhà kính nhà Beaufort. Anh nhận thấy cô bối rối, và khẽ run rẩy bên ngoài sự điềm tĩnh trẻ con của cô.

- Nói cho anh biết em thường làm gì cả ngày? - Anh nói, đan tay sau gáy và giơ mũ ra che ánh mặt trời chói lọi. Gợi cho cô nói về những thứ quen thuộc và đơn giản là cách dễ dàng nhất để tiếp tục chuỗi ý nghĩ riêng của anh. Rồi anh ngồi nghe những việc đơn giản như bơi lội, đi thuyền buồm và cưỡi ngựa, hơi khác biệt thì có một cuộc khiêu vũ đặc biệt tại quán trọ cổ khi có một chiếc tàu chiến đến. Một vài người thú vị từ Philadelphia và Baltimore đang nghỉ ở quán trọ, và nhà Selfridge Merry đã ở đó trong ba tuần vì Kate Merry bị bệnh viêm cuống phổi. Họ định sắp xếp một sân quần vợt trên cát, nhưng không ai ngoài Kate và May có vợt, hầu hết mọi người còn chưa từng nghe về môn thể thao này.

Tất cả những điều này khiến cô rất bận rộn, cô không có thời gian làm gì khác ngoài việc xem quyển sách da bê nhỏ mà Archer đã gửi cô tuần trước đó (Những bài thơ xôn- nê của Bồ Đào Nha - the Sonnets from the Portuguese). Tuy nhiên cô cũng đang học thuộc lòng bài thơ Làm cách nào họ mang tin tốt từ Ghent đến Aix (How they brought the Good News from Ghent to Aix), bởi vì đó là một trong những thứ đầu tiên anh từng đọc cho cô nghe, và cô thấy vui khi có thể kể cho anh nghe rằng Kate Merry chưa từng nghe đến tên nhà thơ Robert Browning[78].

Đột nhiên cô đứng dậy, thốt lên rằng họ sẽ đến bữa sáng muộn, và họ vội vàng quay lại ngôi nhà xiêu vẹo với cổng không sơn và hàng rào cây đuôi công và cây phong lữ không tỉa xén mà nhà Welland đã đặt vào cho mùa đông. Đời sống gia đình cảm động của ông Welland đã phải chùn bước trước sự kém tiện nghi của các khách sạn phương nam luộm thuộm, cùng một chi phí khổng lồ, và đối mặt với những khó khăn hầu như không thể khắc phục. Do đó bà Welland, hết năm này qua năm khác, buộc phải tùy cơ ứng biến với một cơ ngơi được dựng lên nhờ những người hầu New York bất mãn và một phần nhờ những người châu Phi bản địa.

- Các bác sĩ muốn chồng tôi cảm thấy rằng ông ấy ở trong chính ngôi nhà của mình, nếu không thì ông ấy sẽ bị hành hạ bởi cái khí hậu không lấy gì làm tốt cho ông ấy. - bà giải thích, hết mùa đông này tới mùa đông khác, với những người Philadelphia và Baltimore giàu lòng trắc ẩn. Và ông Welland, tươi cười phía bên kia chiếc bàn ăn sáng chất đầy những món ngon khác nhau, đang nói chuyện với Archer:

- Cậu thấy đấy, chàng trai thân mến, chúng tôi đi cắm trại… chúng tôi thực sự đi cắm trại. Tôi bảo vợ tôi và May rằng tôi muốn dạy họ sống trong sự thiếu thốn.

Ông bà Welland đã rất ngạc nhiên cũng như con gái của họ bởi sự có mặt đường đột của chàng trai, nhưng anh chợt nghĩ ra cách giải thích rằng mình cảm thấy sắp bị một cơn cảm lạnh ác hiểm và với ông Welland nó có vẻ là một lý do chính đáng cho việc bỏ bất cứ nhiệm vụ nào.

- Cậu không thể quá cẩn thận, đặc biệt đối với tuổi xuân - ông nói, xếp những chiếc bánh nướng vỉ màu vàng nhạt thành đống trên đĩa và nhấn chìm chúng trong xi-rô màu vàng - Nếu ở tuổi cậu ta cũng thận trọng như thế thì May giờ này đang khiêu vũ ở Quốc hội, thay vì trải qua những mùa đông ở một nơi hoang dã với một người bệnh tật già cả.

- Ôi, nhưng con thích nơi đây, bố à, bố biết là con thích mà. Giá mà Newland có thể ở lại con sẽ thích nơi đây hơn New York gấp nghìn lần.

- Newland phải ở lại cho đến khi nó dứt bỏ được cơn cảm lạnh - bà Welland nuông chiều nói. Và chàng trai trẻ cười, nói rằng anh hy vọng sẽ như vậy.

Tuy nhiên, anh đã xoay xở, sau một cuộc trao đổi điện tín với hãng, để bệnh cảm của mình diễn ra một tuần. Và trong tình huống này thật mỉa mai khi biết rằng đặc ân của ông Let- terblair phần lớn nhờ vào sự thỏa mãn khi cấp dưới trẻ tuổi tài giỏi của ông đã giải quyết êm thấm vấn đề khó khăn trong vụ ly hôn của Olenski. Ông Letterblair đã cho ông Welland biết rằng ngài Archer đã “cống hiến một sự phục vụ đáng giá” cho cả gia đình, và rằng cụ bà Manson Mingott đã đặc biệt hài lòng. Một ngày khi May đi ra ngoài với bố cô trong loại phương tiện duy nhất nơi này có, bà Welland nhân cơ hội đó đề cập một chủ đề mà bà luôn tránh khi có mặt con gái.

- Tôi sợ rằng những quan niệm của Ellen không giống như chúng ta. Nó vừa tròn mười tám khi Medora Manson mang nó quay lại châu Âu - cậu có nhớ sự thích thú khi nó xuất hiện trong bộ đồ đen tại buổi khiêu vũ ra mắt không? Một sự kỳ cục khác của Medora - thực sự lần này điều đó đã gần như được đoán trước! Điều đó xảy ra ít nhất đã mười hai năm rồi, và từ đó Ellen chưa bao giờ về lại Mỹ. Rõ ràng, nó đã là một người hoàn toàn Âu hoá.

