← Quay lại trang sách

Chương 3 MONTICELLO: 1794-1797

Ông xây cho mình tại Monticello một biệt thự cách biệt với con người. Với ông đời sống chính trị khốc liệt là một sự tra tấn không ngừng, và những công kích cá nhân làm ông đau khổ sâu sắc… Ông co lại trước mọi sự hung dữ hoặc lỗ mãng, và sự khao khát đồng cảm của ông khá nữ tính .

HENRY ADAMS

( Lịch sử Mỹ: Thời kỳ Thomas Jefferson cầm quyền )

( 1889-1891 )

Từ năm 1793 đến năm 1797, cha chỉ sống khép kín trong nhà, chẳng gặp ai ngoài những người đến đây, và cuối cùng cũng hiểu được tâm bệnh của chính mình… Cha cảm nhận được tác động của việc rút lui khỏi thế giới, để rồi thấy việc này đã dẫn đến một tâm trạng chống xã hội và chán ghét con người, tâm trạng này sẽ trừng phạt nặng nề những ai nhượng bộ nó. Và đó là một bài học cha không bao giờ cho phép mình quên .

JEFFERSON VIẾT THƯ CHO MARIA JEFFERSON EPPES

Ngày 3 tháng 3 năm 1802

⚝ ✽ ⚝

Monticello là nơi luôn được ưu tiên trong hình dung của Jefferson, nhưng Cách mạng Mỹ đã chen ngang, sau đó là sứ mệnh ngoại giao ở Paris, tiếp đến là những trách nhiệm một Ngoại trưởng Mỹ trong chính quyền Washington. Nhưng rồi đến tháng 1 năm 1794, ông rốt cuộc cũng tin rằng sự nghiệp chính trị của mình đã kết thúc. Ông tuyên bố: “Tôi hy vọng sẽ dành những ngày còn lại của mình cho những công việc dễ chịu hơn những gì tôi đã cống hiến trong suốt 18 năm đẹp nhất của đời mình”. Sự thật là ở tuổi 51, ông tin rằng thời kỳ đẹp nhất của mình đã qua và những ngày cuối đời đã cận kề. Trong hơn một năm, ông đã xin Washington miễn cho ông những nhiệm vụ chính trị để ông có thể sống như một nông dân cho đến hết đời: “Hằng ngày tôi đều tin rằng tài năng, tâm trí, cũng như đời sống của mình là không phù hợp với đời sống xã hội”. 1

Những câu thần chú về cuộc sống hưu trí tiết hạnh, tách biệt ở vùng nông thôn sau khi kết thúc sự nghiệp chính trị là điệp khúc quen thuộc và thậm chí công thức trong tầng lớp lãnh đạo của Mỹ thế kỷ 18, đặc biệt trong triều đại Virginia. Mọi người đều biết những mô hình ở ẩn kinh điển ngày nay được đại diện bởi Cicero và Cincinnatus cùng những bài ca tôn vinh vẻ đẹp đồng quê trong tác phẩm Georgics của Virgil. Những tuyên bố về việc rút lui có nguyên tắc khỏi sự ồn ào của đời sống chính trị để hòa cùng giai điệu thiên nhiên ở trang trại phổ biến tới nỗi John Adams - bản thân cũng khao khát kiểu Cicero nhưng suốt nhiều năm cũng lại hoài nghi tuyên bố của bất cứ ai về phẩm hạnh nông thôn - đã bắt đầu nghi ngờ toàn bộ hội chứng Cicero. “Có vẻ như Mốt để trở nên vĩ đại là nghỉ hưu”, ông viết thư cho Abigail. “Những cái Cây chính trị lớn lên trong bóng râm mới tuyệt vời làm sao”. Adams đã không ám chỉ cụ thể Jefferson, nhưng các nhà chỉ trích khác thuộc phe Liên bang đã hé lộ rằng ở Philadelphia, Ngoại trưởng sắp mãn nhiệm về nhà chỉ để liếm láp những vết thương, tích trữ năng lượng cho cuộc tấn công không thể tránh khỏi vào nhiệm kỳ tổng thống, giả vờ làm một nông dân nghỉ hưu. 2

Nhưng Jefferson không hề diễn. Ông giãi bày với một Madison luôn kín tiếng - như một lời thú tội thật thà lạ thường - rằng đã có lần cảm thấy “tôi có chút mùi vị tham vọng trong những ngày còn trẻ”, nhưng các thúc giục bên trong “từ lâu đã tan biến, và danh tiếng lưu lại sau khi tôi mất sẽ vẫn ít hơn sự nổi tiếng hiện nay”. Ông nói với Giáo hội Angelica rằng tất cả những gì ông muốn trong phần đời còn lại là “được giải phóng khỏi những công việc chính trị đáng ghét, và ở trong vòng tay gia đình, trang trại, và những cuốn sách”. Đến tận lúc này, Monticello vẫn là một ảo vọng tiếp tục lùi dần vào quãng đời trung niên của ông. Giờ thì ông đột nhiên ở đó. “Tôi có nhà để xây, cánh đồng để cày cấy” - một cách sống có trách nhiệm và vui vẻ - “và để mong chờ niềm hạnh phúc đến với những người làm việc cho tôi”.

Một trong những nô lệ da đen của ông, lần này là Robert Hemings chứ không phải Jupiter, đang mẫn cán chờ đợi ở Fredericksburg với mấy con ngựa khỏe mạnh vào ngày 12 tháng 1 năm 1794, rồi cả hai cùng cưỡi ngựa tới chân núi Blue Ridge và về nhà. “Phạm vi hoạt động của tôi bây giờ cố định trong cuộc sống giữa Monticello và Richmond”, Jefferson tuyên bố hai tuần sau đó. Thu mình trên đỉnh núi, ông thông báo với Adams rằng giai điệu thôn dã đã níu chân mình: “Giờ đây tôi trì hoãn việc trả lời thư, kiểu nông dân, cho đến một ngày mưa”. Ông tuyến bố đã trở nên “cách ly triệt để với báo chí và chính trị”, và rất hài lòng khi “thấy tâm trí hoàn toàn tập trung vào những công việc nơi đồng quê”. 3

Có lẽ nguồn cơn rõ ràng nhất cho quyết định nghỉ hưu của ông là tuổi tác. Sau khi vượt qua dấu mốc nửa thế kỷ cuộc đời, rõ ràng ông không có lý do để mong đợi vận may sức khỏe của mình sẽ tiếp tục kéo dài lâu hơn. Suy nghĩ kinh điển rằng mỗi người có “70 năm cuộc đời” khiến ông nghĩ mình chỉ còn hơn một thập niên, và ông làm sao biết rằng, không giống như cha mẹ mình, ông sẽ không tuân theo con số đó và sống tới 80 tuổi. Thực tế, những dấu hiệu đầu tiên bắt đầu xuất hiện cho thấy thể chất chưa từng biết mệt mỏi của ông đang xuống cấp với những cơn đau nhức ở các khớp xương, trong đó có một lần ông bị thấp khớp nghiêm trọng vào mùa hè năm 1794 khiến ông phải nằm trên giường hai tuần. “Tôi bắt đầu cảm thấy những ảnh hưởng của tuổi tác”, ông ghi lại vào năm sau đó, thêm vào đấy, cơ thể đã có những dấu hiệu “khiến tôi tin rằng mình sẽ không có nhiều thời gian để đối phó với tình trạng mệt mỏi ”. Mái tóc vàng đỏ vẫn còn dày dù đã điểm bạc; khuôn mặt gầy và hơi dài vẫn có sự nhuận sắc của một người ưa ở ngoài trời dù đã có dấu hiệu tuổi tác và nếp nhăn nơi khóe mắt; cơ thể vẫn còn tương đối săn chắc và khỏe mạnh, lưng vẫn thẳng khi đi lại, dù khớp cổ tay và đầu gối thường đau nhức khi trời ẩm ướt hoặc lạnh. Hơn hết, ông trông vẫn trẻ hơn so với tuổi, vẫn có thể cưỡi trên những con ngựa to khỏe nhất, vẫn thức dậy vào lúc bình minh và làm việc 16 giờ một ngày không nghỉ, vẫn lên kế hoạch cho một chính thể với hình ảnh đầy sinh lực của một đất nước trẻ có cả tương lai phía trước. Nhưng còn tương lai cá nhân, hiện thời ông cảm thấy xương cốt của mình chỉ còn một khoảng thời gian hạn chế theo đúng nghĩa đen. Ông muốn dành thời gian còn lại đó vào những hoạt động cá nhân khiến ông hạnh phúc. 4

