← Quay lại trang sách

Chương 4 WASHINGTON, D.C.: 1801-1804

Tất cả chúng ta là đều là người Cộng hòa - tất cả chúng ta đều là người Liên bang .

THOMAS JEFFERSON

Diễn văn Nhậm chức, ngày 4 tháng 3 năm 1801

Tôi sẽ không tìm cách trả thù nào khác, ngoài cách kiên trì theo đuổi kinh tế và hòa bình, thiết lập vững chắc các nguyên tắc cộng hòa, cả về nội dung lẫn hĩnh thức, nhấn chìm chủ nghĩa liên bang vào một vực thẳm không thể thoát ra .

JEFFERSON GỬI LEVILINCOLN

Ngày 25 tháng 10 năm 1802

⚝ ✽ ⚝

Truyền thuyết kể rằng ông đến lễ nhậm chức tổng thống của mình trong sự cô độc huy hoàng và với một thái độ khiêm nhường. Theo các nguồn không đáng tin cậy, dựa trên câu chuyện bịa của một du khách người Anh, ngay trước buổi trưa ngày 4 tháng 3 năm 1801, Jefferson đi tới đại lộ Pennsylvania bụi băm trong một khung cảnh mà các nhà sản xuất hình ảnh sau này có lẽ sẽ đặt tên là “Ông Jefferson tới Washington”: “Ông ấy mặc quần áo vải trơn, và ông ấy cưỡi ngựa đến đồi Capitol mà không có một người bảo vệ hay thậm chí tùy tùng nào đi cùng, xuống ngựa mà không cần ai giúp, và buộc dây cương ngựa vào hàng rào”. Câu chuyện tiếp diễn: ông bước vào phòng Thượng viện, đọc Diễn văn Nhậm chức của mình trong một phong cách khiêm tốn và bằng chất giọng, theo nhân chứng Margaret Bayard Smith thì “nhẹ nhàng như phụ nữ”. Thật vậy, ông phát biểu khẽ khàng đến mức rất ít khán giả có thể nghe thấy những gì ông nói. Sau khi tuyên thệ nhậm chức, ông nhanh chóng rời đi không chút phô trương và lại đơn độc cưỡi ngựa trở về phòng mình tại nhà trọ Conrad & McCunn. Ở đó, ông ngồi ở đầu bàn cách xa lò sưởi - vị trí quen thuộc của ông - và nhìn ra thế giới như một công dân bình thường của nước Cộng hòa Mỹ đang bẻ bánh mì cùng những người như mình. 1

Các chủ đề dân chủ về chủ nghĩa cá nhân và sự bình đẳng diễu hành, hoặc có lẽ là tiến thẳng đến chỗ chúng ta trong cách tạo dựng huyền thoại này. Và vì việc nhậm chức tổng thống của Jefferson có liên hệ mật thiết với sự xuất hiện của một xã hội Mỹ dân chủ hơn trong những năm đầu thế kỷ 19, nên nó có vẻ như rất hợp lý khi đưa ông vào cái bẫy của huyền thoại dân chủ. Chính Jefferson đã vô tình đóng góp cho cách giải thích này, khi mà một vài năm sau sự kiện đó, ông đã gọi cuộc bầu cử của mình là “cuộc cách mạng năm 1.800”, rồi lý giải rằng nó “là một cuộc cách mạng thật sự theo nguyên tắc của chính phủ chúng ta, giống như cuộc cách mạng năm 1776 vậy”. 2 Nhưng ý tứ thật sự của Jefferson khi nói những lời này, và những gì người đương thời với ông nghĩ về cuộc bầu cử lúc đó, lại không hoàn toàn dựa trên các mệnh lệnh huyền thoại của một nền văn hóa dân chủ. Có lẽ cách tốt nhất để làm nổi bật sự khác biệt giữa truyền thuyết dân chủ và thực tế lịch sử chính xác hơn là đi vào mô tả riêng rẽ những gì chúng ta biết về các sự kiện có thật trong ngày 4 tháng 3 năm 1801.

Không có con ngựa nào trong bức tranh. Phòng của ông ở Conrad & McCunn chỉ cách đồi Capitol một quãng ngắn, chỉ một vài trăm thước, nên ông đi bộ. Nhưng ông không đi bộ một mình. Trước mặt ông là một đội dân quân từ khu vực Alexandria gần đó, kiếm tuốt trần đang hành quân, theo sau là một đoàn đại biểu nghi lễ của quận Columbia. Đằng sau ông là một cuộc diễu hành nhỏ của các chức sắc, dẫn đầu là một dân biểu Cộng hòa và hai thành viên của nội các sắp mãn nhiệm, sự hiện diện của họ nhằm để minh họa cho sự tiếp nối công việc của Tổng thống Adams. Bản thân Adams lẽ ra phải có mặt thì lại không hiện diện, hoạt động sáng hôm đó sẽ diễn ra lúc 4:00 ngoài thành phố.