- Nhưng xã hội châu Âu không chấp nhận ly hôn, nữ Bá tước Olenska nghĩ rằng việc cô ấy đòi hỏi sự tự do của mình sẽ phù hợp với những quan niệm của Mỹ. - Đó là lần đầu tiên chàng trai nhắc đến tên cô từ sau khi anh rời Skuytercliff, và anh cảm thấy má mình nóng lên.

Bà Welland cười thương hại.

- Điều đó giống như những thứ kỳ lạ mà những người nước ngoài đặt ra cho chúng ta. Họ nghĩ chúng ta ăn tối lúc hai giờ và ủng hộ việc ly hôn! Đó là lý do tôi thấy thật ngốc nghếch khi tiếp đãi họ khi họ đến New York. Họ chấp nhận sự mến khách của chúng ta, và rồi họ về nhà và lặp lại những câu chuyện ngớ ngẩn đó.

Archer không bàn luận gì về điều này, và bà Welland tiếp tục:

- Nhưng chúng ta hoàn toàn biết ơn việc cậu đã thuyết phục Ellen từ bỏ tư tưởng đó. Bà nội và chú nó không thể làm gì với nó, cả hai người bọn họ đã viết cho tôi rằng việc nó đổi ý hoàn toàn nhờ vào sự ảnh hưởng của cậu - thực tế là nó đã nói vậy với bà. Nó cực kỳ ngưỡng mộ cậu. Ellen tội nghiệp. - nó luôn là một đứa trẻ bướng bỉnh. Tôi tự hỏi không biết số phận nó sẽ như thế nào?

“Thành thứ mà chúng ta đang cố tạo ra”, anh muốn trả lời, “nếu mọi người muốn cô ấy trở thành tình nhân của Beaufort hơn là vợ của vài gã tử tế thì mọi người chắc chắn đang đi đúng đường rồi đấy”.

Anh tự hỏi bà Welland sẽ nói gì nếu anh thốt ra những lời nói đó thay vì chỉ nghĩ về chúng. Anh có thể hình dung ra sự biến mất đột ngột của nét mặt điềm tĩnh vững vàng, mà bà đã quen mang từ lâu khi đối mặt với những chuyện nhỏ nhặt, đến nỗi nó đã trở thành một vẻ uy quyền giả tạo. Những dấu vết về một vẻ đẹp tươi mới vẫn nấn ná trên đó như của con gái bà. Và anh tự hỏi liệu khuôn mặt May có biến thành một vẻ trung niên mà trên đó sự ngây thơ không thể bị đánh bại tương tự như thế hay không.

Ồ, không, anh không muốn May có kiểu ngây thơ đó, sự ngây thơ mà trí óc bị bịt kín khỏi trí tưởng tượng và trái tim bịt kín khỏi những trải nghiệm!

- Tôi tin chắc! - bà Welland tiếp tục - rằng nếu chuyện kinh khủng này xuất hiện trên báo thì đó sẽ là đòn chí mạng với chồng tôi. Tôi không biết một chi tiết nào; tôi chỉ bảo là không được, như tôi đã nói với Ellen tội nghiệp khi nó cố nói chuyện với tôi về điều này. Vì có một người bệnh để chăm sóc nên tôi phải giữ cho đầu óc sáng suốt và vui vẻ. Nhưng ông Welland cực kỳ thất vọng, ông đã có một cơn sốt nhẹ mỗi sáng khi chúng tôi chờ nghe xem nó sẽ quyết định thế nào. Thật là kinh khủng khi mà con gái ông học biết rằng điều đó là có thể… nhưng tất nhiên, Newland thân mến, cậu cũng cảm thấy thế. Chúng ta đều biết rằng cậu đang nghĩ cho May.

- Con luôn luôn nghĩ cho May - chàng trai đáp lời, đứng dậy để rút ngắn cuộc đối thoại.

Anh đã muốn tìm cơ hội nói chuyện riêng với bà Welland để giục bà thúc đẩy ngày kết hôn. Nhưng anh không thể nghĩ ra những lý lẽ nào có thể lay chuyển bà, và với một cảm giác nhẹ nhõm, anh thấy ông Wellland và May đã đánh xe đến cửa.

Hy vọng duy nhất của anh là nài nỉ May lần nữa. Ngày trước khi quay về, anh đã đi dạo cùng cô đến khu vườn đổ nát của tòa đại sứ Tây Ban Nha. Bối cảnh này gợi đến những phong cảnh ở châu Âu; và May, trong khi ngắm chàng trai đáng yêu nhất của cô dưới chiếc mũ rộng vành lớn vốn đang phủ bóng tối bí ẩn lên đôi mắt quá trong sáng của cô, dần cảm thấy háo hức khi anh nói về Granada và Alhambra.

- Chúng ta có thể ngắm tất cả những nơi đó mùa xuân này, thậm chí là tổ chức lễ Phục sinh ở Seville - anh giục, cường điệu những yêu cầu của mình với hy vọng có một sự nhượng bộ lớn hơn.

- Lễ Phục sinh ở Seville? Và tuần sau đã là mùa Chay rồi! - cô cười.

- Sao chúng ta không cưới luôn trong mùa chay? - anh đáp. Nhưng trông cô có vẻ sửng sốt đến nỗi anh nhận ra sai lầm của mình.

- Tất nhiên anh không có ý đó, em yêu, nhưng ngay sau Lễ phục sinh, để chúng ta có thể nhổ neo vào cuối tháng Tư. Anh biết anh có thể sắp xếp mọi chuyện ở văn phòng.

Cô cười mơ màng về khả năng đó, nhưng anh nhận thấy việc mơ về nó đã là đủ đối với cô. Nó giống như là cô đang nghe anh đọc to những tập thơ về vô số điều đẹp đẽ mà không thể xảy ra trong đời thực.