Tất cả điều này có thể đã đủ để kéo Jefferson ra khỏi đời sống xã hội, cùng Robert Hemings phi nước đại xuống đường từ Fredericksburg đến Charlottesville và sau đó lên tới đỉnh núi của mình. Như chính ông thừa nhận, một phần quan trọng là ông chưa bao giờ cảm thấy thoải mái khi đảm nhận quyền lực chính trị hoặc tham gia vào những cuộc tranh luận lôi thôi mà chính phủ đại diện thường yêu cầu. Không như Adams, người cho rằng tranh luận là cách thức trò chuyện lý tưởng, hay Franklin, người có thể giành phần thẳng trong mọi cuộc đấu đá chính trị nội bộ nhờ sự thâm niên và trí tuệ của mình, hay Washington, được coi là người đứng trên đỉnh Olympus của Mỹ và do đó không thể chạm tới; Jefferson, về phần mình, cảm nhận được từng lời chỉ trích. Những ý kiến mâu thuẫn hay sự tranh luận nhắm vào ông như tiếng ồn chói tai, dẫn tới một sự bác bỏ thẳng thừng của sự hòa hợp tự nhiên ông vốn tin tưởng và nghe thấy từ bên trong mình. Ở một khía cạnh nào đó, nghỉ hưu để trở về cuộc sống riêng tư vào năm 1794 là một sự thừa nhận muộn màng rằng ông luôn bị phân nhầm vai nhân vật của công chúng.

Nhưng dù cho các điều kiện lâu dài có thể phù hợp về mặt lý thuyết, nhưng trong thực tế thì lịch sử đã khiến nỗi đau khổ chính trị của ông tăng gấp đôi bằng việc trù liệu thập niên 1790 là một trong những thập niên nhiều hiềm khích và ưa tranh cãi nhất trong lịch sử Mỹ. Tính từ thời điểm Jefferson đảm đương trách nhiệm Ngoại trưởng Mỹ năm 1790 cho đến khi ông thoát khỏi Philadelphia năm 1794, ông luôn là một nhân vật trung tâm trong một vở kịch chính trị đang diễn ra và được chứng tỏ là khốc liệt hơn, gần như đến mức hoang tưởng, hơn bất kỳ kinh nghiệm nào trong đời sống chính trị của ông. Ông cũng phải chịu những vết thương tâm lý trong thời gian làm việc cho chính quyền Washington mà chẳng bao giờ lành lại hoàn toàn. Và ông đưa ra những lời công kích chính trị của riêng mình, hay đúng hơn là đã có người thay ông làm điều đó, khiến ông trở thành biểu tượng chính của phe đối lập với chính phủ mà ông phụng sự. Liệu thời gian đã thay đổi ông hay chỉ đơn thuần ghi dấu lên ông là một câu hỏi thú vị. Nhưng không có câu hỏi nào ông rút ra từ kinh nghiệm lại nói lên một ngôn ngữ chính trị đảng phái rõ ràng hơn mà mới chỉ bắt đầu gắn với tên tuổi của ông ở cấp quốc gia. Nếu chúng ta muốn hiểu được tình cảm và lý trí của người đàn ông trung niên muốn cô lập mình tại Monticello, chúng ta cần phải biết thêm đôi chút về những gì đã xảy ra với ông trong cái thế giới chính trị mà ông đã trốn khỏi. 5

ĐAM MÊ VÀ ĐẢNG PHÁI

Nhiệm kỳ của Jefferson trong vai trò Ngoại trưởng Mỹ trùng với thời kỳ sơ khai nhất trong lịch sử chính trị Mỹ. Chính vì chính quyền quốc gia mới còn non trẻ, nên tất cả các quyết định quan trọng đều tạo ra một tiền lệ và mọi sáng kiến trong chính sách đối nội hay đối ngoại đều báo trước sự thiết lập nguyên tắc mang tính bước ngoặt. Đặc điểm nổi bật của Hiến pháp mới là không có mục đích rõ ràng về mối quan hộ giữa thẩm quyền liên bang và bang, và về thẩm quyền chồng chéo nhau giữa các nhánh tương ứng của chính phủ liên bang. Tóm lại, Hiến pháp không giải quyết được những bất đồng chính trị đã tồn tại từ lâu trong thế hệ cách mạng, đến mức phải tạo ra một bối cảnh mới và ổn định hơn để tranh luận về những bất đồng đó.

Jefferson và tất cả những người tham gia chủ yếu trong cuộc tranh luận này đều hiểu ra vấn đề đó, nên chính ý nghĩa thật sự của Cách mạng Mỹ là cái bị đặt câu hỏi nhiều nhất. Và kể từ khi Jefferson phụng sự ở Pháp trong suốt nửa cuối thập niên 1780, khi những trận đánh đầu tiên nổ ra nhằm xác lập quyền lực thật sự của chính phủ liên bang, ông đã bước vào cuộc tranh luận của những năm 1790 với những giá trị cách mạng nguyên vẹn hơn so với hầu hết các đồng nghiệp của mình, vì họ đã kết luận rằng việc bảo đảm thành tựu của Cách mạng đòi hỏi những thỏa hiệp với quyền lực chính trị ở cấp quốc gia, thứ mà ông chẳng hề chuẩn bị cả về tư tưởng lẫn tâm lý để thực hiện. 6

Sự phát triển lạ kỳ nhất và hoàn toàn không lường trước được của thời đại là sự xuất hiện của các đảng phái chính trị. Những đảng phái chính trị vào thời đại đó có cơ chế để quyên tiền, lựa chọn ứng viên và tiến hành các chiến dịch bầu cử, nhưng lại chưa được tổ chức đầy đủ trong những năm 1790. (Các đảng phái chính trị hoàn thiện có tất cả thể chế gắn liền với chúng ta trong khoảng thời gian từ những năm 1830 tới những năm 1840). Tuy nhiên, những gì chúng ta có thể coi là “ưu điểm” của các đảng phái chính trị đều bắt nguồn từ quãng thời gian Jefferson là Ngoại trưởng Mỹ, và ông đã đóng vai trò quan trọng trong quá trình tạo dựng đó. Nhưng vấn đề là thuật ngữ “đảng”, và ý tưởng rất mới mà nó đưa ra, vẫn chưa được coi trọng chút nào. Một “đảng”, theo cách hiểu thông thường, chỉ là một “phe”, nghĩa là một nhóm nhỏ có tổ chức với mục đích rõ ràng là làm nhụt ý chí của công chúng, thường là bằng chiêu trò xảo quyệt và bẩn thỉu. Khi gọi ai đó là thành viên của một đảng phái chính trị, chính là để cáo buộc người đó ích kỷ có hệ thống, và có lẽ còn là kẻ phản bội đúng nghĩa. Vào thời đó, không tồn tại khái niệm về một tổ chức đối lập hợp pháp với chính phủ được bầu ra. Quả thực, vấn đề này đáng lẽ đã nhắm đến đa số thành viên của thế hệ cách mạng như một mâu thuẫn về khái niệm. 7

Tất cả điều này mang tới những vấn đề vô cùng đau đầu và đau lòng cho Jefferson, bởi cùng với Madison, ông đã thiết lập nên những nguyên lý căn bản của Đảng Cộng hòa trong khoảng từ năm 1790 đến 1794, và do đó tạo ra một giải pháp thay thế rõ rệt và có tổ chức cho những thành viên Đảng Liên bang. Nhắc lại một lần nữa, lúc đó chưa có quy tắc cho những gì họ đang làm, không có từ “trung lập” để nói về nó. Trong con mắt và tâm trí của các nhà phê bình thuộc phe Liên bang, Jefferson và Madison là những kẻ phản bội, đặc biệt là Jefferson, người mà thực tế thì phụng sự trong nội các của chính phủ nhưng lại đứng về phe đối lập. Điều này giúp giải thích những lời công kích chua cay và rất cá nhân đối với tính cách của ông trên báo chí trong những năm đó; vẫn chưa có ngôn ngữ hoặc tâm lý sẵn sàng để giải thích hành vi của ông cụ thể hơn.

