Chương 2 PARIS: 1784-1789
Tôi rất hài lòng với người dân đất nước này. Với họ, những nếp nhăn ký ức được xóa sạch tới mức dường như có thể lướt qua cả một đời chẳng chút vội vàng .
THƯ JEFFERSON GỬI ELIZA HOUSE TRIST
Paris, ngày 18 tháng 8 năm 1785
Tôi là người hoang dã thích những cánh rừng, những vùng hoang vu và sự độc lập của Monticello, hơn tất cả những khoái lạc chói lòa ở chốn kinh đô phồn hoa này .
THƯ JEFFERSON GỬI BARON GEISMAR
Paris, ngày 6 tháng 9 năm 1785
⚝ ✽ ⚝
Người đàn ông này khi tới Paris vào tháng 8 năm 1784 đã già dặn và phức tạp hơn người thanh niên Virginia từng đi vào lịch sử chín năm trước tại Philadelphia. Ông lại đi bằng một cỗ xe phaeton, nhưng lần này là cỗ xe lớn hơn, chắc chắn hơn, do những nô lệ của ông tại Monticello lắp ráp thủ công, với kính bảo vệ bốn phía. Ông đi cùng cô con gái Martha 12 tuổi, được đặt theo tên của mẹ nhưng thường được gọi là Patsy, một cô bé cao lớn khác thường với đôi chân dài, cặp mắt sáng và gương mặt góc cạnh của cha. Một người đồng hành khác của ông là James Hemings, nô lệ lai da đen và da trắng 19 tuổi, đã thay thế Jupiter như một người hầu thân cận. Hemings cũng sẽ học hỏi nghệ thuật nấu nướng Pháp. 1
Họ mất đúng một tuần để đi từ Le Havre đến Paris, dọc theo sông Seine qua Rouen, nơi nhiều thế kỷ trước Nữ anh hùng Joan xứ Arc đã bị thiêu sống. “Tôi không hiểu được tường tận tiếng Pháp nên không chắc là liệu những người nói chuyện với tôi và tôi có cùng nói về một điều hay không”, Jefferson thú nhận. Vấn đề ngôn ngữ đã khiến ông bị những phu khuân vác tại một số điểm dừng “qua mặt trắng trợn”. Nhưng không gì có thể làm hỏng sự kỳ diệu của vùng nông thôn Pháp vào đầu mùa thu hoạch. Khi họ vượt sông Seine tại Pont de Neuilly, Jefferson tuyên bố đó là “cây cầu đẹp nhất thế giới”. Rồi khi lăn bánh tới đại lộ Champs-Élysées, ông đã thật sự bắt đầu một chương mới trong sự nghiệp của mình với tư cách Công sứ toàn quyền của Mỹ tại Pháp. 2
Chúng ta biết rõ hơn dáng dấp ông, vì tiếng tăm ngày càng vang dội đã khiến ông trở thành đối tượng của nhiều bức chân dung, chạm khắc và tượng bán thân trong năm năm ông ở Pháp. Da mặt ông lúc này căng bóng và luôn hồng hào khiến ông trông lúc nào cũng như vừa tập thể dục xong. Tóc ông bây giờ màu hung nhiều hơn màu đỏ, nhưng dày hơn hẳn, cắt theo kiểu che kín hai tai, rồi buộc gọn ở phía sau để đuôi tóc thông dưới cổ áo. Ông vẫn gầy, nhưng giờ thì có cơ bắp hơn nên trông đỡ lênh khênh, đó là nhờ việc đi bộ bốn dặm mỗi ngày và một chế độ khổ luyện bao gồm ngâm chân trong nước lạnh mỗi buổi sáng.
Nhìn chung, ông đẹp hơn theo năm tháng, giống như một nam thanh niên nhút nhát và hơi vụng về nhưng cuối cùng cũng sống thoải mái hơn với những đặc trưng của mình qua nhiều năm. Thời gian cũng đã cho phép ông có một chiều cao với tỷ lệ thích hợp hơn và mang vẻ thanh nhã tự nhiên hơn. Ông vẫn là một người có chiều cao nổi bật trong thời mình. Chúng ta biết rằng khi ông xuất hiện chính thức lần đầu tiên với John Adams và Benjamin Franklin trước triều đình Pháp tại Versailles, sự tương phản về ngoại hình đã gây bất ngờ cho nhiều người có mặt tại đó, giống như đang chứng kiến một viên đạn đại bác, một ấm trà và một giá đỡ nến, tuyên bố mình là bộ ba nước Mỹ. 3
Nếu tuổi tác đã giúp ông có thể chất tốt hơn - có lẽ đây là một lý do căn bản khiến Jefferson luôn nghĩ rằng tương lai đứng về phía ông thì sự già đi cũng giúp tâm lý dày dạn hơn. Cuộc đời nhiều người Mỹ bị rơi vào tình trạng hỗn loạn của cuộc chiến tranh giành độc lập, rồi bị đẩy về phía bên kia của mâu thuẫn lịch sử với những vết sẹo và thương tích không thể xóa nhòa. Dù Jefferson chưa bao giờ chỉ huy quân đội hoặc bắn một phát súng lúc tức giận, nhưng trải nghiệm cá nhân của ông trong và ngay sau chiến tranh với hai vết thương tâm lý đã hun đúc nội lực bên trong ông, thậm chí còn hơn cả những ngày đi bộ đường dài và tắm nước lạnh rèn luyện thân thể.
Vụ việc đầu tiên xảy ra trong nhiệm kỳ hai năm ông làm Thống đốc bang Virginia từ năm 1779 đến năm 1781. Đó là thời điểm tồi tệ nhất có thể xảy ra với một người vốn ưa thích không gian riêng biệt của học thuật và nghiên cứu hơn là đảm nhận nhiệm vụ của một thống đốc, bởi nhu cầu cấp bách trong thời chiến tạo ra vô số các vấn đề về kinh tế, hậu cần và chính trị lớn mà ngay cả nhà lãnh đạo tài ba nhất cũng sẽ thấy khó khăn. Cho dù ông đã nỗ lực hết mình, nhưng nền kinh tế của Virginia vẫn trở nên hỗn độn và nhà nước không thể đáp ứng đủ hạn ngạch về người cho Quân đội Lục địa. Sau đó, Jefferson đã chấp thuận một cuộc viễn chinh, đưa quân đội tinh nhuệ nhất của Virginia vào một chiến dịch vô ích chống lại Detroit, ngay trước khi lực lượng xâm lược Anh dưới sự chỉ huy của Benedict Arnold tràn đến từ vịnh Chesapeake và đốt trụi thủ phủ Richmond. Mọi chuyện còn tồi tệ hơn khi những phân đội kỵ binh thuộc quân đội của Tướng Cornwallis di chuyển nhằm chống lại Charlottesville và suýt bắt được Jefferson tại Monticello. 4
Lan truyền khắp bang câu chuyện về cuộc tẩu thoát nhục nhã vào phút cuối của Jefferson trên lưng ngựa, ám chỉ khá bất công rằng ông đã cư xử một cách hèn nhát và đã không hoàn thành nhiệm vụ của mình, vì đã khiến bang trở nên yếu ớt đến nỗi bị quân đội Anh chiếm đóng. Hội đồng lập pháp Virginia thậm chí đã thông qua một nghị quyết kêu gọi điều tra về tư cách của ông. Cuộc điều tra này rốt cuộc bị hủy bỏ; một nghị quyết cuối cùng đã chính thức xóa bỏ mọi sự kết tội sai trái đối với ông. Nhưng cho dù đó có thể là những rủi ro chiến tranh ngoài tầm kiểm soát của ông hay bất cứ ai, thì chúng cũng đã xảy ra với ông. Vết nhơ thất bại ở cương vị lãnh đạo chẳng bao giờ mất hẳn, mọi chuyện lại được đào bới lên khi ông tranh cử tổng thống vào năm 1796 và lần sau vào năm 1800, và Jefferson nhận ra tri giác nhạy bén của mình không phù hợp với sự lãnh đạo khắc nghiệt trong thời kỳ khủng hoảng. Jefferson tâm sự với một người bạn rằng trải nghiệm ấy đối với các hiệu ứng cảm xúc đã “gây ra một vết thương lòng nơi tôi mà chỉ có thể được chữa khỏi hoàn toàn ở thế giới bên kia”. 5
Vụ việc thứ hai khoét sâu hơn vết thương lòng đầu tiên, và chẳng nghi ngờ gì nữa, đây chính là nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời ông. Vào tháng 5 năm 1782, Martha vợ ông đã trải qua lần sinh nở thứ bảy trong cuộc hôn nhân 10 năm của họ. Con gái, được đặt tên là Lucy Elizabeth, là đứa con thứ ba sống sót, còn Martha thì lâm bệnh nặng sau lần sinh nở ấy. Cơ thể mảnh mai của bà hoàn toàn kiệt quệ sau những lần mang thai liên tục. Bà nằm dài suốt mùa hè, với Jefferson gần như suốt ngày đêm ở bên giường bà. Truyền thuyết gia đình, được gia cố bởi hồi ức của cộng đồng nô lệ tại Monticello, đã mô tả có phần cường điệu cảnh Martha hấp hối trên giường bệnh, ép Jefferson hứa sẽ không tái hôn, vì nghe đâu bà không muốn những đứa con còn sống của mình phải ở với mẹ kế. Ông đã không bao giờ tái hôn. Bà qua đời vào ngày 6 tháng 9 năm 1782. 6