- Ôi, anh nói tiếp đi, Newland; em thích nghe anh tả.

- Nhưng tại sao chỉ là tả lại thôi? Tại sao chúng ta không biến chúng thành sự thật?

- Tất nhiên chúng ta sẽ, anh yêu, vào năm tới - giọng cô kéo dài.

- Em không muốn chúng trở thành sự thật sớm hơn ư? Anh không thể thuyết phục em trốn đi ngay bây giờ ư?

Cô gật đầu, trốn tránh anh dưới vành mũ rộng che kín.

- Sao chúng ta lại nghĩ đến một năm khác? Nhìn vào anh, em yêu! Em không hiểu anh muốn em làm vợ anh như thế nào sao?

Mất một lúc cô vẫn bất động, rồi cô ngước đôi mắt trong trẻo tuyệt vọng về phía anh đến nỗi anh buông lỏng cô khỏi vòng tay của mình. Nhưng đột nhiên cái nhìn của cô thay đổi và sâu sắc thêm một cách khó hiểu.

- Em không chắc liệu mình có hiểu không - cô nói - có phải… có phải vì anh không chắc sẽ tiếp tục chăm sóc em?

Archer nhảy dựng lên khỏi chỗ ngồi của mình.

- Chúa ơi… có lẽ… anh không biết - anh nổi giận.

May Welland cũng đứng dậy. Khi họ chạm mặt nhau dường như cô đã có vóc dáng và vẻ nghiêm trang của một người phụ nữ trưởng thành hơn. Cả hai im lặng một lúc, như thể bị mất tinh thần bởi khuynh hướng không đoán trước được những lời nói của họ, rồi cô nói nhỏ:

- Nếu là thế… có phải có người nào đó không?

- Có người nào đó giữa anh và em? - Anh lặp lại chậm rãi, như thể chúng chỉ có thể hiểu được một nửa và anh muốn có thời gian để nhắc lại câu hỏi với chính mình. Cô có vẻ nhận thấy sự không chắc chắn trong giọng anh, vì cô tiếp tục nói trong một giọng nhỏ hơn:

- Chúng ta hãy thành thật nói chuyện với nhau, Newland. Đôi khi em cảm thấy trong anh có điều gì đó khang khác; đặc biệt là từ khi việc đính hôn của chúng ta được công bố.

- Em yêu… chuyện điên rồ gì thế này? - Anh bình tĩnh lại và thốt lên.

Cô tiếp nhận sự phản đối của anh với một nụ cười nhẹ.

- Nếu có chuyện đó, nó sẽ không làm đau chúng ta khi nói về nó - cô dừng lại, và nói thêm, ngẩng đầu lên với một cử động quý tộc. - Hay thậm chí nếu nó đúng là thế, tại sao chúng ta không nói về nó? Anh có thể dễ dàng phạm sai lầm.

Anh cúi thấp đầu xuống, nhìn chằm chằm vào mẩu lá màu đen trên con đường ngập ánh nắng dưới chân.

- Những lỗi lầm luôn được tạo ra dễ dàng; nhưng nếu anh phạm phải một lỗi lầm như em nói, có phải anh nên nài nỉ em thúc đẩy đám cưới của chúng ta?

Cô cũng nhìn xuống, làm xáo trộn mẫu lá với đỉnh của chiếc ô khi cô cố gắng diễn đạt.

- Đúng - cuối cùng cô nói. - Anh có thể muốn… một lần dứt khoát… giải quyết vấn đề. Đó là một cách.

Sự sáng suốt bình tĩnh của cô làm anh sửng sốt, nhưng không làm cho anh nghĩ là cô vô tình. Dưới vành mũ của cô, anh thấy nét mặt tái nhợt và cánh mũi khẽ run rẩy bên trên đôi môi mím chặt cương quyết.

- Rồi sao? - Anh hỏi, ngồi xuống băng ghế và nhìn lên cô với một cái cau mày mà anh cố làm ra vẻ đùa giỡn.

Cô buông mình trở lại chỗ ngồi và tiếp tục:

- Anh không được nghĩ rằng một cô gái thì chẳng biết gì nhiều như bố mẹ cô vẫn tưởng. Người ta nghe thấy và người ta hiểu, người ta có những cảm nhận và quan điểm riêng. Và dĩ nhiên, từ lâu trước khi anh nói anh quan tâm đến em, em đã biết anh từng thích một người nào đó. Mọi người đều nói về chuyện đó hai năm trước ở Newport. Và một lần em đã thấy hai người ngồi bên nhau trên hiên nhà tại một buổi khiêu vũ… và khi cô ấy quay trở vào khuôn mặt cô ấy rất buồn, em thấy thương cô ấy. Em đã nhớ lại chuyện này sau đó, khi chúng ta đính hôn.

Giọng cô chìm xuống gần như là thì thầm, và cô ngồi vặn vặn cán ô. Chàng thanh niên nhẹ nhàng đặt tay lên tay cô, trái tim anh mở rộng với một sự nhẹ nhõm không thể diễn tả.

- Em yêu… là chuyện này à? Nếu em chỉ biết sự thật đó! Cô ngẩng đầu lên mau chóng.

- Vậy có sự thật nào em không biết nữa? Anh vẫn đặt tay trên tay cô.

- Ý anh là, sự thật về câu chuyện cũ mà em nói tới.

- Nhưng đó là điều em muốn biết, Newland… là điều em phải biết. Em không thể có hạnh phúc từ một điều sai trái…một sự không công bằng… với ai đó. Và em muốn tin rằng anh cũng nghĩ thế. Chúng ta có thể xây dựng được cuộc sống kiểu gì trên cái nền tảng ấy?

Khuôn mặt cô có một vẻ can đảm thảm thương khiến anh muốn quỳ mọp xuống chân cô.