Duy trì vị thế này của tổ chức đối lập không chính thức cần phải rất tin tưởng vào tầm nhìn chính trị của một người đối với ý nghĩa của Cách mạng Mỹ. Điều này cũng đòi hỏi một năng lực khác mà Jefferson đã phát triển trong giai đoạn ở Pháp, có thể gọi là lòng khoan dung sâu sắc trước sự mâu thuẫn mà ở những người khác có thể coi là lừa dối, đạo đức giả. Ở cương vị một nhà lãnh đạo đảng hữu danh vô thực trong một thời đại mà các đảng phái chính trị còn bị ghét cay ghét đắng, Jefferson buộc phải nhiều lần lừa dối và che giấu, sự thành công của ông khi làm điều đó phụ thuộc vào sự nhanh trí, xử trí khôn ngoan của ông trong các phát ngôn và vai trò khác nhau, vào khả năng chơi trốn tìm với chính mình.

Cuối cùng, đầu những năm 1790, mối quan hệ lâu dài giữa Jefterson và Madison đạt đến một cấp độ hợp tác mới, đôi khi không thể biết được sự kết thúc suy nghĩ của người này lại là sự bắt đầu suy nghĩ của người kia ở chỗ nào. John Quincy Adams đề cao việc này khi ông nhận thấy “sự ảnh hưởng lẫn nhau giữa hai trí tuệ này là một hiện tượng, giống như những tương tác vô hình và bí ẩn của nam châm trong thế giới vật lý, nơi mà sự sắc sảo của sử gia tương lai có thể tìm ra giải pháp cho lịch sử đất nước chúng ta nếu không thì phải chịu trách nhiệm không thể chối cãi”. Hai người đàn ông đã có những thói quen bảo mật và kinh nghiệm lúc trao đổi qua thư từ được mã hóa khi Jefferson làm việc ở Pháp, chúng đã giúp họ khá nhiều trong những năm 1790, khi họ cùng hợp tác để phản đối các chính sách tài chính của Alexander Hamilton và bắt đầu phát triển nền tảng cho một đảng đối lập. Sẽ là không công bằng lắm với trí tuệ và kỹ năng lãnh đạo của Madison, nếu chỉ xem ông như là đối tác trẻ tuổi hay như người luôn sẵn sàng thay mặt Jefferson trong những cuộc đấu đá chính trị nội bộ mà Jefferson thấy rất khó chịu. Trên thực tế, trong các giai đoạn đầu của cuộc chiến với Hamilton, 1790-1792, Madison đã thật sự lãnh đạo cuộc đấu tranh, đặc biệt là phong trào chống lại kế hoạch rót vốn và đề xuất lập một ngân hàng quốc gia của Hamilton. 8

Nhưng nói chung, có vẻ công bằng khi đồng tình với những thành viên phe Liên bang coi Madison là “Tướng” và Jefferson là “Tổng Tư lệnh” của phe đối lập Cộng hòa đang manh nha. Jefferson là lãnh tụ tinh thần và thành viên kỳ cựu của tổ chức. Ông sắp đặt chiến lược và Madison thực hiện các chiến thuật. Jefferson có đủ điều kiện để chú ý tới những diễn biến bao quát nhất của một vấn đề chính trị, vì Madison đã âm thầm xử lý những rắc rối cụ thể. (Nếu Chúa có mặt trong từng chi tiết khi câu chuyện diễn ra, thì Madison thường đã ở đó để chào đón người đến). Lợi thế của sự phân công này khá rõ ràng: Phát ngôn viên vô cùng tài năng được đẩy ra mũi nhọn tấn công, trong khi cho phép Jefferson ở lại sau hậu trường và bên ngoài xung đột.

Nhưng cũng có một số nhược điểm cần chỉ rõ: Nó đưa đến niềm tin vào sự cáo buộc, rằng Jefferson là một kẻ thao túng quanh co, không dám đối mặt với sự thật. Trong khi những người bảo vệ ông có thể và đã mô tả niềm khao khát sự riêng tư cá nhân nổi tiếng của ông như là một đặc điểm của tính nhút nhát hoặc thận trọng, thì tuyên bố rằng “sự táo bạo trong suy nghĩ của ông được bọc trong một cái vỏ của sự lịch thiệp”, thậm chí Dumas Malone, người viết tiểu sử ngưỡng mộ ông nhất, đã buộc phải thừa nhận rằng trong các cuộc chiến tranh đảng phái vào những năm 1790, Jefferson thường xuyên vượt qua ranh giới mong manh giữa “lịch sự và lừa dối”. Các nhà bình luận phê bình thì coi danh tiếng của ông như một phiên bản bí ẩn và không-đáng-ngưỡng-mộ của Nhân sư Mỹ kể từ giai đoạn này trong sự nghiệp của ông. “Ông ấy chẳng bao giờ nói thật như mình cảm nhận”, Charles Francis Adams viết, “dù là đối với bạn bè hay kẻ thù. Kết quả là trong giới chính trị, ông ấy mang tiếng là kẻ tráo trở…, nhìn chung người ta thường cảm thấy sự tráo trở đó nhiều hơn là chứng kiến nó”. Dù Madison đã có những nỗ lực quả cảm để bảo vệ ông khỏi những lời chỉ trích, nhưng thật sự thì những nỗ lực đó phần nào cũng làm dấy lên nghi ngờ về lập trường của Jefferson, hầu hết các đánh giá không thân thiện về nhân cách khó nắm bắt của Jefferson đều bắt nguồn từ bầu không khí chính trị siêu nóng của những năm 1790, nơi mà tính cách của ông trở thành vấn đề gây tranh cãi. 9

Nó cũng giống như những ưu tiên và chính sách của ông khi ở cương vị Ngoại trưởng Mỹ. Giữa lúc mong muốn về hưu của Jefferson trỗi dậy, James Monroe đã gửi cho ông một lá thư an ủi, nhằm cam đoan với vị thầy của mình rằng: “dù ngài đã trải qua những thời khắc quan trọng và thậm chí hỗn loạn [mà ngài có], thì đó không chỉ là sự tán thành của riêng trái tim ngài và những đồng hương của ngài nói chung, mà còn là sự im lặng và tất nhiên là cả sự tán thành miễn cưỡng của kẻ thù”. Điều này có vẻ là một đánh giá hợp lý theo hơi hướng đảng phái. 10

Jefferson đã giúp khởi động chính sách đối ngoại của Mỹ theo hướng phụng sự những mục đích quốc gia khá tốt trong suốt thế kỷ tiếp theo. Ông chia sẻ với các nhân vật quan trọng khác, đặc biệt là Washington, Adams và Hamilton, nhận định căn bản rằng nhiệm vụ chủ yếu mà nền cộng hòa non trẻ phải đối mặt chính là những vấn đề nội bộ và trong nước, ổn định thể chế chính trị mới thành lập và củng cố quyền kiểm soát lục địa Bắc Mỹ. Điều này có nghĩa là bằng mọi giá phải tránh xa những mâu thuẫn của châu Âu, dành thời gian và không gian cho nền kinh tế quốc gia mới nổi của Mỹ phát triển tiềm năng còn non trẻ của mình. Dù các cuộc chiến đảng phái về cách thức thực hiện những nguyên tắc chính sách đối ngoại có vẻ cay đắng hơn, chưa kể đến sự thất bại hoàn toàn của hiệp ước liên quan đến những mối đe dọa do Anh đặt ra hoặc những thách thức từ phía Pháp đối với sự trung lập của Mỹ, thì bản thân những nguyên tắc của Mỹ vẫn là vấn đề về sự đồng thuận xuyên suốt mọi thành tựu lớn nhất của chính phủ. Jefferson thường xuyên bị buộc là thân Pháp, vì ý định tốt mà đã bóp méo lời giải thích về tính trung lập của Mỹ. Nhưng Công sứ Pháp, Pierre Adet, lại đưa ra những đánh giá thấu đáo nhất về sự đồng cảm sâu sắc nhất của Jefferson. Adet viết: “Ông Jefferson yêu mến chúng tôi vì ông ấy ghét Anh…, nhưng ông ấy có thể thay đổi quan điểm về chúng tôi vào ngày mai, nêu Anh ngừng gây thêm cho ông những nỗi sợ hãi… Có thể nói, vì Jefferson là người Mỹ nên ông không thể là người bạn chân thành của chúng tôi. Người Mỹ là kẻ thù bẩm sinh của mọi dân tộc châu Âu”. Đánh giá sắc sảo và chính xác này mang tới vẻ ngoài hào nhoáng nhất cho những mục tiêu tổng thể của Jefferson trong vai trò Ngoại trưởng Mỹ, nhằm thỏa thuận mạnh mẽ về những lợi ích của Mỹ nhưng đồng thời tránh mọi hình thức đảng phái có thể dẫn đến chiến tranh. 11