Sáu tuần liền Jefferson không thể nào nguôi ngoai, thổn thức suốt đêm, nghẹn giọng mỗi khi ông cố gắng mở lời. Những lời kể về nỗi đau buồn bất tận của ông từ Monticello lan ra và khiến một số người bạn lo lắng ông bị mất trí. “Tôi biết ông ấy thường đặt hạnh phúc gia đình lên ưu tiên hàng đầu”, Edmund Randolph từng viết, “nhưng không ngờ nỗi đau của ông ấy lại dữ dội đến mức có cả báo cáo về việc ông ấy ngất xỉu mỗi khi nhìn thấy những đứa con của mình”. Cuối cùng ông cũng chịu ra khỏi cuộc sống ẩn dật, cưỡi ngựa băng qua những khu rừng trong vùng, và Patsy đã trở thành bạn đồng hành thường xuyên của ông trong những chuyến đi được cô gọi là “những cuộc ngao du u sầu ấy”. 7
Ông đồng ý nhậm chức vụ ngoại giao ở Paris để phần nào cố quên đi thảm kịch này và chạy trốn ký ức về Martha tại Monticello. Nhưng vết thương vẫn in hằn trong ông, không bao giờ khép miệng hoàn toàn. Chúa cũng thấy đau lòng khi ghé xuống gia đình lý tưởng mà ông đã dày công xây dựng nhưng lại bị mất đi điều quan trọng nhất. (Jefferson dường như không hề cố tình để bà mang thai, không hề được cảnh báo về việc sức khỏe của bà xấu đi sau mỗi lần sẩy thai hoặc sinh nở). Chúng ta không thể biết chắc là liệu ông có hứa với người vợ đang hấp hối rằng mình sẽ không bao giờ tái hôn nữa như truyền thuyết về gia đình này thường kể hay không, nhưng lời ông tự hứa với bản thân chắc chắn cũng có hiệu lực tương tự: Ông sẽ không bao giờ để tâm hồn mình phải chịu nỗi đau đớn như thế nữa; ông thà cô đơn còn hơn bị tổn thương.
Nếu như chúng ta có thể biết rõ về dáng vẻ và cảm nhận của ông khi đến Paris vào cuối mùa hè năm 1784, thì những gì ông nghĩ vẫn còn là điều bí ẩn. Ông là một nhà tư tưởng chính trị có tiếng tăm, nhưng không phải từ việc ông là tác giả của Tuyên ngôn Độc lập bởi thành tựu này vẫn chưa được nhiều người biết đến, mà chủ yếu nhờ vào công tác lập pháp của mình trong Hội đồng lập pháp Virginia và Quốc hội liên bang. Từ năm 1776 đến năm 1779, ông gần như đơn thương độc mã cố gắng cải cách triệt để đạo luật của Virginia, kêu gọi hủy bỏ chế độ gia trưởng và quyền thừa kế của con trưởng vì đây là những tàn tích cuối cùng của chế độ phong kiến Anh, cải cách luật hình sự để hạn chế việc áp dụng án tử hình, mở rộng quyền bầu cử cho cả những điền chủ độc lập ở miền Tây, mở rộng hệ thống trường công lập của bang, và quan trọng nhất là loại bỏ việc thành lập Anh giáo, ủng hộ việc tách hẳn nhà thờ ra khỏi nhà nước.
Nỗ lực phi thường này trong cải cách lập pháp lại tỏ ra quá xa vời đối với những đồng nghiệp của ông ở Hội đồng lập pháp Virginia, họ đã bác bỏ tất cả những lần ông đề xuất hủy bỏ chế độ gia trưởng và quyền thừa kế của con trưởng, cho dù chúng đang trên bờ vực chết dần chết mòn đầy hiển nhiên. Nhưng sức ép về tư duy chính trị của ông khá rõ ràng: phải loại bỏ mọi rào cản pháp lý và chính trị đối với năng lực cá nhân để tạo ra điều mà ông gọi là “một sự mở ra đối với giới quý tộc đức hạnh và tài năng”. Đó là một nỗ lực hiệu quả nhằm thực hiện những lý tưởng được nêu trong phần về quyền tự nhiên của Tuyên ngôn. Nhưng rõ ràng là những ý tưởng mà ông yêu thích luôn đi trước dư luận vài bước. Ông là một nhà tiên tri thì đúng hơn là một chính khách. 8
Mô hình tương tự được tổ chức đúng như vậy trong Quốc hội Liên bang tại Philadelphia. Trong suốt mùa đông và mùa xuân năm 1784, ông tập trung vào việc cải cách hệ thống tiền đúc, thuyết phục thành công việc sử dụng đồng đô-la và các đơn vị tiền lẻ thay cho đồng bảng và shilling Anh. Ông cũng đã cố gắng nhưng không thể thay thế được hệ thống đo lường và trọng lượng theo hệ Anh bằng các tiêu chuẩn theo hệ mét. Ông đã viết Pháp lệnh năm 1784, thiết lập các nguyên tắc mà theo đó tất cả các bang mới sẽ được nhận vào Liên minh trên cơ sở bình đẳng với các bang hiện có. Điều khoản cuối cùng là yêu cầu chấm dứt chế độ nô lệ tại tất cả các bang mới thành lập vào năm 1800. Nhưng Pháp lệnh này bị bãi bỏ vì thiếu một phiếu bầu, khiến sau này Jefferson phải thốt lên rằng “số phận của hàng triệu sinh linh chưa ra đời đang bị treo trên lưỡi của một người, và Thiên đàng im lặng trong giây phút khủng khiếp ấy!” Đó là dự thảo có tác động sâu rộng nhất nhằm chấm dứt chế độ nô lệ mà Jefferson từng viết ra, và cũng là những nỗ lực chống lại chế độ nô lệ mạnh mẽ nhất của ông, vì sau này ông phải rút lui để giảm bớt mức độ, thận trọng và trì hoãn. 9
Trong suốt mùa xuân năm 1784, ông đã bày tỏ sự thất vọng trước sự kết hợp giữa thói lười biếng và tính ba hoa làm tê liệt cả Quốc hội. (Hầu như không thể tập hợp được số đại biểu tối thiểu để phê duyệt hiệp ước hòa bình chấm dứt chiến tranh với Anh). Căn cứ vào thái độ chống đối sau này của ông trước chính quyền liên bang hợp nhất dưới hầu hết mọi hình thức, thì sự thiếu kiên nhẫn của ông đối với những gì ông gọi là “những tranh giành vụn vặt giữa các bang” tại thời điểm này cho thấy ông chỉ đang hợp tác tạm thời khi chấp nhận chính quyền liên bang như một giải pháp khắc phục sự tranh cãi giữa địa phương và khu vực. Ông tâm sự với bạn bè về niềm tin của mình rằng nếu Các điều khoản Hợp bang cho phép chính phủ liên bang kiểm soát những vấn đề đối ngoại thì nó cũng mặc nhiên có quyền đối với ngoại thương và thương mại. (Sự chứng thực này đối với học thuyết về quyền lực ngụ ý đã trở lại ám ảnh ông một thập niên sau đó). Ông muốn chứng kiến những hiệp ước về hữu nghị và thương mại được đàm phán với các quốc gia châu Âu, một phần vì những lợi ích kinh tế mà chúng sẽ đem lại, nhưng theo ông chủ yếu là bởi “vào thời điểm các hiệp ước này cho phép Quốc hội có quyền quản lý thương mại của các bang, thì quyền lực của các bang sẽ bị xóa bỏ…” 10
Tóm lại là sau đó, người đàn ông này tới Paris với tư cách là Công sứ toàn quyền của Mỹ, chứ không còn là chàng thanh niên vùng Virginia từng thảo ra Tuyên ngôn Độc lập nữa. Ông nổi tiếng hơn, có ngoại hình ấn tượng hơn, tự tin hơn với những tố chất và khả năng thiên bẩm của mình. Ông là một nhà lập pháp dày dạn hơn, dù vẫn là và luôn là một con người hay lý tưởng hóa với tài năng tuyệt vời hơn trong việc lường trước được những thứ cần thiết hơn cả kỹ năng để dẫn dắt những người khác hướng tới tương lai mà ông hình dung ra. Ông cũng là một người đàn ông từng trải hơn, ít bị tổn thương và bớt nhạy cảm hơn vì đã bảo vệ khéo léo hơn những vùng riêng tư của mình khỏi những vị khách không mời bằng cách sắp đặt các lớp phòng thủ bên trong theo kiểu từ chối xâm nhập ở mọi trạm kiểm soát. (Kỹ năng tâm lý này cũng giúp ông rất nhiều khi ở cương vị một nhà ngoại giao). Cuối cùng, ông đã kết hợp được tầm nhìn không tưởng của mình về một xã hội Mỹ của các cá nhân được giải phóng và tự do mưu cầu hạnh phúc sau khi rũ bỏ gánh nặng thối nát từ Anh cùng chế độ phong kiến châu Âu, với sự công nhận thực tế hơn về một nước Mỹ độc lập yêu cầu một kiểu chính quyền liên bang nào đó phải phối hợp tốt năng lượng đang bùng nổ với năng lượng dư thừa. Không chỉ không từ bỏ thuyết cấp tiến của mình thời tuổi trẻ, ông còn trở thành một nhà dân tộc chủ nghĩa nhiệt thành.