- Em đã muốn nói điều này từ lâu rồi - cô tiếp tục - em đã muốn nói với anh rằng, khi hai người thực sự yêu nhau, em hiểu rằng sẽ có những hoàn cảnh khiến họ nên… nên đi ngược lại với ý kiến của số đông. Và nếu anh đã từng hứa hẹn… hứa hẹn với người mà chúng ta vừa nói đến… và nếu có cách nào… có cách nào mà anh có thể hoàn thành lời hứa đó… thậm chí bằng việc ly hôn của cô ấy… Newland, đừng bỏ rơi cô ấy vì em!

Sự ngạc nhiên của anh khi khám phá ra rằng nỗi sợ hãi của cô tập trung vào một thời đã xa và hoàn toàn thuộc về quá khứ của chuyện tình giữa anh với phu nhân Thorley Rushworth đã nhường chỗ cho sự ngạc nhiên về quan điểm rộng lượng của cô. Có một cái gì đó phi thường trong thái độ không theo truyền thống táo bạo ấy, và nếu những vấn đề khác không đè nén anh thì anh đã chìm đắm vào sự ngạc nhiên về điều kỳ diệu của con gái nhà Welland khi thúc giục anh cưới người tình cũ. Nhưng anh vẫn còn choáng váng vì cái vách đứng mà họ vừa đi dọc theo, nó tràn đầy một lòng vị tha mới mẻ với sự bí ẩn trong thời hoa niên của cô gái.

Mãi một lúc sau, anh mới lên tiếng:

- Không có sự hứa hẹn, giao ước, hay cái gì đại loại như em nghĩ. Những trường hợp như thế này không luôn luôn, lộ ra khá đơn giản như… Nhưng đó không phải là vấn đề… Anh yêu sự rộng lượng của em, vì cảm giác của anh cũng như em khi nghĩ về những điều này… Anh thấy rằng mỗi trường hợp phải được xem xét một cách độc lập, trong những giá trị của nó… bất chấp những tập tục ngốc nghếch… ý anh là, mỗi người phụ nữ có quyền tự do cho riêng mình - anh đứng lên, ngạc nhiên bởi sự trở lại của những ý nghĩ anh từng có, và tiếp tục, nhìn cô với một nụ cười. - Vì em hiểu quá nhiều thứ, em yêu, sao em không thể đi xa thêm một chút, và hiểu rằng thật vô ích khi chúng ta phục tùng một hình thái khác của những tục lệ ngớ ngẩn tương tự? Nếu không có ai và không có thứ gì xen giữa chúng ta, thì bàn về một đám cưới sớm có phải tốt hơn là trì hoãn thêm nữa không?

Cô đỏ mặt vì niềm vui và ngẩng đầu về phía anh. Khi cúi xuống anh thấy rằng đôi mắt cô chứa đầy những giọt nước mắt hạnh phúc. Nhưng trong chốc lát cô có vẻ bị tuột xuống khỏi địa vị phụ nữ của mình để thành một cô gái nhút nhát và không tự lo liệu được. Và anh hiểu rằng sự dũng cảm và chủ động của cô đều được dành cho những người khác, còn cô không có gì cho bản thân mình. Rõ ràng nỗ lực để nói của cô còn lớn hơn nhiều so với sự điềm tĩnh cố ý cô đang tỏ ra, và ngay khi anh cam đoan với cô những lời đầu tiên, cô đã trở lại với sự quen thuộc thông thường, như một đứa trẻ quá phiêu lưu đã tìm được nơi ẩn náu trong vòng tay mẹ.

Archer không còn muốn tiếp tục năn nỉ cô. Anh quá thất vọng về sự biến mất của con người mới, người vừa mới đây còn nhìn anh với cái nhìn sâu sắc bằng đôi mắt trong sáng của cô. May có vẻ ý thức được sự thất vọng ấy, nhưng không biết làm thế nào để xoa dịu anh. Họ đứng dậy, im lặng đi về nhà.

CHƯƠNG 17

Cô chị họ nữ Bá tước của anh đã ghé thăm mẹ khi anh đi vắng - Janey Archer báo cho anh trai biết trong buổi tối anh trở về.

Chàng trai trẻ, đang ăn tối một mình với mẹ và em gái, ngước lên ngạc nhiên và thấy bà Archer đang nghiêm trang nhìn vào đĩa thức ăn của bà. Bà Archer không coi sự tách biệt với thế giới như một lý do để bị nó bỏ quên. Và Newland đoán rằng bà sẽ thấy hơi phiền nếu anh tỏ ra ngạc nhiên bởi cuộc viếng thăm của Madame Olenska.

- Cô ta mặc một chiếc áo xẻ nhung đen với những cái khuy đen nhánh, cùng một chiếc bao tay màu xanh nhỏ xíu. Em chưa bao giờ thấy cô ta ăn mặc hợp thời trang cả - Janey tiếp tục - Cô ta đến một mình, đầu giờ chiều Chủ nhật, may là lò sưởi vẫn cháy trong phòng khách. Cô ta có một trong những cái thiệp kiểu mới. Cô ta nói muốn làm quen với chúng ta vì đã được anh đối xử quá tốt.

Newland cười.

- Madame Olenska luôn nói thế về những người bạn của cô ấy. Cô ấy rất vui khi lại được ở bên những người thân của mình.

- Đúng, cô ấy đã nói với chúng ta như vậy - bà Archer nói. - Mẹ phải công nhận rằng cô ấy có vẻ biết ơn khi ở đây.

- Con mong là mẹ thích cô ấy, thưa mẹ. Bà Archer mím môi.

- Cô ta dĩ nhiên là đã cố gắng để lấy lòng người khác, ngay cả khi cô ta ghé thăm một phụ nữ già cả.

- Mẹ không nghĩ là cô ta đơn giản - Janey xen vào, đôi mắt cô vít chặt lấy khuôn mặt của anh trai.

- Không phải là mẹ cổ hủ, May yêu quý mới là người lý tưởng của mẹ - bà Archer nói.

- Ôi - con trai bà nói - họ không giống nhau.

Archer đã rời St Augustine mang theo rất nhiều lời nhắn cho cụ bà Mingott, và một hay hai ngày sau khi trở về thành phố, anh đã ghé thăm bà.