Điều đó cho thấy nhận định của Adet về việc Jefferson thật sự căm ghét Anh cũng hoàn toàn đúng. Thật vậy, nỗi căm hận vô cùng lớn của Jefferson với tất cả những gì liên quan tới Anh (có lẽ chỉ ngoại trừ những khu vườn của họ) đã chi phối toàn bộ hoạt động của ông trong vai trò Ngoại trưởng Mỹ, và nhiều lần suýt nữa đã dẫn đến sự đổ vỡ trong quan hệ Anh-Mỹ. Ví dụ, trong cuộc khủng hoảng Nootka Sound năm 1790, khi một tranh chấp bất ngờ nổ ra giữa Anh và Tây Ban Nha gần Vancouver ngày nay, cảnh báo chiến tranh có thể xảy ra ở toàn bộ khu vực phía Tây xuyên Mississippi, Jefferson tỏ ra đặc biệt hiếu chiến trước những ý định của người Anh tại khu vực đến mức sẵn sàng phiêu lưu chiến tranh với Anh cho đến khi cuộc khủng hoảng nguội đi. Trong những cuộc đàm phán với George Hammond, Công sứ Anh có trách nhiệm giải quyết những khác biệt lâu dài trong các điều khoản của Hiệp ước Paris, Jefferson cực kỳ kiên quyết và cứng nhắc, gần như không hề có phong thái ngoại giao theo quy định như thứ phong thái ông từng thể hiện rất tự nhiên trong những hoàn cảnh khác. Và vào năm 1793, báo cáo đầy đủ của ông về chính sách thương mại của Mỹ với tư cách một quốc gia trung lập đã để nghị áp các mức thuế quan trả đũa với Anh như là biện pháp tự sát về kinh tế và dựa trên niềm tin có phần ảo tưởng rằng sức mạnh kinh tế Mỹ có thể sánh với Anh. Rõ ràng sự đề cập đến Anh đã xả nỗi hận thù chôn giấu ở những nếp gấp sâu sắc hơn trong con người ông, khiến cho hầu như không thể tháo gỡ vấn đề theo con đường ngoại giao. 12

Nguồn gốc sâu xa nhất của hận thù luôn là vấn đề quan trọng cần xem xét. Ví dụ, cũng nên nhớ lại rằng ông đã bắt đầu sự nghiệp chính trị bằng cách thảo một bản cáo trạng chống lại George III và sau đó là lên án việc bán buôn của người Anh; những văn bản này động chạm đến quá nhiều bên, tới mức đồng nghiệp của ông ở Quốc hội Lục địa thấy cần phải hạ giọng cho bớt gay gắt và hoàn toàn xóa bỏ sau này. (Dường như với ông, những gì mà người khác tuyên truyền luôn được coi là chính đáng, dù đó là sự thật hiển nhiên nhưng lại tầm thường). Phải chăng George III cũng đã thể hiện sự ghê tởm lẫn nhau bằng việc quay lưng lại vời Jefferson và Adams trước toàn bộ triều đình Anh đó sao? Trước đó, những người lính của Cornwallis đã đốt cháy mùa màng của ông, chiếm đoạt vật nuôi của ông và cắt cổ những gia súc họ không thể mang theo. Trong những năm ở Paris, ông cũng được tiếp xúc với sự ngạo mạn thường trực của báo chí Anh, dường như không thể chấp nhận thực tế phũ phàng rằng các thuộc địa Mỹ đã thật sự giành chiến thắng trong cuộc chiến tranh giành độc lập.

Nhưng các ảo tưởng của Anh cũng là triệu chứng của những gì mà Jefferson coi là mối đe dọa, cụ thể là Anh sẵn sàng sử dụng sức mạnh kinh tế và quân sự ghê gớm của mình nhằm ngăn chặn và thậm chí đảo ngược cái tiến trình chuyển động rộng lớn hơn của Cách mạng Mỹ. Việc quân đội Anh vẫn còn đóng trên biên giới phía tây của Mỹ chẳng phải là một tuyên bố rõ ràng về ý định gây hại và mong muốn thường trực của Anh là tái chiếm thuộc địa cũ vào một ngày nào đó hay sao? Chẳng phải chính sách thương mại của Anh kiên quyết chống lại những thỉnh cầu của Jefferson về thương mại tự do và vô cùng tự mãn về quyền bá chủ của mình trên thị trường thế giới là bằng chứng cho nỗ lực trắng trợn của Anh hòng tái thiết chế độ thuộc địa của mình trên đất Mỹ hay sao? Cuối cùng, để hoàn thành và làm cho nó mang đậm tính cá nhân, có phải ông, cùng với nhiều nông dân Virginia, vẫn thấy mình đang lún sâu trong nợ nần với những chủ nợ người Anh và Scotland, họ liên tục tăng lãi suất cho các khoản nợ này đến mức khiến cho việc độc lập ngày càng khó khăn? Đó phải chăng là một suy nghĩ gây khó chịu, nhưng trên thực tế đó không phải là trường hợp mà ông, Thomas Jefferson, vốn từng làm rất nhiều việc để tổ chức và định hình Cách mạng Mỹ, tiếp tục điên dại làm lợi cho chính quyền Anh hay sao? 13

Mọi nỗ lực tách bạch lý do cá nhân khỏi lý do chung trong việc bài Anh, hoặc có lẽ cả việc tách bạch động cơ tâm lý khỏi động cơ tư tưởng của ông, sẽ là một nhiệm vụ khó khăn và rốt cuộc vô ích. Có lẽ cách tốt nhất để giải thích chính là trong lý trí và tình cảm của ông thì việc bài Anh là một chủ đề không cần tranh luận. Ở cấp độ chính sách đối ngoại, lịch sử cuối cùng đã chứng minh rằng ông sai, vì liên minh Anh-Mỹ và sự bảo vệ của hạm đội Anh đã hỗ trợ đáng kể cho sự trưởng thành của nước Mỹ non trẻ trong suốt thế kỷ 19. Và suy đoán của ông về việc Anh đang trên đà đi xuống lịch sử đã giáng một đòn quyết định theo dự đoán chưa từng có về những giá trị Anh trong thời đại Victoria. Nhưng cảm nhận bản năng của ông cho rằng vấn đề giữa Anh và Mỹ vẫn chưa kết thúc đã được Chiến tranh năm 1812 xác nhận. Và nỗi lo ngại của ông về việc Anh vẫn toan tính tái thiết chế độ thuộc địa đã mất trên đất Mỹ, dù hơi phóng đại nhưng vẫn là một nỗi lo chính đáng, nó có vẻ không đáng tin với chúng ta hiện giờ chỉ vì chúng ta có lợi thế là biết rõ điều đó đã không xảy ra.