BẠN BÈ VÀ CƯỚP BIỂN
Chuyện thu xếp nơi ăn ở cho mình và đoàn tùy tùng mất nhiều thời gian hơn ông dự kiến. Thoạt tiên, ông gặp vấn đề về sức khỏe, trong khi trước đó thường rất tốt, dù thỉnh thoảng bị tái phát chứng đau nửa đầu. Rồi ông bị cảm lạnh nặng trong vòng vài tuần, tới nỗi ông không thể nhúc nhích được trong suốt sáu tháng. “Tôi đã có một mùa đông rất tệ”, ông giải thích với bạn mình là James Monroe ở quê nhà Virginia, “bị ốm liệt giường gần hết cả mùa đông. Một mùi vị mà người ta nói là thường xảy ra nhiều nhất với những người lạ: tôi tin rằng chưa có ai có trải nghiệm tệ hơn mình. Không khí cực kỳ ẩm thấp, còn nước thì rất độc. Mặt trời ấm áp (vị bác sĩ toàn năng của tôi) đã ghé thăm chúng tôi trong ba tuần qua, và tôi thấy mình gần như được tái sinh”. Dù cuối cùng thì ông cũng yêu mến con người, rượu vang và kiến trúc Pháp, nhưng thời tiết lại là vấn đề khác, khiến ông cảm giác gần như lúc nào cũng có một đám mây che phủ bầu trời chốn này ở Tây Âu, làm cho con người ở đây xanh xao và yếu ớt. 11
Tiếp theo là vấn đề ngôn ngữ. Jefferson khá nổi tiếng về khả năng ngoại ngữ, bao gồm các thứ tiếng Latin, Hy Lạp, Pháp và Ý. Ông thậm chí còn tuyên bố rằng mình đã tự học tiếng Tây Ban Nha trên chuyến đi đến Pháp bằng cách đọc Don Quixote với sự trợ giúp của một cuốn sách ngữ pháp. (Nhiều năm sau, khi đã là Tổng thống, Jefferson có kể lại điều này trong bữa tiệc tối. John Quincy Adams có mặt tại bữa tiệc tối hôm đó với Tổng thống và đã ghi lại câu chuyện này trong hồi ký của mình, và bổ sung: “Nhưng Jefferson đã hơi phóng đại câu chuyện”). Sự thật có vẻ là Jefferson đọc thông thạo tiếng nước ngoài nhưng lại không nói hoặc viết được. Kể cả sau năm năm ở Pháp, ông cũng không thể nói tiếng Pháp đủ trôi chảy để trò chuyện thoải mái, và ông chưa bao giờ tin vào khả năng viết tiếng Pháp của mình nên vẫn cần tới phiên dịch viên khi soạn thảo thư từ công vụ. 12
Cuối cùng là vấn đề về nơi ở. Ông như con thoi di chuyển giữa một loạt khách sạn trong vài tháng đầu, sau đó vào tháng 10 năm 1784 thì ký hợp đồng thuê một biệt thự tại Cul-de-sac Taitbout trên Bờ Phải (11) . Nhưng nơi này lại thiếu thốn và bất tiện, vì vậy năm sau ông bèn chuyển tới Hôtel de Langeac trên đại lộ Champs-Élysées gần Khải Hoàn Môn ngày nay, sau đó ra vùng ngoại ô thành phố. Ông đã thuê toàn bộ tòa nhà ba tầng sang trọng và rộng rãi, ban đầu được một quý tộc Pháp xây cho tình nhân. Nơi này đã trở thành Monticello tại Paris của ông, sau khi hoàn thiện đã có nhiều phòng khách lớn, ba dãy phòng nghỉ riêng biệt, chuồng ngựa, một khu vườn và đầy đủ đội ngũ hầu cận, giúp việc, đầu bếp, cộng với một phu xe và người làm vườn. Khá xa hoa và tốn kém - tiền thuê nhà và đồ nội thất vượt quá mức lương 9.000 đô-la hằng năm của ông - nhưng đó là những gì ông cần để cảm thấy ở nước ngoài như ở nhà. 13
(11) Nguyên văn: Right Bank.