Bà cụ đón tiếp anh với sự ấm áp khác thường. Bà biết ơn anh vì đã thuyết phục nữ Bá tước Olenska từ bỏ tư tưởng ly hôn. Khi anh nói với bà rằng anh đã rời bỏ văn phòng mà không được phép, vội vã xuống St Augustine đơn giản vì anh muốn gặp May, bà đã cười khúc khích và vỗ nhẹ đầu gối anh với bàn tay nấm trứng của mình.

- Chà, chà… vì vậy cậu đã không chịu được sự gò ép, đúng không? Ta cho rằng mặt Augusta và Welland đã thuỗn dài ra, và cư xử như thể ngày tận thế của thế giới đã đến? Nhưng May bé nhỏ… nó hiểu rõ hơn, ta nói có đúng không?

- Cháu hy vọng cô ấy hiểu; nhưng rốt cuộc thì cô ấy cũng không đồng ý điều mà cháu đã hạ mình để cầu xin.

- Có thật không? Vậy đó là điều gì?

- Cháu muốn cô ấy hứa rằng chúng cháu sẽ kết hôn vào tháng Tư. Sao chúng cháu lại phải lãng phí một năm nữa cơ chứ?

Bà Manson Mingott mím cái miệng nhỏ của mình làm bộ cau có bắt chước và nháy mắt với anh qua mi mắt ranh mãnh.

- “Hãy hỏi mẹ”, ta đoán nó sẽ nói thế - chuyện quen thuộc. Ôi, nhà Mingott - tất cả đều giống nhau! Sinh ra trong một vết đường mòn, và cậu không thể nhổ họ ra khỏi đó được. Khi ta xây ngôi nhà này, chắc cậu nghĩ là ta sẽ chuyển đến California! Không ai từng xây nhà trên phố Bốn mươi, ta dám chắc thế, cũng như trên Battery, trước khi Christopher Columbus tìm ra châu Mỹ. Không, không, không ai trong chúng muốn khác biệt. Chúng sợ điều đó như bệnh đậu mùa.

Ôi, Archer thân mến, ta cảm ơn số mệnh vì ta đã không là gì khác mà lại là một người mang họ Spicer tầm thường. Thế mà không có con cháu nào của ta giống ta trừ Ellen bé bỏng - bà ngừng lời, vẫn nháy mắt với anh, và hỏi, với vẻ hơi lẫn bất ngờ của tuổi già - Ngay bây giờ, sao cậu không lấy Ellen bé bỏng?

Archer cười.

- Vì một điều, cô ấy không ở đó để được kết hôn.

- Không… chắc chắn rồi, thật đáng tiếc. Và giờ thì muộn rồi. Cuộc đời nó đã kết thúc. - Bà nói với vẻ mãn nguyện lạnh lùng của người già khi nghĩ lại những hy vọng tuổi trẻ. Trái tim chàng trai trở nên giá lạnh, và anh nói vội vã:

- Cháu có thể thuyết phục bà dùng sức ảnh hưởng của mình với nhà Welland không thưa bà Mingott? Cháu không thể chịu được những cuộc đính hôn kéo dài.

Cụ bà Catherine chiếu về anh một tia đồng ý.

- Đúng, ta có thể thấy điều đó. Cậu có con mắt lanh lẹ. Khi cậu là một đứa trẻ ta chắc chắn cậu luôn thích được mời ăn đầu tiên - bà ngả đầu ra sau với một tiếng cười lớn khiến chiếc cằm nhô ra như những đợt sóng nhỏ. - A, Ellen của ta đến rồi đây! - bà thốt lên, khi cánh cửa mở ra đằng sau bà.

Madame Olenska tiến đến với một nụ cười. Khuôn mặt cô trông đầy sức sống và hạnh phúc, cô giơ tay hoan hỉ về phía Archer khi cô cúi xuống để bà cô hôn.

- Ta vừa mới nói chuyện với cậu ấy, cháu yêu: “Ngay bây giờ, sao cậu không lấy Ellen bé bỏng của ta?” Madame Olenska nhìn Archer, vẫn mỉm cười:

- Và anh ấy trả lời thế nào ạ?

- Ôi, cháu yêu, ta để cháu tự tìm hiểu lấy! Cậu ấy đã xuống Florida để gặp người yêu đấy.

- Vâng, cháu biết - cô vẫn nhìn anh. - Tôi đã đến gặp mẹ anh, để hỏi xem anh đi đâu. Tôi đã gửi một lá thư mà không thấy anh hồi âm, nên tôi sợ anh bị ốm.

Anh lẩm bẩm gì đó về việc rời đi đột ngột, trong một sự vội vã, và định viết cho cô từ St Augustine.

- Tất nhiên một khi anh đã ở đó thì anh sẽ không thèm nghĩ về tôi nữa! - Cô tiếp tục cười với anh bằng một sự vui vẻ mà có lẽ là sự giả bộ thờ ơ cố ý.

“Nếu cô ấy vẫn cần mình, cô ấy đã xác định sẽ không để mình thấy được điều đó” - anh nghĩ, bị châm chọc bởi kiểu cách của cô, nhưng dưới con mắt ranh mãnh của người bà, anh thấy mình líu lưỡi và ghìm lại.

- Nhìn cậu ấy xem - trong sự vội vã nóng lòng muốn kết hôn mà cậu ấy đã bỏ đi theo kiểu Pháp và chạy đến để quỳ xuống van xin cô gái ngốc nghếch! Điều đó giống như một người tình - đó là cách mà ông Bob Spicer hào hoa đã chiếm đoạt bà mẹ tội nghiệp của ta, và rồi mệt mỏi với bà trước khi ta được cai sữa - dù họ chỉ cần chờ đợi tám tháng để sinh ra ta! Nhưng mà - cậu không phải một người nhà Spicer, chàng trai ạ, may mắn cho cậu và May. Chỉ có Ellen tội nghiệp của ta là giữ dòng máu tồi tệ của họ; những người còn lại là hoàn toàn theo khuôn nhà Mingott - bà lão thét lên đầy khinh miệt.