Hàng loạt lý do công và tư lẫn lộn đã định hình tình cảm của ông dành cho Pháp, ông thường xuyên đưa ra định nghĩa về sự trung lập của Mỹ theo một giọng Pháp đặc trưng. Điều Jefferson gọi là “trung lập công bằng” có nghĩa rằng chính sách đối ngoại của Mỹ thừa nhận Pháp đóng vai trò quan trọng với tư cách đồng minh châu Âu của Mỹ trong Cách mạng Mỹ và tuân thủ những nghĩa vụ vĩnh viễn trong Hiệp ước Pháp-Mỹ năm 1778. Ông đã thành công trong việc thuyết phục Washington rằng nghĩa vụ của Mỹ trong hiệp ước là đối với Pháp, chứ không phải với bất kỳ chính phủ hay cá nhân cụ thể nào, nên việc hành quyết vua Louis XVI vào năm 1793 và sau đó là những cuộc diễu hành đẫm máu giữa các phe phái chính trị thay nhau nắm quyền ở nước Pháp cách mạng, không được coi là một cái cớ để từ bỏ liên minh. Dù gây tranh cãi vào thời điểm đó, bị Hamilton và những thành viên cực đoan phe Liên bang chống đối kịch liệt, nhưng khi nhìn lại, ý kiến của Jefferson dường như lại có cơ sở. Nhưng thái độ của ông trước Công sứ Pháp, Edmond Genêt, là hình ảnh đối lập với thái độ của ông trước George Hammond của Anh, gần như kiên nhẫn đến vô tận và bao dung vô cùng, sẵn sàng chịu đựng sự can thiệp trắng trợn của Genêt vào nội bộ chính trị Mỹ và hoàn toàn ảo tưởng rằng ông thật sự được trao quyền phủ quyết Tổng thống Mỹ. Kể cả khi Jefferson cuối cùng cũng quyết định chấm dứt quan hệ với Genêt vào tháng 8 năm 1793, thì động cơ của ông rõ ràng mang tính chính trị và nội bộ. “Tôi thấy cần từ bỏ một đống đổ nát”, ông thông báo với Madison, “nó có thể không chìm, nhưng sẽ nhấn chìm tất cả những ai cố bám vào nó”. 14

Ngay cả hành vi kiêu ngạo vô vọng của Genêt cũng không thể phá hoại nổi sự đồng cảm sâu sắc của Jefferson với Gallic, nó có nền tảng vững chắc hơn cả mối quan tâm nổi tiếng của ông đối với ẩm thực Pháp và kiến trúc Paris. Sự đồng cảm này thể hiện rõ nét nhất trong việc ủng hộ ngẫu hứng của ông đối với sự quá độ khủng khiếp mà sau đó đã cuốn Cách mạng Pháp vào sự chi phối của phái Jacobin và Thời kỳ Kinh hoàng. “Giọng điệu trong những lá thư của ông đôi lúc đã mang tới cho tôi niềm đau”, ông nói với William Short, người đã viết thư từ Paris kể về hành vi giết người của những đám đông hỗn tạp và sự sụp đổ hoàn toàn của trật tự xã hội. Rồi Jefferson đưa ra một bài thuyết trình về chi phí con người mà đôi khi phải trả khi lịch sử đang tiếp diễn: “Tự do của toàn cầu tùy thuộc vào vấn đề đấu tranh, và là một giải thưởng có thể giành được với rất ít máu đổ? Những tình cảm của tôi bị tổn thương sâu sắc vì một số người đã hy sinh do nguyên nhân này, nhưng nếu nó thất bại, tôi lại thấy một nửa Trái đất bị bỏ hoang. Giả như chỉ còn một Adam và một Eva ở mỗi quốc gia và để cho họ được tự do, thì sẽ tốt hơn hiện giờ”. 15 Phiên bản cực đoan của những gì có thể gọi là chủ nghĩa hiện thực cách mạng, gợi lên sự so sánh với tư tưởng cấp tiến của Lenin hay Mao Trạch Đông ở thế kỷ 20, bộc lộ một khía cạnh ớn lạnh của con người Jefferson, có vẻ khá mâu thuẫn với tính khí và ý thức hệ kiên định của ông. Nhưng trên thực tế, phản ứng tự nhiên của ông trước sự tàn bạo của Cách mạng Pháp là một phần không thể thiếu của một cảm nhận tinh vi nhưng sâu sắc về cái đích lịch sử hướng tới.

Những nét chính của bức tranh trong tâm trí ông ngưng đọng lại kề từ những năm ông ở Paris. Nó hình dung ra Cách mạng Mỹ chỉ đơn thuần là cảnh mở màn trong một cuộc chiến toàn cầu mà cuối cùng đã đến lúc lan rộng khắp thế giới. Ông thông báo với một phóng viên theo cách thức thông thường: “Quả cầu tự do, mà tôi tin là ngoan đạo nhất, hiện đang chuyển động tốt đến mức nó sẽ lăn đi khắp địa cầu”. Sự độc lập của Mỹ khỏi Anh chỉ là biểu hiện chính trị ban đầu của quá trình giải phóng rộng lớn và triệt để hơn nhiều, tuân theo tự nhiên, dù rõ ràng là không phải không có sự phản đối bằng bạo lực, vì những tàn dư cuối cùng của chế độ phong kiến và quân chủ đã bị phá hủy và hốt vào thùng rác của lịch sử. Cuốn sách tốt nhất nắm bắt được bản chất của tầm nhìn Jefferson là Quyền Con người (The Rights of Man) (1791) của Tom Paine, phiên bản Mỹ của cuốn sách này được Jefferson nhiệt tình ủng hộ và đã tạo nên sự xúc động trước ngôn từ tinh tế khi mô tả về “tinh thần năm “76” và “tinh thần năm ‘89” như những sự thể hiện giống nhau của sự thôi thúc tự do tương tự nhau. Do đó, theo quan điểm của Jefferson, sự khác biệt khá rõ rệt giữa cách mạng Mỹ và Pháp đều là những sự tình cờ vô nghĩa - về điểm này, Adams nghĩ rằng mình thật may mắn không biết hoặc mất trí tạm thời - khi so sánh với mục tiêu chung của chúng. Tương tự, Jefferson tin rằng bạo lực ngẫu nhiên và tiến trình tất nhiên của Cách mạng Pháp là một phần của một chương đã qua nhưng đáng tiếc trong một câu chuyện lớn hơn về cuộc cách mạng toàn cầu đầy hân hoan. Mọi quyết định cụ thể về chính sách đối ngoại của Mỹ cần phải được thông báo theo hình mẫu bao quát, gần như hài hòa này. Trên thực tế, nó có nghĩa là khớp nối sự phức tạp rắc rối của chính sách đối ngoại thành một sự lưỡng phân về đạo đức đơn thuần, như thường xảy đến với Jefferson. Điều này khiến Anh đóng vai phản diện và Pháp là anh hùng cách mạng. 16

Trong khi đó, tầm nhìn quốc tế của ông đã có sự đồng điệu rõ rệt với trong nước. Sau khoảng một năm hợp tác chính trị tương đối ăn ý trong nội các của Washington, Jefferson bắt đầu trình bày rõ quan điểm chính trị của Mỹ cũng với giọng đạo đức và đầy những nhân vật phản diện và anh hùng được phác họa rõ nét. Nguyên nhân trực tiếp của sự thay đổi này là Alexander Hamilton, hay đúng hơn là hàng loạt chính sách chướng tai gai mắt trong vai trò Bộ trưởng Tài chính và tính khí quan cách khó chịu của ông ta. Jefferson và Hamilton đã nhanh chóng trở thành những nhân vật chiếm ưu thế trong nội các của Washington. (John Adams, đáng lẽ là một đối trọng tương đương, đã bị gạt sang một bên vì cương vị Phó Tổng thống tại Thượng viện khiến ông nhận thấy rằng mình giữ “vị trí vô nghĩa nhất mà con người từng phát minh hay có thể hình dung ra”, đây là lời phàn nàn đầu tiên trong số hàng loạt những lời phàn nàn đủ loại của những người kế nhiệm vị trí này). Trong “thương vụ bàn ăn” nổi tiếng mà Jefferson và Hamilton cùng tham dự vào tháng 6 năm 1790 - Madison cũng có mặt và thực tế là đóng vai trò trưởng đoàn đàm phán - nhằm đi tới một thỏa hiệp giúp Hamilton có đủ phiếu ủng hộ tại Quốc hội để thông qua đề xuất của ông về việc chính phủ liên bang sẽ gánh tất cả các khoản nợ chưa thanh toán của các bang. Chính sách này chống lại lợi ích của bang Virginia, vốn đã giãn phần lớn các khoản nợ của mình, cho nên Hamilton đã ủng hộ cam kết đặt thủ đô quốc gia bên sông Potomac trong chục năm nữa. Nhưng thương vụ bàn ăn chính là thỏa thuận lưỡng đảng cuối cùng giữa hai nhà lãnh đạo nội các. Jefferson nhanh chóng thú nhận rằng ông đã bị Hamilton “lừa” và “biến thành một công cụ để xúc tiến những kế hoạch của ông ta mà tôi đã không hiểu cặn kẽ; và giữa tất cả những sai lầm trong cuộc đời chính trị của tôi, đây là điều tôi hối tiếc nhất”. Trong suốt thời gian còn lại cùng làm trong chính phủ, Jefferson và Hamilton đã tranh đấu dữ dội để được Washington lắng nghe và chú ý, cũng như đấu tranh cho những gì mà mỗi người coi là linh hồn của nền Cộng hòa Mỹ. 17