Khi mọi sắp xếp cuối cùng đã ổn thỏa, Jefferson liền xây dựng một hệ thống hỗ trợ rộng rãi với những người giúp việc, thư ký và thầy dòng, có thể bảo vệ ông về cả thể chất lẫn tinh thần giống như ông có khi ở đồn điền Virginia. Jefferson là nhân vật trung tâm của ngôi nhà. (Patsy đã được gửi tới một trường dòng, Abbaye Royale de Panthemont, nơi Jefferson tin tưởng và thường cảm thấy cần phải tự trấn an - ngôi trường này nổi tiếng là có thái độ thoải mái đối với sinh viên không theo Công giáo. Cô chỉ về nhà vào những dịp cuối tuần đặc biệt). Vòng bảo vệ bên trong được điều hành bởi James Hemings - người hầu riêng của Jefferson khi không phải tham dự các lớp học nấu ăn, và Adrien Petit -quản gia quán xuyến mọi việc trong gia đình và quản lý người làm. Vòng bảo vệ tiếp theo xử lý các vấn đề chính trị và ngoại giao, do hai thư ký quản lý: David Humphreys, nhà thơ 32 tuổi đến từ Connecticut từng phục vụ George Washington trong thời chiến và hiện gắn bó với Jefferson như ngôi sao đang lên nhanh nhất trong đội ngũ lãnh đạo tài năng của Mỹ, và William Short, một sinh viên luật 25 tuổi tốt nghiệp trường William & Mary, được Jefferson đỡ đầu và bảo trợ, là thủ tục của Jefferson trong mọi vấn đề chính trị. 14
Vòng ngoài cùng là bộ máy cố vấn và tham mưu được đặt ở Mỹ, dựa trên một loạt những phát ngôn ở Virginia và Hội nghị tại Philadelphia để từ đó James Madison và James Monroe gửi đi những báo cáo định kỳ, thường được mã hóa để che giấu thông tin nhạy cảm. Madison, Monroe và Short cùng đại diện cho một bộ phận thế hệ trẻ có tài năng chính trị ở Virginia vốn coi Jefferson như người lãnh đạo danh nghĩa; có người ngang tuổi với em trai ông và hầu hết ngang tuổi với con ông. Việc trao đổi thư từ với Madison cho thấy khởi đầu của sự hợp tác kéo dài 50 năm, có lẽ là duy nhất trong lịch sử Mỹ, và trong mối quan hệ đó Madison là thành viên ít tuổi luôn trung thành. (Madison đã kế nhiệm Jefferson làm Tổng thống; sau đó Monroe kế nhiệm Madison, như vậy người của Jefferson đã thay nhau giữ chức tổng thống trong vòng 24 năm đầu của thế kỷ 19). Jefferson đã rèn luyện cả ba thanh niên trẻ của Virginia như những người được ông đỡ đầu, thậm chí còn hình dung ra cái ngày họ sẽ sống bên cạnh ông tại Monticello. Vào tháng 2 năm 1784, ông đã chia sẻ giấc mơ này với Madison: “Monroe đang mua mảnh đất gần như sát vách với tôi. Short cũng sẽ làm như vậy. Tôi cho là cậu cũng có thể sẽ rơi vào vòng tròn đó. Với một xã hội như thế này mà tôi có thể hơn một lần đánh liều xây nhà và ung dung tự tại trong suốt phần đời còn lại, gác lại mọi ganh đua ngày càng không thể chịu nổi. Hãy suy ngẫm về điều đó. Để hiện thực hóa điều gì chỉ có cách là cậu phải nghĩ nó đúng như vậy”. Vừa là đội cận vệ, vừa gần như là thành viên trong đại gia đình của ông, những thanh niên Virginia này đã xác định Jefferson sẽ là người kế nhiệm Washington trong vai trò lãnh đạo bang và đất nước. Phần lớn thời gian trong năm đầu tiên của Jefferson ở Pháp được dành để thiết lập mạng lưới liên lạc của triều đại Virginia đang manh nha này. 15
Quá trình ổn định cuộc sống trong năm đầu tiên ấy còn bao gồm một biến động cuối có ý nghĩa lịch sử lâu dài, đó là mối quan hệ của Jefferson với gia đình Adams. Khi John Adams biết tin Jefferson được bổ nhiệm thì đã cho biết mình rất hài lòng: “Jefferson là một tay xuất sắc”, ông hồi âm bạn bè ở New England. “Quý vị không thể gửi tới ai tốt hơn”. Khi một số thành viên Quốc hội bày tỏ lo ngại về thứ chủ nghĩa lý tưởng quá mức của Jefferson, Adams chẳng hề bận tâm về điều đó: “Người bạn cùng chí hướng của tôi tại Quốc hội, tám hay chín năm trước đây, trải qua thời Tryals gian khổ, đặc biệt trong quá trình dự thảo Tuyên ngôn Độc lập..., tôi thấy ở ông ấy sự đồng điệu về mặt trí tuệ và là một Con người thận trọng, một Người ái quốc kiên định”. Người vợ Abigail, con gái Nabby và con trai John Quincy đã đi cùng Adams vào đúng cái tuần Jefferson đến Pháp. Suốt chín tháng, cho đến khi Adams được cử đến London với tư cách Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Triều đình St. James, khu nhà Adams ở Auteuil đã trở thành ngôi nhà thứ hai của Jefferson. 16
Hơn 50 năm sau, và sau một giai đoạn với những bất đồng chính trị quyết liệt đã khiến tình bạn của họ trở nên xung đột gay gắt, nhưng Adams vẫn trân trọng nhớ lại thời kỳ này. Chẳng hạn, khi John Quincy đắc cử Tổng thống vào năm 1824, Adams đã nhắc Jefferson rằng “John của chúng ta” đã thắng. “Tôi gọi là John của chúng ta”, ông giải thích, “bởi khi anh ở Cul de sac tại Paris, John như là con trai anh và con trai tôi”. Mối quan hệ đặc biệt giữa Adams và Jefferson bắt nguồn từ sự hợp tác chính trị của họ vào năm 1776, nhưng sự gắn bó tình cảm sâu sắc giữa hai người lại diễn ra ở Pháp trong thời gian 1784-1785. 17
Abigail Adams giữ một vai trò rất quan trọng. Mùa đông đầu tiên của Jefferson ở Paris là một trận ốm kéo dài và gần như suy nhược. Bà coi sóc kỹ sự phục hồi của ông trong suốt mùa xuân, và sau đó ông ở cùng cả gia đình Adams trong phòng khách của họ, nói chuyện phiếm, bình luận về mọi vấn đề ngoại giao và trong nước. Abigail là mối liên kết giữa những câu hỏi về chính sách đối ngoại với các ưu tiên dành cho gia đình, có lẽ bà là người phụ nữ đầu tiên mà Jefferson biết rõ vì đã kết hợp được phẩm chất truyền thống của một người vợ-người mẹ với suy nghĩ và phát ngôn sắc bén của một cộng sự đúng nghĩa trong sự nghiệp của chồng. Jefferson từng luôn cho rằng những ưu điểm khác biệt này là những khuynh hướng tồn tại độc lập mà Chúa hay tạo hóa theo một cách nào đó quan niệm là nên tách biệt. Tuy nhiên, chúng lại hội tụ ở Abigail. Bà chính là Martha với một trí tuệ của riêng Abigail. Ghi chép về những cuộc trò chuyện buổi chiều, khỏi cần phải nói, là không hề tồn tại. Nhưng nhân vật và nội dung của các câu chuyện đùa ấy vẫn đầy ắp trong những lá thư vui tươi mà họ trao đổi với nhau sau khi gia đình Adams chuyển đến London.
Đầu tiên là mối quan hệ ngưỡng mộ lẫn nhau và tán tỉnh hài hước. Abigail nhờ Jefferson mua vài bản sao nhỏ của bức tượng cổ. Jefferson trả lời: “Với lòng kính trọng các nhân vật mà bà nêu tên, tôi chỉ có thể tìm thấy ba bức tượng phù hợp về kích cỡ. Đó là Minerva, Diana và Apollo. Tôi xin được thêm vào bức tượng thứ tư, không nằm trong lựa chọn của bà. Họ mời tôi mua một bức tượng Venus tuyệt đẹp, nhưng tôi nghĩ là không hợp nếu bày hai bức tượng trên bàn cùng một lúc”. Hoặc Abigail đề nghị Jefferson khảo sát các cửa hàng ở Paris để tìm vải ren đen và giày tiệc tối, cuối thư lại xin thứ lỗi đã “gây phiền hà cho ông vì những chuyện vặt vãnh”, những chuyện “hơi giống như bắt Hercules kéo sợi” (12) . 18
(12) Ngụ ý làm công việc của nữ giới.