Archer ý thức được rằng Madame Olenska, người đang ngồi cạnh bà nội, vẫn cố ý nhìn anh chăm chú. Sự vui vẻ đã biến mất khỏi mắt cô, và cô nói rất dịu dàng:

- Chắc chắn rồi, thưa bà, chúng ta có thể thuyết phục họ làm theo những gì anh ấy muốn.

Archer đứng dậy để đi, và khi tay anh chạm vào tay Madame Olenska, anh cảm thấy cô đang đợi anh ám chỉ gì đó đến lá thư chưa được hồi âm của cô.

- Khi nào tôi có thể gặp chị? - anh hỏi, khi cô đi với anh đến cửa phòng.

- Bất cứ khi nào anh muốn, nhưng anh phải đến sớm nếu anh muốn thấy ngôi nhà nhỏ một lần nữa. Tôi sẽ chuyển đi vào tuần tới.

Một sự đau nhói vụt qua anh khi nghĩ đến ký ức về những lúc bên ánh đèn trong căn phòng khách cột thấp. Những giờ giữ không nhiều, nhưng chúng chứa đầy kỷ niệm.

- Tối mai được không? Cô gật đầu.

- Tối mai, vâng, nhưng hãy đến sớm. Tôi sẽ có việc phải ra ngoài.

Ngày hôm sau là Chủ nhật, và nếu cô ra ngoài vào Chủ nhật thì dĩ nhiên chỉ có thể là đến nhà bà Lemuel Struther. Anh cảm thấy hơi phiền, tuy không nhiều lắm về việc cô đến đó (vì anh thích cô đến những nơi cô muốn dù nhà Van der Luyden có không đồng ý), nhưng đó là ngôi nhà nơi mà cô chắc chắn sẽ gặp Beaufort, nơi cô chắc phải biết trước là sẽ gặp ông ta, và có lẽ cô đến vì mục đích đó.

- Được rồi, tối mai - anh lặp lại, thầm quyết rằng anh sẽ không đến sớm, vì anh nghĩ nếu anh đến nhà cô muộn anh sẽ có thể ngăn cô khỏi đến nhà bà Struther, nếu không thì đến sau khi cô đã bắt đầu - mà, sau khi cân nhắc mọi thứ, đó chắc chắn sẽ là giải pháp đơn giản nhất.

Cuối cùng thì mới chỉ tám rưỡi khi anh nhấn chuông dưới cây đậu tía; không muộn nửa tiếng như anh đã tính - nhưng một sự bồn chồn đặc biệt đã đưa anh đến cửa nhà cô. Anh đã nghĩ những tối Chủ nhật ở nhà bà Struther không giống như một buổi khiêu vũ, và những vị khách của bà, đã hạn chế đến mức tối đa sự chểnh mảng của họ, thường đến sớm.

Điều duy nhất anh không tính đến, khi bước vào phòng đợi nhà Madame Olenska, là việc anh trông thấy mũ và áo khoác ngoài ở đó. Sao cô bắt anh đến sớm nếu cô định mời người đến ăn tối? Khi kiểm tra kỹ lưỡng hơn về đống đồ mà Nastasia đang đặt đồ của anh bên cạnh, sự bực bội của anh nhường chỗ cho sự tò mò. Những chiếc áo khoác rõ ràng là những thứ lạ nhất anh từng thấy dưới những mái nhà lịch sự, và chỉ liếc qua anh cũng có thể quả quyết rằng không cái nào trong số chúng thuộc về Julius Beaufort. Một là cái áo choàng ulster may sẵn bờm xờm màu vàng, và cái kia là một cái áo khoác rất cũ và lỗi thời - thứ mà giống như người Pháp gọi là một “Macfarlane”. Những chiếc áo này, có vẻ được làm cho một người ngoại cỡ, rõ ràng trông dài và nặng, những nếp gấp đen xanh của nó bốc ra một mùi mùn cưa ẩm ướt gợi nhớ tới những buổi họp kéo dài ngồi dựa vào những bức tường ở các phòng bar. Trên nó đặt một cái khăn xám tơi tả và một cái mũ nỉ kỳ cục với hình dáng nửa giống kiểu của tăng lữ.

Archer nhướng mày nghi vấn về phía Nastasia, người cũng nhướng mắt lại với tiếng “Già!” khi cô mở cửa phòng khách.

Chàng trai trẻ ngay lập tức thấy rằng nữ chủ nhân không ở trong phòng, và với sự ngạc nhiên, anh nhận ra một phụ nữ khác đang đứng bên lò sưởi. Người phụ nữ này cao, thon thả và lòng thòng, khoác trên người một bộ quần áo đính tua và thắt dây rối rắm, với sọc vuông, sọc vằn và những dải màu mộc mạc sắp xếp theo một kiểu mà đầu mối dường như biến mất. Tóc bà, vốn đã cố chuyển sang màu trắng nhưng chỉ thành công trong việc làm bạc màu, được gài lên bởi một chiếc bờm Tây Ban Nha và một chiếc khăn diềm đen, và găng tay hở ngón bằng lụa, thấy rõ các vết mạng, che phủ bàn tay bị thấp khớp của bà.

Bên cạnh bà, trong màn khói xì gà, những chủ nhân của hai chiếc áo khoác đứng đó, đều mặc thứ quần áo ban ngày mà rõ ràng không được thay ra từ sáng. Archer ngạc nhiên khi nhận ra một trong hai người là Ned Winsett; người kia lớn tuổi hơn thì anh không biết, và thân hình khổng lồ của ông đã xác nhận với anh đó là người mặc áo “Macfarlane”. Ông có một mái tóc sư tử mỏng manh với mớ tóc xám nhàu nát, và di chuyển cánh tay với những cử chỉ lóng ngóng, như thể ông đang phân phát lời chúc phúc cho một đám đông đang quỳ bên dưới.

Ba người này đứng bên nhau trên thảm trải trước lò sưởi, mắt họ đang dán chặt vào bó hoa hồng đỏ lớn kỳ lạ, với một cái nơ hình hoa phăng tía ở đáy, đang được đặt trên ghế sofa nơi Madame Olenska thường ngồi.