Dù nguồn cơn sâu xa hơn của mối bất hòa này bắt nguồn từ tư tưởng, nhưng rõ ràng, khía cạnh cá nhân cũng góp phần không nhỏ. Hamilton là người mà Chúa mang tới Trái đất để bác bỏ mọi giá trị của Jefferson. Với thái độ táo bạo và thẳng thắn, Hamilton sở hữu tất cả sự tự tin của một nhà lãnh đạo quân sự quen với việc chỉ huy, là kiểu người thể hiện quyền lực mà Jefferson cảm thấy rất khó chịu. Dù có lẽ bắt nguồn từ những chiến công quân sự của Hamilton trong vai trò một sĩ quan thuộc đội của Washington trong Chiến tranh Cách mạng (một trải nghiệm anh hùng khác mà Jefferson không thể có), dự đoán chắc chắn này của chính quyền kêu gọi chú ý vào sự huy hoàng riêng của nó theo phong cách gợi nhớ đến tài hùng biện của Patrick Henry, thứ mà Jefferson cũng không tin tưởng vì nó phô trương. Giống như Henry, Hamilton là một thần đồng trẻ tuổi có nguồn gốc thấp kém - John Adams sau này gọi ông ta là “đứa con hoang của kẻ bán dạo rượu Scotland” - khao khát trở nên vĩ đại có thể thấy khá rõ ở ông ta đã vi phạm những quy tắc bất thành văn của giới quý tộc Virginia chân chính. Vấn đề trở nên tệ hơn khi Hamilton còn là một đối thủ có lập trường và dấu ấn mạnh mẽ không kém. Jefferson kể lại vụ đụng độ với Hamilton trong cuộc họp nội các như một dạng tử vì đạo và báo cho Madison biết để soạn thảo tất cả bài báo công kích cá nhân Hamilton, chỉ rõ riêng Hamilton đã là “một đạo quân”… Có khả năng xoay xở với nhiều chi tiết và tung ra các bài luận chính trị phức tạp trong một thời hạn rất ngắn, trí óc của Hamilton phát ra năng lượng không ngừng thay vì sự trầm lặng ở Jefferson. Nó cũng có xu hướng bắt đầu với một vấn đề rõ ràng và thực tiễn - làm thế nào để tấn công một vị trí của Anh, phê chuẩn hiến pháp hoặc phát triển kinh tế quốc gia - rồi lý trí hướng đến các nguyên tắc bao quát để đưa ra giải pháp. Trí óc của Jefferson cũng hoạt động theo quỹ đạo tương tự nhưng theo chiều ngược lại, từ những lý tưởng có nguyên tắc tới những bối cảnh hoặc vấn đề cụ thể. Điều này nghĩa là Jefferson sẽ thất vọng khi thực tế không đáp ứng những kỳ vọng của ông; Hamilton thất vọng khi những đề xuất thực tế của ông ta va chạm với những để xuất hoàn toàn vô nguyên tắc khác. Jefferson xuất hiện trước các kẻ thù của mình như một Candide phiên bản Mỹ; Hamilton như một Machiavelli của Mỹ. 18

Những thù oán lẫn nhau đầy tính cá nhân đã trở thành đề tài của công chúng bắt đầu từ năm 1792, khi Hamilton và những người thuộc phe ông ta, viết dưới nhiều bút danh (ví dụ, Catullus và Scourge), công kích Jefferson trên báo chí vì sự đồng cảm thân Pháp, việc thay đổi quan điểm về Hiến pháp và cốt lõi tính cách khó nắm bắt của ông. Hamilton viết: “Thận trọng và nhút nhát, được bao bọc trong sự im lặng và bí ẩn bất khả xâm phạm, ông ta [Jefferson] bí mật lưu giữ sự ghê tởm của mình tại một nơi trốn tránh kín đáo nhất định, ở đó ông ta ngồi trên chiếc ghế xoay, dính líu vào mọi mưu đồ chính trị tối tăm và dối trá… ông ta phát tán chất độc của mình qua tờ National Gazette ”. Cuối cùng phải nói đến tờ báo chống Hamilton do Philip Freneau làm chủ bút, người được Jefferson thuê làm biên dịch tại Bộ Ngoại giao để hỗ trợ công việc biên tập chống lại chính phủ của ông, dù mọi tuyên bố đều cho rằng sự sắp xếp này không vi phạm nguyên tắc xung đột lợi ích nào mà ông biết. Trong khi đó, Hamilton liên tục đưa ra những công kích gay gắt chưa từng có trước công chúng đối với người được gọi là Tổng tư lệnh của đảng đối lập, cụ thể là về sự nghiệp và tính cách của Jefferson: “Nếu như tò mò tìm kiếm bằng chứng về Khả năng của ông ta với tư cách một Chính khách trong những ngày đó, ông ta sẽ liên quan đến những lộn xộn ở Pháp, con đẻ của những giáo điều chính trị nhất định được Công sứ Mỹ nuôi dưỡng, và của những nguyên tắc mang tính lý thuyết nhất định chỉ phù hợp với Xã hội không tưởng. Là một Chiến binh, Thành tích chói lọi của ông ta là ở Monticelli ; là một Triết gia, ông ta đã phát hiện ra sự yếu thế của Người da đen so với Người da trắng, vì họ có mùi cơ thể khó chịu hơn và thận tiết ra nhiều nước tiểu hơn; là một Nhà toán học, ông ta phát minh Ghế xoay”. 19

Ngoài Freneau, hậu phương chính của Jefferson đều là người Virginia: Madison và Monroe luôn trung thành, cộng với Nghị sĩ trẻ tuổi William Branch Giles, người mà Jefferson khuyến khích mở một cuộc điều tra chính thức, dù ngụy tạo, về việc sử dụng tài chính bất hợp lý của Hamilton trong vai trò Bộ trưởng Tài chính. Jefferson chưa bao giờ đích thân tham gia tranh luận công khai, luôn thích làm việc thông qua người đại diện, và đã khéo léo che đậy dấu vết của mình đến mức suốt gần 200 năm, việc ông tham gia vào cuộc điều tra của Giles không hề bị phát hiện. 20

Đằng sau động cơ cá nhân đơn thuần giữa hai thành viên nội các có suy nghĩ khác nhau và tính khí xung khắc, Jefferson và Hamilton đã trở thành những biểu tượng tiêu biểu cho một sự bất hòa về tư tưởng căn bản hơn. Vào năm 1792, Jefferson đã quy kết giới lãnh đạo phe Liên bang là những kẻ “theo chủ nghĩa quân chủ”, “thành viên đảng bảo thủ”, “chống cộng hòa” và những người ủng hộ chính sách tài chính của Hamilton là những tên “độc tài”, “đầu cơ chứng khoán” và “hình nộm”. Định hình trong tâm trí của Jefferson là câu chuyện phỏng đoán về những diễn biến của âm mưu đảo ngược tiến trình Cách mạng Mỹ, với các nhân vật chính ở phe bên kia thủ vai phản diện ngầm và tàn bạo do Bộ trưởng Tài chính ranh ma chỉ huy, người mà ông miêu tả với Washington là “một kẻ với lai lịch, từ khi được lịch sử biết đến, là một chuỗi những âm mưu chống lại nền tự do của đất nước mà đã… giao danh dự của mình cho ông ta”. Sự căm hận rất rõ ràng. 21