Rồi họ tiếp tục pha trò về sự đồi bại cố hữu của nhà vua và nước Anh. Jefferson kể rằng “nơi đây có câu chuyện khó hiểu về một người cố gắng ám sát đức vua của bà [tức George III]. Tôi chưa chân thành cầu nguyện cho người nào trên Trái đất này được tiếp tục sống hơn ông ta. Ông ta thật sự là Cứu tinh của Mỹ..” Abigail thì thấy mọi chuyện bắt nguồn từ các tờ báo tiếng Anh đều là giả dối: “Tôi xin nói rằng đó là lời giải thích sai đến tệ hại - nếu nói như vậy là không quá thô lỗ với một Quý bà, tuy nhiên tôi sẽ tìm một cách nói ít biểu cảm hơn và chỉ nói sai giống như người Anh”. Jefferson hỏi bà xem liệu ông có thể làm điều gì trong khả năng chính thức của mình để cải thiện cách cư xử kiểu Anh hay không. Abigail cho ông hay rằng “cần nhiều sản phẩm của Pháp như Lương tri, Bản tính tốt đẹp, Khôn ngoan chính trị và lòng bác ái”; Jefferson sẽ “hỗ trợ Đức vua Anh nếu ông ấy cho phép nhập khẩu những Hàng hóa kiểu này vào vương quốc của mình”. 19
Cuối cùng, đó là vấn đề về trách nhiệm làm cha của Jefferson. Khi nhà Adams vẫn còn ở Paris, Jefferson nhận được tin con gái út Lucy - khi sinh cô bé này bà Martha lâm trọng bệnh - đã mất vì bệnh ho gà ở quê nhà Virginia. Abigail đã giúp Jefferson vơi đi nỗi buồn khi ông chìm sâu vào sự chán nản, và họ đã phát triển một sự đồng cảm đặc biệt như những bậc làm cha mẹ. Khi Nabby con gái bà thông báo ý định kết hôn với Đại tá Stephen Smith, thư ký riêng của chồng mình, Abigail đã đề xuất một sự thu xếp lạ đời với Jefferson: “Giờ tôi đang nghĩ đến một cuộc trao đổi với ông. Giả sử ông giao cho tôi cô Jefferson [Patsy], và một ngày nào đó trong tương lai nhận lại một cậu con trai [cháu của bà] thay thế cho cô ấy. Tôi ủng hộ xúc tiến [một] liên minh thống nhất”. 20 Nhưng hầu hết những lời khuyên với tư cách người mẹ của Abigail đều liên quan tới cô con gái thứ của Jefferson là Maria, còn gọi là Polly. Jefferson đã để cô bé sống với họ hàng tại Virginia khi mới 4 tuổi, và phần vì bị Abigail thúc giục, nên ông đã quyết định mạo hiểm với hành trình xuyên Đại Tây Dương để đón cô bé sang Paris đoàn tụ với gia đình. Abigail đứng chờ tại cầu tàu ở London khi Polly đến và lập tức để Jefferson làm quen với truyền thống lâu đời khá thẳng thắn của gia đình Adams.
Polly vô cùng xinh xắn. “Tôi chưa từng thấy đứa trẻ nào có nét mặt thông minh đến vậy”, Abigail viết, và những niềm vui cô bé mang đến cho tôi là sự đền đáp to lớn cho mọi điều nhỏ nhặt mà tôi có thể làm cho cô bé”. Nhưng Jefferson cần phải đối mặt với những thất bại của mình như một người cha: “Tôi cho cô bé xem hình của ông. Cô bé bảo không biết, làm sao cô bé biết được khi chẳng biết gì về ông”. Khi Jefferson viết thư nói rằng việc công quá bận bịu nên ông không thể vượt Eo biển để đón Polly, vì vậy ông đã phái quản gia Petit đi, thì Abigail cảm thấy bắt buộc phải nhấn mạnh rằng Jefferson cần chứng kiến phản ứng của Polly trước tin này: “Dù cô bé nói không nhớ gì về ông, nhưng cô bé được dạy phải dành cho ông tình cảm và lòng yêu thương, tùy thuộc vào việc ông có đến bên cô bé hay không. Sáng nay, cô bé nói với tôi rằng cô bé đã để lại tất cả bạn bè ở Virginia để vượt qua đại dương tới gặp ông, cô bé đã nghĩ giá như ông có thể cố gắng đến đây gặp nó, và đừng cử tới một người [Petit] mà cô bé không biết là ai. Tôi bày tỏ nỗi lòng của cô bé”. 21 Như thể vẫn chưa đủ, Abigail bị ngỡ ngàng khi sau đó con người tự nhận rất yêu con mình lại có thể tin tưởng giao chúng cho các nữ tu Công giáo chăm sóc. Quyết định gửi Patsy vào tu viện ở Panthemont đã khiến bà luôn trăn trở. Giờ đây khi Polly cuối cùng đã đoàn tụ với cha, “tôi hy vọng rằng cô bé sẽ không đánh mất tâm hồn tinh tế của mình trong những bức tường tu viện, một nơi có lẽ là tôi có nhiều định kiến sai”. 22
Mối quan hệ của Jefferson với John Adams cũng dựa trên mối thâm tình mà họ dành cho nhau, sự thẳng thắn bộc trực từ phía Adams thường buộc Jefferson phải đối mặt với khoảng cách cố hữu giữa lý tưởng của mình với thực tại hỗn độn của trần thế. Về phần mình, Jefferson là một đối tác cực kỳ chín chắn và chăm chỉ của Adams trong việc đại diện cho lợi ích của Mỹ ở châu Âu. Abigail tuyên bố Jefferson là “người duy nhất mà bạn đời của tôi có thể hợp tác hoàn toàn thoải mái, chẳng cần đề phòng...” Cùng nhau, hai người này là những sự đối lập mà thu hút: một người New England mập mạp, thẳng thắn, với tính cách lôi cuốn và sắp đặt chuyên nghiệp, và một người Virginia gầy gò, luôn khó nắm bắt với vẻ ngoài lãnh đạm và hầu như trầm lặng đến lạ lùng. Người này dường như đều cảm thấy ở người kia có những phẩm chất bù đắp cho sự thiếu hụt nơi tính cách của mình. Trong bầu không khí hòa nhã do Abigail tạo ra tại Auteuil, họ có được điều kiện thoải mái cho phép mình đánh giá cao sự hấp dẫn trong tính cách của người kia, “hoàn thiện” lẫn nhau (nếu cho là như thế) và tạo ra một đội ngũ nhà ngoại giao thật sự đáng gờm trong giai đoạn này. 23
Là những sản phẩm đặc thù của cuộc chiến giành độc lập, họ chia sẻ một cam kết bất tận về triển vọng đối với một nước Mỹ độc lập và một sự hồ nghi vô hạn không kém về chính sách của Anh đối với các thuộc địa cũ của mình. Jefferson tuyên bố ông áp dụng “một quy tắc không thể sai được cho việc quyết định những gì mà nước đó [Anh] sẽ làm trong từng trường hợp”. Đó là một quy tắc đơn giản, cụ thể là “xem xét những gì họ nên làm, và xem xét những gì ngược lại với điều đó như những gì họ chắc chắn sẽ làm…” Ông tuyên bố bằng cách áp dụng công thức này, ông “không bao giờ bị lừa”. Adams hoàn toàn đồng tình. “Nếu John Bull không nhìn thấy… một điều gì đó ngay từ đầu”, ông đồng tình với Jefferson, “thì bạn biết đấy, đó là một quy tắc mà mãi về sau ông ấy vẫn thề rằng nó không tồn tại, kể cả khi ông ấy vừa nhìn thấy và vừa cảm nhận được nó”. Adams tin rằng bị thất bại trong cuộc chiến với Mỹ và mất đi khá nhiều lãnh thổ ở nước ngoài đã khiến đa phần người Anh không thể vô tư được nữa khi nghĩ về những thuộc địa cũ của họ. Ông kết luận: “Họ ít quan tâm đến chúng ta so với những người da đỏ Seminole”. Thậm chí đã có một thời điểm kịch tính, gần như cường điệu hóa, khi sự bài xích Anh của họ được gắn với một lời thề máu mang tính tượng trưng. Khi Jefferson tới thăm Adams tại Anh vào mùa xuân năm 1786, hai nhà cựu cách mạng đã đến diện kiến triều đình, và George III quay lưng lại với cả hai người một cách hợm hĩnh. Cả hai đều không bao giờ có thể quên được sự xúc phạm ấy. 24
Ngoài nỗi hận thù của họ với Anh và chung sự phẫn nộ trước tính kiêu ngạo khó chịu của nhà vua, tình bạn tồn tại còn vì Jefferson luôn chiều ý Adams. Sau tất cả, Adams có chức vụ cao hơn và đang đàm phán với người Pháp và Anh đã năm năm. Sự tôn kính của Jefferson bắt đầu ngay sau khi ông đến Pháp: “Ông nghĩ gì về Dự thảo kèm theo đây được đệ trình lên triều đình London và Versailles?” Jefferson hỏi. “Tôi biết điều đó vượt quá thẩm quyền của chúng ta, và cũng vượt quá quyền hạn của Quốc hội. Nhưng rõ ràng là vì lợi ích của các bang nên tôi sẽ không ngại mạo hiểm chính mình nếu ông cũng đang có ý kiến tương tự”. Đề xuất này hình dung công dân mọi quốc gia có quyền như nhau, tự do thương mại hoàn toàn và có một hệ thống cải cách luật pháp quốc tế. Đúng, Adams trả lời, đó là một đề nghị “đẹp đến mức lý tưởng”, nhưng không may là nó cũng hoàn toàn không phù hợp với bối cảnh châu Âu khốc liệt hiện nay: “Ông bạn ạ, chúng ta không được hão huyền trước những cảm giác Tự do của riêng mình. Nếu chúng ta không thể có tự do như nhau, chúng ta sẽ phải chấp nhận các sự Cấm đoán, Ngăn chặn, Độc quyền và đánh Thuế nhập khẩu hàng hóa lẫn nhau. Những đề xuất của chúng ta là công bằng, và hơn cả công bằng. Nếu chúng bị từ chối, chúng ta không được để bị lừa nữa”. 25