- Mùa này thì chúng chắc là rất đắt - tất nhiên là dù sao thì người ta chỉ quan tâm đến tình cảm thôi! - Quý bà đang thở dài nhấn mạnh khi Archer bước vào.

Cả ba đều quay lại ngạc nhiên với sự xuất hiện của anh, và người phụ nữ tiến lên trước, giơ tay ra.

- Cậu Archer thân mến - gần như là cháu Newland của tôi! - bà nói - Tôi là nữ Hầu tước Manson.

Archer cúi đầu, và bà tiếp tục:

- Ellen của ta đã cho ta ở nhờ vài ngày. Ta vừa từ Cuba về, nơi ta đã trải qua mùa đông với những người bạn Tây Ban Nha - những người thật là thú vị: giới quý tộc cao quý nhất ở Castile cổ - ta mong cậu có thể quen biết họ đến chừng nào!

Nhưng ta bị mang đi bởi người bạn cũ cực kỳ thân thiết ở đây, Tiến sĩ Carver. Cậu không biết Tiến sĩ Agathon Carver, người sáng lập ra Thung lũng Cộng đồng tình yêu?

Tiến sĩ Carver ngiêng nghiêng cái đầu sư tử, và nữ Hầu tước tiếp tục:

- Ôi, New York… New York… đời sống tinh thần đã chạm tới nó thật ít! Nhưng ta thấy cậu có quen biết ông Winsett.

- Ồ, vâng… tôi đã quen anh ấy được một thời gian; nhưng không phải theo kiểu đó - Winsett nói với nụ cười khô khan.

Nữ Hầu tước lắc đầu khiển trách.

- Làm sao ông biết, ông Winsett? Tâm hồn sẽ bay đến nơi nó muốn.

- Muốn - ôi, muốn! Tiến sĩ Carver xen vào trong một lời than phiền oang oang.

- Mà hãy ngồi xuống đi, cậu Archer. Bốn người chúng tôi vừa có một bữa tối nhỏ tuyệt vời bên nhau, và cháu tôi đã lên gác để thay đồ: nó đang đợi cậu, nó sẽ xuống trong một lát nữa. Chúng tôi đang ngưỡng mộ những bông hoa tuyệt diệu sẽ làm con bé ngạc nhiên khi nó trở xuống này.

Winsett vẫn đứng.

- Tôi e là tôi phải đi. Xin hãy nới với Madame Olenska là chúng tôi đều cảm thấy trống vắng khi cô ấy rời bỏ đường phố của chúng tôi. Ngôi nhà này đã là một ốc đảo.

- Ôi, nhưng nó sẽ không bỏ ông. Thơ và nghệ thuật là hơi thở cuộc sống của nó. Có phải ông viết thơ không, ông Winsett?

- Ồ, không, nhưng đôi khi tôi đọc nó - Winsett nói, cúi chào chung cả nhóm và đi nhanh ra khỏi phòng.

- Một tâm hồn chua cay - un peu sauvage nhưng quá dí dỏm; Tiến sĩ Carver, ông nghĩ ông ta có dí dỏm không?

- Tôi không bao giờ nghĩ về sự dí dỏm - Tiến sĩ Carver nghiêm nghị nói.

- Ôi… ôi… ông không bao giờ nghĩ đến sự dí dỏm! Ông ta thật nhẫn tâm với những người yếu đuối như chúng ta đúng không, cậu Archer! Nhưng ông ấy chỉ sống đời sống tinh thần thôi. Tối nay, ông ấy đang chuẩn bị tinh thần cho bài thuyết giảng ngay sau đây ở nhà bà Blenker. Tiến sĩ Carver, trước khi đến nhà Blenker ông có đủ thời gian để giải thích cho cậu Archer về sự khám phá hữu ích của ông về Hợp đồng trực tiếp không? Mà thôi, tôi thấy đã gần chín giờ rồi, và chúng tôi không có quyền giữ ông khi có quá nhiều người đang chờ thông điệp của ông.

Tiến sĩ Carver trông hơi thất vọng với sự dàn xếp này, nhưng khi so chiếc đồng hồ vàng nặng nề của ông với chiếc đồng hồ du lịch nhỏ của Madame Olenska, ông miễn cưỡng rời đi.

- Tôi sẽ gặp bà sau chứ, bạn yêu quý? - Ông gợi ý với nữ Hầu tước, người trả lời với một nụ cười. - Ngay khi xe ngựa của Ellen đến tôi sẽ tham gia với ông; tôi hy vọng lúc đó bài giảng chưa bắt đầu.

Tiến sĩ Carver nhìn Archer lo lắng.

- Có lẽ, nếu quý ông trẻ tuổi này thích những kinh ng- hiệm của tôi, bà Blenker có thể đồng ý nếu bà mang cậu ta đi cùng?

- Ôi, bạn thân mến, nếu có thể, tôi chắc bà ấy sẽ rất vui. Nhưng tôi e rằng Ellen của tôi sẽ tự quan tâm đến cậu ta.

- Điều đó - Tiến sĩ Carver nói - thật đáng tiếc… nhưng đây là danh thiếp của tôi - ông trao nó cho Archer, anh đọc nó, những dòng chữ viết bằng kiểu chữ Gothic:

Agathon Carver

Thung lũng tình yêu

Kittasquattamy. N.Y

Tiến sĩ Carver chào để đi ra ngoài, và nữ Hầu tước thở dài với vẻ vừa hối tiếc vừa nhẹ nhõm, vẫy Archer lại ngồi.

- Ellen sẽ xuống trong một lát nữa; trước khi nó đến, tôi rất vui về khoảnh khắc yên tĩnh này với cậu.

Archer khẽ bày tỏ niềm vui của anh khi gặp bà, và nữ Hầu tước tiếp tục, trong giọng thở dài nho nhỏ:

- Tôi biết mọi chuyện, cậu Archer thân mến - cháu tôi đã kể tất cả những điều cậu đã làm cho nó. Lời khuyên khôn ngoan của cậu: sự kiên quyết can đảm của cậu - ơn trời nó đã không quá muộn!