Các sử gia đã nghiên cứu thời điểm bất định này trong sự nghiệp của Jefferson và trong lịch sử chính trị của nước cộng hòa non trẻ, tìm cách trả lời khéo léo trước những gì có vẻ ám ảnh và gần như hoang tưởng với dư luận hiện đại, mô tả nó như một sự áp dụng mới của hệ tư tưởng Whig mà ông đã tung ra rất thành công khi chống lại Công sứ Anh trong các thập niên 1760 và 1770. Có nhiều điều để nói về cách giải thích này, trong đó có thói quen đã kết nối sự ám ảnh trước đó của ông về tham nhũng chính trị của Anh với sự hận thù ám ảnh của ông trước chương trình tài chính và tầm nhìn của Hamilton về một chính phủ quốc gia chủ động, được Jefferson cho là sự hiện hình hôm nay của một con rồng chính trị mà ông nghĩ đã giết chết hồi năm 1776. Theo cách hiểu này, tài hùng biện theo quỹ đạo hyperbol của Jefferson trong những năm 1790 - như tái diễn những nỗi sợ hãi của Đảng Quốc gia về Cách mạng Mỹ - cũng có thói quen là bỏ đi những lời chỉ trích theo chủ nghĩa cực đoan hiển nhiên của ông trong cuộc thập tự chinh chính trị chống lại Hamilton. Nếu ai đó thắc mắc vé sự sáng suốt của Jefferson vào những năm 1790, thì liệu có bịa ra cuộc bút chiến công kích George III trong thời điểm rực rỡ nhất của lịch sử Mỹ hay không? 22

Đối với nội dung này, chúng tôi xin được nói rõ và nhấn mạnh rằng Jefferson không phải là một người tâm thần không ổn định hoặc một người có khuynh hướng hoang tưởng tiềm ẩn. Tất cả các học giả của ý thức hệ Whig đã nhắc nhở chúng ta rằng tính chất bí ẩn trong tư duy chính trị của ông hồi những năm 1790 là một đặc điểm phổ biến của văn học chính trị bấy giờ, và có thể tìm thấy dấu vết đáng kể của tâm trí phát sốt như thế trong thư từ riêng của toàn bộ giới lãnh đạo chính trị, bao gồm cả Adams, Madison và Hamilton. (Có vẻ chỉ mỗi Washington còn miễn dịch, rồi sau đó ông đã miễn dịch với mọi thứ). Trừ khi người ta sẵn sàng gạt bỏ những gánh nặng tâm lý chống lại các thành viên tiên phong của toàn bộ thế hệ cách mạng và thường được công nhận là nhóm trí thức tài năng nhất của giới lãnh đạo chính trị trong lịch sử Mỹ, thì sau này cần thừa nhận rằng sự tự đánh giá về tâm lý của Jefferson là sai lầm và không công bằng. Học giả hàng đầu của thời đại cách mạng cũng đã nhắc nhở chúng ta rằng những thuyết âm mưu không chỉ là cách suy nghĩ và tranh luận phổ biến về các sự kiện chính trị theo những số liệu chính thống cũng như bên lề, mà còn cung cấp một cách giải thích thế tục về những thay đổi xã hội gây trở ngại trên phương diện cải tiến theo phương sách trước đó cho tới số phận, thiên mệnh hoặc ý Chúa. 23

Điều đó nói lên rằng, màn trình diễn giản dị thái quá và đầy đạo đức của Jefferson về những gì mà phe Liên bang và đặc biệt là phe Hamilton đang làm dúng là một khoảnh khắc trầm tư, nếu không vì lí do này thì cách giải thích theo kiểu Jefferson rằng Đảng Quốc gia không thực thi đầy đủ công lý sẽ thật sự có tác dụng. Có lẽ cách tốt nhất để diễn tả điều này là do ông bắt đầu với một quan niệm tinh khiết và đậm nét duy tâm hơn về các cấp độ tự do cá nhân có thể có trong thế giới này, đặc biệt là sau khi những tàn tích cuối cùng của vương quyền và thẩm quyền bị thổi bay, Jefferson đã che giấu sự nhạy bén trước việc thực thi rõ ràng quyền lực chính phủ hơn bất kỳ thành viên nào của thế hệ cách mạng. Bởi đen và trắng là những màu căn bản trong hình dung chính trị của ông, không có màu bóng mờ, không có khoảng nghỉ giữa các màu để ông hiểu rằng những tác động áp bức của quyền lực chính trị có thể được nghỉ ngơi nhiều hơn, ngay khi mối đe dọa với các mục tiêu không tưởng của ông trở thành hiện thực. Kế hoạch của Hamilton về một chính phủ liên bang chủ động được trao quyền để định hình thị trường và sắp đặt cả chương trình nghị sự tài chính lẫn chính trị chắc chắn không có đặc điểm quân chủ - nếu có thì cũng giống với những giá trị tiền thân trong Chính sách Kinh tế mới thế kỷ 20 hơn là một nỗ lực xưa cũ nhằm khôi phục quyền hành độc đoán của các vị vua và triều đình Trung cổ - nhưng trong tâm trí Jefferson, những khác biệt này là không đáng kể. Quyền hành của chính phủ thuộc bất kỳ loại nào đều là không thể chấp nhận vì nó có nguồn gốc bên ngoài cá nhân; do đó nó vi phạm lý tưởng lãng mạn của ông về tự trị cá nhân. Sắc lệnh của George III và các chính sách thuế của Nghị viện Anh đúng là đã gợi ra những nỗi sợ hãi giống như hồi thập niên 1760 và 1770. Nhưng Hamilton không chỉ gợi nên những ký ức xấu xa về sự đàn áp từ Anh, mà ông ta còn trực tiếp đe dọa cái cốt lõi của một thế giới đầy tiếc nuối ở Jefferson. 24

Ngoài ra, Ở Jefferson với tư cách là nhà lãnh đạo Đảng Quốc gia đang xuất hiện một ý thức mang nét rất đặc trưng Jefferson, khác hẳn với ý nghĩa gốc tiếng Anh của thuật ngữ này, vì lý do khá rõ ràng là “Quốc gia” có nghĩa khác hẳn đối với ông so với một người dân Walpole của Anh. Khi ông được yêu cầu mô tả các thành phần xã hội của hai bên, ví dụ, danh sách những người “chống cộng hòa” của ông bao gồm những người trung thành và bảo thủ trước đây, thương nhân Mỹ làm ăn với Anh, các nhà đầu cơ chứng khoán và quan chức ngân hàng, công chức liên bang và những người chạy chức chạy quyền khác, và - một phạm trù tâm lý đa năng - “người bồn chồn, với những dây thần kinh uể oải mang trạng thái thụ động nhiều hơn là chủ động”. Mặt khác, danh sách những người “cộng hòa” ngắn hơn nhiều nhưng bao gồm đa số cử tri Mỹ. Nó bao gồm “toàn bộ chủ đất trên khắp nước Mỹ” cũng như “tập thể người lao động không phải là chủ đất, dù làm nghề nông hay nghề thủ công”. Jefferson ước tính “tỷ lệ của phe cộng hòa và chống cộng hòa có thể là 500/1”. 25