Motif ấy cứ lặp đi lặp lại khi bàn luận về chính sách của Mỹ đối với vấn đề gây nhiều tranh cãi về cướp biển Barbary. Một số nước Hồi giáo dọc bờ biển Bắc Phi có truyền thống cướp bóc tàu bè của thương nhân châu Âu và Mỹ ở phía tây Địa Trung Hải và phía đông Đại Tây Dương, bắt cóc thuyền viên và sau đó đòi tiền chuộc từ các chính phủ để thả người. Trong một thông điệp chung gửi cho cấp trên trong Quốc hội, Adams và Jefferson đã mô tả sự táo bạo của các cuộc tấn công khủng bố, những tên cướp biển mồm ngậm dao găm nhảy xuống con tàu không có khả năng tự vệ. Adams và Jefferson giải thích, họ đã hỏi Đại sứ đến từ Tripoli xem dựa trên căn cứ nào để có thể bào chữa cho những hành vi cực kỳ dã man thiếu kiềm chế này: “Đại sứ đã trả lời chúng tôi rằng những hành động này hình thành dựa vào Luật lệ của Nhà tiên tri được viết trong kinh Koran, rằng tất cả các quốc gia đều không thừa nhận quyền lực của họ là tội ác, rằng họ có quyền và nghĩa vụ gây chiến bất cứ nơi nào có thể, và họ có thể giam giữ nô lệ của mọi quốc gia như tù nhân..” 26 Jefferson thấy không thể hiểu nổi cái nạn tống tiền ngày một tăng như vậy và nó vượt quá bất kỳ nguyên tắc nào được luật pháp hoặc công lý thừa nhận. Ban đầu, ông đề xuất Mỹ từ chối trả tiền chuộc, thay vào đó là cử một lực lượng hải quân tới Địa Trung Hải để dạy cho những kẻ ngoài vòng pháp luật nơi biển khơi một bài học. Sau đó, ông bổ sung đề xuất của mình với một chương trình toàn diện, theo đó Mỹ sẽ tổ chức một lực lượng đặc nhiệm quốc tế bao gồm tất cả các quốc gia châu Âu có tàu bị tấn công. “Công lý và Danh dự ủng hộ chiến dịch này”, ông giải thích với Adams, và có lẽ nó sẽ tốn ít chi phí hơn trong thời gian dài khởi động. 27
Adams đồng ý rằng không thể đàm phán với cướp biển Barbary, như đã từng nói, “Avarice và Fear là Đặc vụ duy nhất tại Algiers...” Nhưng Adams nhận thấy Jefferson ước tính chi phí quá thấp. Phải tốn ít nhất 500.000 bảng Anh mỗi năm để duy trì một lực lượng hải quân trong khu vực. Quốc hội sẽ không bao giờ phê chuẩn một số tiền lớn như vậy. Và dù sao thì Mỹ cũng chẳng có lợi gì khi cử đi lực lượng hải quân. Ông thông báo cho Jefferson: “Vì những nguyên nhân này, tôi kết luận khôn ngoan hơn cả là chúng ta đàm phán và trả những Khoản cần thiết, mà không mất Thời gian..” Adams nhấn mạnh rằng giải pháp của Jefferson, dù táo bạo và hoàn toàn xứng đáng được tôn trọng theo đúng nghĩa, nhưng là một ý tưởng chưa gặp thời. “Quốc hội sẽ không bao giờ, hoặc ít nhất là trong nhiều năm tới, chấp thuận Nghị quyết này”, ông lưu ý Jefferson, “và trong thời gian này, Thương mại và Danh dự của chúng ta nằm ngoài Dự tính. Chúng ta không nên đánh nhau với chúng trừ phi chúng ta xác định đánh nhau mãi mãi”. Jefferson vẫn không thấy thuyết phục, nhưng đồng ý rằng quan điểm của Adams sẽ là cơ sở cho quan điểm chính thức của Mỹ: “Ông đạt kết quả theo cách khác với những gì tôi làm”, ông viết thư cho Adams ở London, nhưng “đâu có ý nghĩa gì; bởi tôi không có quyền quyết định trong việc này”. 28
Có thể nhận thấy ban đầu ở Jefferson là một giọng điệu oán giận đối với chủ nghĩa hiện thực của Adams luôn cắt ngang tầm nhìn rộng lớn của ông. Jefferson thậm chí đã cố qua mặt Adams bằng cách nhờ một bên thứ ba trình bày đề xuất của ông về lực lượng hải quân quốc tế trước Quốc hội, nhưng mánh này đã thất bại khi bị Quốc hội bác bỏ ngay lập tức, như Adams đã dự đoán trước đó. Nếu ai đó đang tìm kiếm những dấu hiệu đầu tiên của sự va chạm có thể xảy ra giữa những cộng sự lâu năm ấy, thì đó chính là lúc này. Nhưng cái trò hai mặt nhất thời của Jefferson vẫn không thể làm mất đi sự ngưỡng mộ chân thành của ông dành cho Adams. Sự ngưỡng mộ này sâu sắc đến mức ông công nhận rằng Adams có những quyết định chiến lược với một tinh thần dẻo dai, một năng lực tỏa sáng giữa những lời bóng gió, công kích. “Quả thực, con người ấy phải là một tảng đá”, Jefferson viết thư cho Abigail, “thì mới có thể chịu đựng được mọi thứ”. Ông tiếp tục thú nhận rằng mình cảm thấy thiếu tự tin trong những tình huống đối kháng và luôn coi Adams như một cố vấn thông thái: “Tôi không thích khó khăn. Tôi thích yên tĩnh, sẵn sàng làm nhiệm vụ của mình nhưng lại dễ bị kích động trước những lời phỉ báng, và dễ cảm thấy áp lực từ cương vị của mình. Đây là các điểm yếu mà lý trí và những lời khuyên của bà sẽ bảo vệ được ông Adams”. 29
NGOẠI GIAO VÔ ÍCH
Tất nhiên vẫn có một Công sứ Mỹ thứ ba ở Pháp, nổi tiếng hơn nhiều so với hai người kia. Benjamin Franklin đã từng đại diện cho quyền lợi của Mỹ ở nước ngoài lâu hơn bất kỳ nhà ngoại giao nào, và uy tín của ông ở Pháp đã đạt tới tầm vóc sử thi. Ông là hiện thân rõ ràng của các giá trị Mỹ ở dạng đơn giản hấp dẫn nhất. Khi Franklin và Voltaire ôm nhau trước đám đông ở Paris, nó đã tạo nên một tin giật gân trên báo chí Pháp về sự đoàn kết giữa hai nhà đấu tranh vĩ đại nhất vì sự khai sáng của con người ở thế kỷ rực rỡ nhất của lịch sử. Jefferson coi Franklin là người Mỹ vĩ đại thứ hai của thế hệ cách mạng, chỉ sau Washington, nói như vậy để thấy rằng có một khoảng cách rõ ràng giữa Franklin và thế hệ anh hùng cách mạng Mỹ tiếp theo, một nhóm mà ông đã liệt kê cả Adams trong đó nhưng lại khiêm tốn loại mình ra. 30
Có những tin đồn không chính thức về việc Jefferson đã được bổ nhiệm thay cho Franklin. (Franklin, đã gần 80 tuổi, thổ lộ mong muốn sớm được trở về Mỹ). Khi Jefferson diện kiến triều đình Pháp ngay sau khi đến nơi, có truyền thuyết rằng Ngoại trưởng Pháp Vergennes đã hỏi Jefferson có phải ông được chọn để thay thế Franklin hay không, và nghe đâu Jefferson đã trả lời: “Không ai có thể thay thế được ông ấy, thưa Ngài; tôi chỉ là người kế nhiệm ông ấy”. Về phần mình, Adams đã rất buồn khi thấy Franklin rời đi. Hai người này từng tranh cãi liên miên trong suốt những cuộc đàm phán dẫn đến Hiệp ước Paris (1783) kết thúc chiến tranh, và Adams cho rằng Franklin đã để lại cho mình quá nhiều việc, đã chia sẻ quá thoải mái với Vergennes những bí mật đàm phán của Mỹ, và đã nhầm lẫn quá thường xuyên những buổi tối tán tỉnh các quý bà Pháp dễ mến là nhiệm vụ ngoại giao chính của mình. Còn Franklin lại coi Adams là kiểu người Yankee đã gán cho sự chăm chỉ một cái tên xấu xí, và đã không trân trọng những lợi ích mà các hội nhóm không chính thức nơi xã hội phòng khách của Pháp mang lại, đặc biệt là sự tán tỉnh vô hại của một ông già dành cho những phụ nữ đáng yêu và từng đáng yêu, những người đã góp phần định hình các giá trị văn hóa Paris. Không một ai, kể cả Jefferson, có thể sử dụng từ ngữ uyển chuyển như Franklin; sự mô tả của ông về tính cách Adams đã trở nên nổi tiếng từ hồi đó, rồi lưu lại hậu thế chỉ bằng một câu nói moi hết gan ruột: “Luôn là người thẳng thắn khôn ngoan, nhưng đôi khi và trong một số trường hợp lại hoàn toàn không kiểm soát được cảm xúc của mình”. 31
Trong khoảng thời gian ngắn ngủi họ làm việc cùng nhau trong một nhóm công sứ, Jefferson đóng vai trò trung gian quan trọng giữa hai thành viên cấp cao, cả hai đều thấy ông đáng mến và tận tâm. Thật vậy, sẽ không mấy ai phản đối khi nói rằng trong chín tháng Adams, Franklin và Jefferson đại diện cho quyền lợi của Mỹ ở Pháp, Mỹ đã có được tập hợp những trí tuệ xuất chúng nhất trong toàn bộ lịch sử ngoại giao của mình sau này. Vấn đề chủ yếu của họ hầu như không phải là thiếu trí tuệ hay kỹ năng, mà chỉ đơn giản là có rất ít cơ hội cho họ thể hiện.