Chàng trai lắng nghe với sự lúng túng đáng kể. Anh tự hỏi có ai khác mà Madame Olenska không kể cho họ nghe về sự can thiệp của anh trong những chuyện riêng của cô không?

- Madame Olenska đã thổi phồng quá rồi. Tôi chỉ đơn giản đưa ra cho cô ấy ý kiến hợp pháp, như cô ấy đề nghị.

- Ôi, nhưng khi làm điều đó - khi làm điều đó, cậu đã vô tình là một công cụ của… của… bây giờ chúng ta dùng từ nào cho từ Thượng đế hả cậu Archer? - Người phụ nữ la lên, nghiêng đầu về một bên và cụp mắt xuống một cách khó hiểu.- Cậu không hề biết rằng chính lúc đó tôi cũng đang được van nài, thực tế là bị gạ gẫm… từ bên kia Đại Tây Dương.

Bà liếc ra sau, như thể sợ bị nghe lén, rồi kéo ghế bà đến gần hơn, và giơ chiếc quạt ngà voi nhỏ lên môi, thì thầm đằng sau nó:

- Bởi chính Bá tước - Olenski ngốc nghếch, điên rồ tội nghiệp của tôi, người đã đề nghị mang con bé quay lại với những điều kiện của nó.

- Chúa ơi! Archer thốt lên, nhảy bật dậy.

- Cậu sợ à? Đúng, tất nhiên. Tôi hiểu, tôi không biện hộ cho Stanislas tội nghiệp, dù cậu ấy luôn gọi tôi là người bạn thân nhất. Cậu ấy không tự bào chữa cho mình - mà tự gục ngã dưới chân con bé: trong bản thân tôi - bà rút ra từ trong ngực áo bạc màu - tôi có thư của cậu ta ở đây.

- Một bức thư?… Madame Olenska đã thấy nó chưa? - Archer nói lắp. Óc anh quay cuồng với sự ngạc nhiên của lời tuyên bố đó.

Nữ Hầu tước Manson nhẹ nhàng lắc đầu.

- Thời gian - thời gian. Ta phải có thời gian. Ta biết Ellen - kiêu kỳ, cứng đầu. Ta sẽ nói thế nào nhỉ, không tha thứ?

- Nhưng, Chúa ơi, để tha thứ là một chuyện, để quay lại nơi địa ngục ấy…

- À, đúng - nữ Hầu tước đồng ý. - Nó đã miêu tả nơi ấy như thế - đứa cháu nhạy cảm của tôi! Nhưng về khía cạnh vật chất, cậu Archer ạ, nếu người ta có thể hạ mình xem xét những thứ đó. Cậu có biết nó đang từ bỏ cái gì không? Những bông hồng trên ghế sofa kia - có đến hàng mẫu, trong nhà kính và ngoài trời, trong những khu vườn vô song của cậu ta ở Nice! Châu báu - những đồ trang sức lịch sử: những viên ngọc bích Sobieski - áo choàng da lông chồn zibeline - nhưng nó không quan tâm đến tất cả những thứ này! Nghệ thuật và vẻ đẹp là những thứ mà nó quan tâm, nó sống vì, cũng như tôi, và những thứ đó cũng bao quanh nó. Tranh ảnh, đồ đạc vô giá, âm nhạc, những cuộc nói chuyện thú vị - ôi, điều đó, chàng trai trẻ thân mến, nếu cậu tha lỗi cho tôi, là thứ cậu không có khái niệm ở đây! Và nó đã có tất cả; và cả sự kính trọng của những người vĩ đại nhất. Nó nói với tôi rằng nó không được coi trọng ở New York. - Chúa ơi! Bức chân dung của nó đã được vẽ chín lần. Những họa sĩ vĩ đại nhất ở châu Âu đã nài nỉ có được đặc ân đó. Những điều này không là gì cả ư? Và sự ăn năn của người chồng tha thiết nữa?

Khi nữ Hầu tước Manson lên đến cao trào, khuôn mặt bà biểu lộ một sự hồi tưởng ngây ngất mà đã biến sự vui vẻ của Archer thành sự ngạc nhiên chết lặng.

Anh sẽ cười nếu ai đó nói trước với anh là ấn tượng đầu tiên của anh ta về Medora Manson tội nghiệp là hình dáng một sứ giả của Quỷ Sa tăng; nhưng giờ anh không có tâm trạng để cười, với anh bà dường như đến thẳng từ địa ngục nơi Ellen Olenska đã trốn thoát.

- Cô ấy vẫn chưa biết gì… về tất cả điều này chứ? - Anh hỏi vội vã.

Nữ Hầu tước đặt một ngón tay màu tía lên môi.

- Một cách trực tiếp thì chưa biết gì cả - nhưng nó có nghi ngờ không? Ai mà biết được? Thật ra là, cậu Archer ạ, tôi đã chờ để gặp cậu. Từ lúc tôi nghe nói về lập trường vững vàng của cậu và ảnh hưởng của cậu với con bé, tôi hy vọng có thể dựa vào sự ủng hộ của cậu… để thuyết phục cậu…

- Rằng cô ấy nên quay về? Tôi thà thấy cô ấy chết! - Chàng trai trẻ hét lên giận dữ.

- Ôi! - nữ Hầu tước mấp máy, nhưng rõ ràng không phật ý. Bà ngồi trong chiếc ghế bành một lúc, mở và đóng cái quạt ngà voi lố bịch giữa những ngón tay đeo găng hở ngón; nhưng đột nhiên bà ngẩng đầu lên và lắng nghe.

- Nó đến đó - bà khe khẽ nói nhanh, và rồi, chỉ vào bó hoa trên ghế sofa. - Tôi hiểu là cậu thích điều đó, đúng không, cậu Archer? Xét cho cùng, kết hôn là kết hôn… và cháu gái tôi vẫn là một người vợ…