Ở đây, người ta nhận được một luồng sinh khí mới mang đặc trưng dân chủ gắn liền với tên tuổi Jefferson sau này. Trong việc xây dựng Đảng Whig truyền thống, Đảng Quốc gia gồm một nhóm các chủ đất ưu tú, vốn phản đối các chính sách của Đảng Cung đình, và hai tầng lớp ưu tú cạnh tranh đưa ra những quy định khác nhau mang lại lợi ích tốt nhất cho nhân dân. Nhưng Jefferson đã xem mình là người lãnh đạo của phe đa số phổ thông, đấu tranh chính trị chống lại phe thiểu số ưu tú. Đây là một cách suy nghĩ mới về chính trị vào cuối thế kỷ 18. Đúng, nó đã dựa trên quan điểm truyền thống về âm mưu liên quan lâu dài đến ý thức hệ Whig. Ví dụ, những người “chống cộng hòa” ủng hộ các chính sách của Hamilton, dù chỉ là một nhóm thiểu số, nhưng được hưởng “những điều kiện giúp họ vừa mạnh vừa đông”. Lợi thế chính của họ, theo Jefferson, là “tất cả họ đều sống ở các thành phố, cùng nhau, và có thể sẵn sàng hoạt động trong một nhóm bất kỳ lúc nào”, trong khi các cử tri của ông “rải rác khắp cả nước, [và] có ít phương tiện để liên lạc với nhau”. (Nói cách khác, bất lợi chính mà Đảng Quốc gia phải đối mặt chính là Đảng này hoạt động ở vùng nông thôn). Nhưng đặc trưng khác thường trong việc xây dựng đời sống chính trị Mỹ của Jefferson chủ yếu là vấn đề về các con số. Ông coi mình là người phát ngôn cho đa số người Mỹ ngầm ẩn mà nếu có thể huy động thì họ sẽ đảm nhận vị trí xứng đáng như những người thừa kế đúng với “tinh thần năm ‘76”. Và thay vì coi họ là “công chúng”, vào những năm 1790 ông đã bắt đầu sử dụng cách nói dân chủ hơn: “người dân”. Đây là những xu hướng tiên tri. 26

ƯỚC MƠ VÀ NỢ NẦN

Trong năm đầu tiên Jefferson nghỉ hưu, rất ít thư được gửi đi từ Monticello, và những thư này đã chuyển tải được ấn tượng về việc cựu Ngoại trưởng Mỹ đã hoàn thành tốt cuộc phiêu lưu được chờ đợi đã lâu từ ngục tối chính trị tới thiên đường đồng quê của riêng mình. Ông viết thư cho Washington không phải với tư cách chủ trì mà như người bạn nông dân, gợi nhớ lại rằng cả hai người đã từng quen thuộc với kế hoạch sản xuất “một loại phân bón tinh chất, một pint (15) có thể bón cho một mẫu Anh”, và nếu bất kỳ nhà phát minh tài giỏi nào có thể làm ra phân bón đóng gói thì Jefferson giờ đây sẽ sẵn sàng mua với số lượng lớn. Trong thư gửi cho James Monroe, người đang là Công sứ Mỹ ở Paris, ông xin lỗi vì không thường xuyên viết thư, đổ lỗi cho sự im lặng lâu là “một dạng trì hoãn rất thường xảy ra khi không có điều kiện ấn định công việc trong một thời gian cụ thể”. Khi ông hay biết rằng người tình Paris cũ của ông, Maria Cosway, đã bỏ chồng, bỏ rơi đứa con nhỏ của bà và ở ẩn trong một tu viện Y, ông viết thư cho bà theo phong cách tình cảm thời quá khứ: “Tôi lấy làm tiếc vì khoảng cách đã làm chúng ta cách biệt, và sẽ không cho phép mình tin rằng chúng ta không có cơ hội gặp lại nhau nữa cho tới khi bà gặp lại tôi ở nơi thời gian và khoảng cách không có nghĩa lý gì nữa”. Nhưng bà đã sai khi chôn mình trong một phòng giam nơi “chưa từng [có] Mặt trời, những làn gió dịu mát chẳng bao giờ thổi tới…” Ông đã chọn hướng ngược lại cho mình, dành cả ngày hoạt động ngoài trời như “một nông dân thực thụ, đo đất, cày ruộng, giúp phơi cỏ khô, và chưa từng biết đến một ngày không làm được điều gì đó cho tương lai”. Ông quả quyết với bạn bè rằng sự thanh thản của mình, như một cánh đồng hoa được trồng, giờ đây đã nảy mầm và nở rộ bên trong tâm hồn. Đó là lý tưởng cả đời trong lòng Jefferson, hiện ở tuổi trung niên và trong khung cảnh nông thôn thích hợp: được “sống như một tộc trưởng Antedeluvia xung quanh con cháu, và cày xới đất của mình”. 27

(15) Đơn vị đo lường ở Mỹ, 1 pint = 0,473 lít.

Những đặc điểm nhất định giữa khung cảnh bình dị này, đặc biệt là ở khía cạnh gia đình, dường như đã cùng đến một lúc với Jefferson, ít nhất là trong giây lát vào giữa những năm 1790. Patsy giờ đây đã là một phụ nữ hoàn toàn trưởng thành, được Jefferson gọi là Martha, kết hôn với Thomas Mann Randolph, Jr. vào năm 1790, ngay sau khi cô từ Pháp về. Khi cô còn là một cô gái trẻ học tập tại Paris, Jefferson đã lo lắng ra mặt về khả năng “nó chỉ cưới được một kẻ ngu dốt”, nhưng Randolph đã xóa tan những lo lắng này. Là một quý ông Virginia của dòng họ thượng lưu, anh từng theo học tại Edinburgh, và thực tế đã bắt chước theo hình mẫu của cha vợ. Cao ráo, gân guốc, giống như Jefferson, nhưng có mái tóc màu đen và một làn da sẫm màu, Randolph là một kỵ sĩ huy hoàng, một trong số ít người Virginia có thể cưỡi ngựa nhanh hơn Jefferson, một người trẻ sở hữu sự quyến rũ rạng ngời và sự lập dị hấp dẫn giống như những người đàn ông khác trong gia tộc Randolph, chẳng hạn như vẫy chào lạnh lùng khi cưỡi ngựa phi qua một hàng rào cao khủng khiếp. Tới năm 1795, anh và Martha đã sinh được hai đứa cháu cho Jefferson. Sau này còn có thêm chín đứa nữa. Ngoài việc nắm giữ số bất động sản đáng kể ở Varina bên sông James phía dưới Richmond, vào năm 1792 Randolph còn mua Edgehill, một bất động sản 1.500 mẫu Anh cách Monticello chỉ hai dặm, vì vậy anh và Martha có thể hiện diện thường xuyên trong gia đình của Jefferson và là thành viên chính thức của Monticello suốt mùa hè. 28

Tháng 6 năm 1796, nhà quý tộc Pháp là Công tước de La Rochefoucauld-Liancourt, một trong những quý tộc tị nạn do cuộc chiến đẫm máu thời bấy giờ tại Pháp, đã ghé thăm và mô tả cảnh Jefferson giám sát thu hoạch lúa mì trên những cánh đồng với Randolph bên cạnh, nhận xét rằng “qua tình cảm mà ông ấy [Jefferson] dành cho anh ta”, Randolph “cứ như là con trai chứ không phải là con rể của ông ấy”. La Rochefoucauld-Liancourt sau đó đã tiếp tục mô tả các thành viên khác của gia đình Jefferson tại Monticello: Polly trước đây, giờ đã đủ trưởng thành để biến tất cả những cử nhân hội đủ điều kiện tại hạt Albemarle thành các vệ tinh. Cô đã được gọi bằng tên riêng của mình: “Cô Maria luôn sống với cha mình; nhưng khi cô 17 tuổi và khá xinh đẹp, thì chẳng nghi ngờ gì, cô sẽ sớm nhận ra rằng có những nhiệm vụ còn ngọt ngào hơn là làm một cô con gái”. Một năm sau, Maria hoàn thành lời tiên đoán ấy qua việc đính hôn với John Wayles Eppes, người mà Jefferson chỉ mô tả là chàng trai trẻ mà ông sẽ chọn cho cô con gái xinh đẹp tuyệt vời của mình “kể cả khi tôi có cả Trái đất này để chọn bạn đời cho con bé”. Jefferson sau này giải thích cho Martha là cuộc hôn nhân sắp tới của Maria đã đem đến hợp phần cuối cùng cho kế hoạch lâu dài của ông về sự hài hòa gia đình như thế nào: “Bây giờ cha thấy cuộc sống gia đình chúng ta đã tạo thành một nhóm, không một thành viên nào có thể gây to tiếng hay ganh tị lẫn nhau. Không có những cảm xúc bất thường, không