Khi tất cả đã được nói và làm, rất ít nước châu Âu quan tâm nhiều đến việc ký kết các hiệp ước hữu nghị và thương mại với nước Cộng hòa Mỹ mới thành lập. Franklin có khả năng nhạy cảm về thời gian hơn bất kỳ thành viên nào của thời đại cách mạng; sự ra đi của ông vào mùa hè năm 1785 đã báo hiệu sự kết thúc của những triển vọng về sự nghiệp Mỹ ở châu Âu. (Ông đã quay về Philadelphia nhiều lần để tham gia các cuộc thảo luận của Hội nghị Lập hiến). Adams phàn nàn rằng có rất ít việc cho ông làm ở Paris hay London. Ông đã dành phần lớn thời gian của mình biên soạn một nghiên cứu dày ba chương về lý thuyết chính trị mang tên Sự phòng vệ của Hiến pháp Mỹ (A Defence of the Constitutions of the United States). Mặc dù Jefferson có tham gia đầy đủ những nhiệm vụ ngoại giao thường lệ trong suốt những năm ở Pháp, nhưng tình hình chiến lược mà gần như đã được số phận và Quốc hội Mỹ giao phó cho ông lại ngăn cản mọi thành tựu có ý nghĩa về chính sách đối ngoại thời ông.
Dù trên thực tế, đã có nhiều khó khăn chồng chất khống thể vượt qua, nhưng vấn đề chính lại nằm ở Philadelphia. Nói một cách ngắn gọn nhất, Quốc hội Liên bang thành lập theo Các điều khoản Hợp bang không đủ thẩm quyến để giám sát chính sách đối ngoại của Mỹ. Một lá thư điển hình của John Jay, người phụ trách vấn đề đối ngoại, báo cáo tình trạng bế tắc kéo dài. “Điều này xảy ra trong nhiêu Hoàn cảnh khác nhau”, Jay viết cho Jefferson, “được nêu ra trong một số báo cáo về những vấn đề đối ngoại vẫn đang chờ Quốc hội quyết định. Mong muốn về một Đại diện phù hợp trong Thời gian dài… đã bị Chậm trễ và Bỏ sót, tuy nhiên không thê’ tránh khỏi là còn nhiêu điều đáng tiếc”. Jefferson cực kỳ bực bội khi Quốc hội bác bỏ kế hoạch của ông về lực lượng hải quân nhằm tiêu diệt cướp biển Barbary vì lý do chi phi cao không tưởng. Ông viết thư cho Monroe rằng: “Người ta nói là ngàn khố không có tiền. Sẽ chẳng bao giờ có tiên trong ngân khố cho đến khi phe liên minh (13) nổi giận. Các bang phải xem xét kỹ lưỡng đòn trừng phạt”. Nhưng Madison thông báo với ông rằng đơn giản là chẳng ai có ý định phê chuẩn các hóa đơn tốn kém thế. Thu ngân sách hiện tại chưa đến 400.000 đô-la, không đủ để trả hết nợ cũ, và càng không đủ để trả thêm khoản mới. Madison đồng ý rằng đó là một tình huống đáng tiếc mà sẽ “xác nhận… niềm tin của cả thế giới rằng chúng ta không được tôn trọng, cũng không được coi là một quốc gia trong các vấn đề Thương mại”. Món nợ khổng lổ với Pháp nói riêng đã đè nặng lên Jefferson, vi ông liên tục bị các cựu binh Pháp trong Cách mạng Mỹ bao vây đòi trả nợ cho họ. Nhưng ngoài cái lắc đầu như một cử chỉ an ủi và hoài nghi, ông hoàn toàn chẳng thể làm gì hơn. 32
(13) Tức phe miền Nam.
Rồi một vấn đề nan giải nữa là sự kiêu ngạo của người Anh. David Hartley, một nhà ngoại giao Anh tôn trọng Mỹ hơn hẳn các đồng sự, đã đặt vấn đề thẳng thắn với Jefferson: “Tục ngữ Anh có câu: Kẻ thua có quyền khiếu nại”, Hartley viết. “Sau cơn bão, đôi khi sóng sẽ tiếp tục cuộn trào”. Tóm lại, do đã bị mất một nửa đế chế của mình trong một cuộc chiến kéo dài và thất bại, nên Anh sẽ không trợ giúp kinh tế cho các thuộc địa cũ nữa. Trong chuyến ghé thăm London cùng Adams vào mùa xuân năm 1786, Jefferson đã xác nhận quan điểm đang phổ biến đó: “Với đất nước này, không có gì được thực hiện; và hiện nay họ quyết định chẳng có dự tính gì với chúng ta. Nhà vua phản đối thay đổi đơn vị đo lường; các bộ trưởng phản đối nó...; các thương gia và người dân cũng phản đối nó. Họ coi trọng thương mại của chúng tôi, nhưng lại tin chắc rằng họ được hưởng thụ nó theo những điều khoản riêng”. Thật đáng buồn nếu giả thuyết của người Anh được chứng minh là đúng, thì Anh sẽ tiếp tục kiểm soát hơn 80% ngoại thương của Mỹ. Tại sao họ cần đàm phán các hiệp ước thương mại mới với người Mỹ, trong khi họ đã được hưởng độc quyền theo các điều khoản riêng: Để làm cho vấn đề tồi tệ hơn, người Anh thích đặt những câu hỏi kỳ quặc về thẩm quyền của các nhà ngoại giao Mỹ thay mặt Mỹ trong các cuộc đàm phán, đưa ra câu hỏi tu từ ranh mãnh rằng liệu chính phủ liên bang thật sự có chủ quyền với các bang hay không. Trong khi đó, báo chí Anh vẫn giữ thái độ bài Mỹ khi cho rằng các thuộc địa cũ đang ở trong tình trạng gần như vô chính phủ. (Jefferson đặc biệt quan tâm đến những tin tức thất thiệt trên báo chí London về việc Franklin hoặc bị cướp biển Algeria bắt giữ trên đường trở về hoặc bị đám đông ném đá khi vừa đặt chân tới Philadelphia). Jefferson nhận thấy quan điểm chi phối đa số giới quý tộc Anh trong các câu lạc bộ riêng tư đều là Mỹ đã sẵn sàng thỉnh cầu để được nhận trở lại vào Đế quốc Anh. Khó có thể kỳ vọng vào sự hợp tác từ những người này. 33
Theo toàn bộ thông tin thu thập được, và chắc chắn theo tính toán ban đầu của Jefferson, thì Pháp lẽ ra đã khác. Sau cùng, Pháp vẫn là đồng minh lớn của Mỹ tại châu Âu, là nguồn cứu giúp Mỹ trong cuộc chiến tranh giành độc lập, là kẻ thù thâm căn cố đế của Anh, và là quê hương của những triết gia chia sẻ đức tin tự do của Jefferson về thị trường mở và tự do thương mại. Jefferson dự thảo nhiều biên bản ghi nhớ dài nhằm thuyết phục Chính phủ Pháp rằng nếu Mỹ và Pháp có thể đạt được những thỏa thuận song phương, theo đó miễn giảm toàn bộ thuế quan và thuế nhập khẩu giữa hai nước, thì kết quả cuối cùng sẽ chính là nguồn nguyên liệu dồi dào giá rẻ hơn cho Pháp và rất nhiều loại sản phẩm giá rẻ hơn cho Mỹ. Hơn nữa, nạn nhân chính của sự bắt tay mới này sẽ là kẻ thù chung, nước Anh. Nhưng một lần nữa, vẻ đẹp lý thuyết trong tầm nhìn phóng khoáng của Jefferson lại vấp phải hiện thực trần tục, lần này là trong nền chính trị triều đình của Paris và Versailles, cùng sự quan liêu cố hữu của chính quyền Pháp ở cấp tỉnh. Mặc dù lời kêu gọi thể hiện tầm nhìn về thị trường mở của Jefferson là hợp lý, nhưng ông vẫn buộc phải thừa nhận rằng nó có vẻ đi trước chúng ta như cái bóng của chúng ta, luôn xuất hiện trong tầm với, nhưng không bao giờ chạm tới được”. 34
Ví dụ tiêu biểu nhất của vấn đề này chính là độc quyền thuốc lá được duy trì bởi một tổ chức vận động hành lang nông nghiệp có cơ cấu chặt chẽ và cực kỳ bảo thủ, được biết đến dưới tên gọi Quan thầu thuế, cứ khăng khăng giữ mức thuế nhập khẩu cao để bảo hộ nông sản trong nước cũng như dòng tiền chảy vào túi của nhiều cán bộ hải quan. “Việc xóa bỏ độc quyền về thuốc lá nằm trong tay Quan thầu thuế sẽ được chúng tôi thúc đẩy toàn lực”, Jefferson đã viết theo ngôn ngữ mã hóa gửi cho Monroe, “nhưng điều này đan xen với việc thành lập hệ thống tài chính vẫn còn đang lưỡng lự . John Jay gửi thư từ Philadelphia để chia sẻ với Jefferson, nhắc lại rằng trong nhiệm kỳ của ông ở Pháp, ông đã nghe nói về hệ thống những quy định phức tạp và các khoản hối lộ bí mật “bị hầu hết các quý ông chỉ trích nặng nề khi nghe tôi nói về nó, nhưng có vẻ như vị thế của nó rất chắc chắn, có lẽ bởi Dòng chảy vàng, thậm chí do cả vấn đề Chủ quyền nữa, vì sự Hủy diệt nhanh chóng của nó có vẻ được mong đợi hơn cả dự kiến”. 35
Ngay cả khi Jefferson đã thuyết phục được Chính phủ Pháp đồng ý cắt giảm phần nào thuế thuốc lá, quyền lực chính trị của Quan thầu thuế vẫn ngăn chặn việc thực hiện. “Tôi không thể đối phó được với những tác nhân đó”, Jefferson phàn nàn, “họ nói với tôi rằng những viên chức hải quan và nông nghiệp chưa coi họ là đối tượng chịu ràng buộc bởi các quy định mới”. Tính quan liêu, chứ không phải là chính phủ, dường như phải chịu trách nhiệm. Trong suốt nhiệm kỳ của ông tại Paris, Jefferson tiếp tục soạn thảo các đề xuất dài và phức tạp, lên án sự phi lý cố hữu của hệ thống đã được thiết lập và mô tả tương đối chi tiết những lợi ích song phương trong chính sách tự do thương mại. Nhưng giống như lập luận Socrat về công lý được trinh bày trước các đại diện Mafia, rốt cuộc sẽ chẳng đi tới đâu. Thành công duy nhất của ông sau năm năm nỗ lực không ngừng là giảm nhẹ thuế quan đánh vào dầu cá voi của Mỹ. 36
Thành tựu ngoại giao lớn trong thời gian ông ở Pháp là một khoản vay 400.000 đô-la từ các ngân hàng Hà Lan, ký kết với Adams vào mùa xuân năm 1787. Khoản vay này có ý nghĩa quan trọng vì nó giúp Chính phủ Mỹ hợp nhất các khoản nợ châu Âu, do đó tạo ra một nguồn tiền chuộc người Mỹ bị bắt cóc ở Algiers và thực hiện thanh toán thường xuyên cho các cựu binh Pháp tham gia Cách mạng Mỹ. Jefferson rất hài lòng với thương vụ này, vì nó đã giao cái vẻ trách nhiệm tài khóa cho các chủ nợ châu Âu của Mỹ. Nhưng ông cũng thừa nhận mình là một cộng sự thụ động trong các cuộc đàm phán, vì chủ yếu mọi việc là do Adams chủ trì. Thực tế, Jefferson thú nhận những vấn đề phức tạp trong các giao dịch tài chính liên quan đến số tiền lớn, bao gồm lãi suất trái phiếu thả nổi và nhiều mức lãi suất, đã khiến ông cảm thấy bối rối và lo lắng. Ông tin vào phán đoán của Adams trong những vấn đề đó hơn cả của chính mình. 37
Khi Adams chuẩn bị rời London về Mỹ, ông chuyển giao cho Jefferson trách nhiệm xử lý các khoản vay của Hà Lan, nhắc nhở ông phải cảnh giác trước “lòng tham vô đáy của Amsterdam”. Vào thời điểm các chủ ngân hàng Hà Lan đe dọa tăng lãi suất khoản vay, trong thư gửi Jefferson, Adams chia sẻ lo lắng với Jefferson rằng họ làm như vậy vì cảm thấy Công sứ Mỹ tại Pháp không thật sự hiểu được những nội dung phức tạp trong các hiệp định tài chính: “Tôi thương cảm với ông trong tình huống này, vì ông sẽ bị đòi nợ và khiêu khích, nhưng tất cả Triết lý của ông sẽ hỗ trợ ông”. Adams khuyên chỉ cần nhớ một điều, rằng: “[Người] Amsterdam quá yêu Tiền nên sẽ không thực hiện những lời đe dọa của họ”. Jefferson nghe theo lời khuyên này, không đàm phán lại khoản vay, và tín dụng của Mỹ ở các thủ đô và thị trường châu Âu được cải thiện. Mọi tầm nhìn vượt trước của Jefferson về một cộng đồng quốc tế tự do, bao gồm thị trường mở và hợp tác quốc gia, đã đánh chìm những tảng đá không khoan nhượng của châu Âu. Từ góc độ lịch sử, thời điểm này đã củng cố quan điểm suốt đời của ông rằng chính sách đối ngoại của Mỹ là một lĩnh vực đòi hỏi phải có một chính phủ liên bang mạnh mẽ. Rõ ràng là thiên hướng duy tâm của ông đã được phát huy tốt nhất khi xung quanh là các cộng sự duy vật với lập trường cứng rắn hơn. Trớ trêu thay, thành công chính trong nhiệm kỳ của ông lại là một thỏa thuận tài chính khắc nghiệt với các chủ ngân hàng Amsterdam, những người mà ông không bao giờ hiểu thấu, như ông đã thoải mái thừa nhận. 38
TIẾNG NÓI NƯỚC MỸ
Dĩ nhiên là ngoại giao không chỉ có việc đàm phán các hiệp ước. Sau kh