Các nhân chứng gần như đều nhất trí rằng sự đơn giản tương đối của “cuộc diễu hành nhỏ” ấy chính là để đưa ra một tuyên bố chính trị. Hầu hết các nhà bình luận đều nhấn mạnh vào sự tương phản giữa đoàn tùy tùng khiêm tốn, không trang hoàng và hào nhoáng của Jefferson với cỗ xe sáu ngựa đã được Washington và Adams sử dụng trước đó tại lễ nhậm chức của mình. Nhưng từ khóa ở đây là “cộng hòa” chứ không phải “dân chủ”. Không ai lúc đó nghĩ rằng sẽ mô tả cuộc bầu cử của Jefferson như sự lên ngôi của một thường dân. Những nhà quan sát duy nhất sẵn sàng mô tả ông như một “nhà dân chủ” là một vài người theo tư tưởng Liên bang cực đoan; và họ đã dùng thuật ngữ này như một biệt danh (nghĩa là, “nhà dân chủ nguy hiểm”). Chính Jefferson cũng ít khi sử dụng từ “dân chủ” trong tuyên bố công khai hay thư từ riêng của mình trước năm 1800, và chỉ đến khi được bầu ông mới bắt đầu làm như vậy. Trong một bức thư gửi cho Maria một vài tuần trước lễ nhậm chức, ông đã mô tả những gì đang xảy ra theo công thức quen thuộc nhất kiểu Jefferson, đó là: “Tôi cảm thấy một mong muốn chân thành, thật vậy, là được thấy chính phủ chúng ta trở lại nguyên tắc cộng hòa, được thấy chính phủ mà tôi đã cống hiến cả đời mình được gắn chặt với những nguyên tắc ấy”. Ông coi mình như một công cụ nhằm khôi phục “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy”, theo đó ý ông là các nguyên tắc chính trị được rèn giũa trong thử thách của Cách mạng Mỹ, những nguyên tắc sau đó đã bị những kẻ chủ trương Liên bang phá hỏng (tức là “người sùng Anh”, “người theo chủ nghĩa quân chủ”) từ năm 1776. 3

Trong tâm trí của cả ông lẫn của những người ủng hộ ông, lúc đó, việc Jefferson lên làm tổng thống tượng trưng cho sự phục hồi tình trạng thắt lưng buộc bụng thời cách mạng hơn là việc lên ngôi của một người bình dân. Sự đơn giản trong cách ăn mặc của Jefferson và thái độ khiêm tốn của “cuộc diễu hành nhỏ” đến đồi Capitol của ông được xem như một tuyên bố lạc hậu về “tinh thần năm “76”. Trong tâm trí Jefferson, những đột phá lịch sử lớn lao gần như luôn là sản phẩm của một cuộc thanh trừng, nó giải phóng xã hội khỏi các mảnh vỡ tích lũy của quá khứ và do đó cho phép các lực lượng tự nhiên bị cản trở trước đó tiến tới tương lai. Sự giản dị và cần kiệm, chứ không phải bình đẳng hay chủ nghĩa cá nhân, là những thông điệp từ cuộc diễu hành nhậm chức của ông. Đó là một tuyên bố của chủ nghĩa tối giản về một cuộc thanh trừng sự dư thừa và chú trọng vào bản chất.

THÀNH PHỐ CỘNG HÒA

Nếu đây chính là ý nghĩa của “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy” đối với Jefferson và những người đương thời, thì thông điệp mà họ dự định đã được hưởng một môi trường sống tự nhiên hoàn hảo tại thủ đô mới. Vì Washington, D.C., vào năm 1801 là địa điểm lý tưởng để khởi động một cuộc thập tự chinh chống lại sự thái quá. Sẽ không thể hình dung ra cảnh những triều thần lập kế hoạch trong những dãy hành lang, hoặc những kẻ chủ mưu đang âm mưu đằng sau những cánh cửa cung điện khóa kín, vì chẳng có tòa án, chẳng có cung điện, ngoài sự thật là có rất ít nhà cửa. Những vị dân biểu nếu muốn họp kín trong hành lang của đồi Capitol chưa hoàn thiện thì sẽ phải thường xuyên nói thi với tiếng súng trường của đám thợ săn đang đi bắn chim cút và gà tây rừng cách đồi Capitol chừng một trăm thước. Washington là thành phố cộng hòa hoàn hảo theo nghĩa vụng về ở chỗ nó không hẳn là một thành phố. Các gốc cây vẫn còn nhô lên ở một số điểm trên đại lộ Pennsylvania (có lẽ đây là một lý do nữa cho việc Jefferson không đến lễ nhậm chức của mình bằng xe ngựa), và khi một số du khách dừng lại để hỏi thủ đô mới của Mỹ ở đâu thì họ được thông báo rằng họ đang đứng ngay trong trung tâm của nó. Càng hợp lý hơn khi có ghi chép cho rằng vị tổng thống đầu tiên cư trú tại đây tin rằng các thành phố là những vết lở loét trên cơ thể chính trị, vì Washingon làm người ta nghĩ ngay đến thôn quê nhiều hơn thành thị, một vết thương hở đang chảy máu vào sông Potomac. 4

Jefferson từ lâu đã hối tiếc về “thương vụ bàn ăn”, dẫn tới việc thủ đô quốc gia bị đặt ở vị trí phía nam, trên bờ sông Potomac; ông gọi nó là quyết định sai lầm nhất trong cả sự nghiệp của ông. Nhưng lúc đó ông đang ám chỉ lối ngoại giao xảo quyệt của Hamilton đã quyến rũ ông, khiến ông chấp nhận giả thiết của liên bang về các khoản nợ công, chứ không phải việc đặt thủ đô tại một nơi khó tin giữa đầm lầy Chesapeake. Chính Washington đã đưa ra các quyết định quan trọng về địa điểm đầm lầy và diện tích vô duyên của nơi này. Ông đã chọn một chỗ đất lún tự nhiên, có vành hình đĩa, có thể giữ nhiệt và độ ẩm hiệu quả đồng thời là một nơi sinh sản lý tưởng cho muỗi. Những ngọn đồi xung quanh vừa đủ cao để cản trở sự di chuyển của không khí và vừa đủ thấp để ngăn cản sự hiện diện của cảnh vật ở xa. Washington cũng đã hợp nhất cả hai kế hoạch đô thị được đề xuất với ông, do đó mở rộng biên giới của thành phố này. Kết quả là, thay vì bắt đầu với một nơi tập trung dân cư và mở rộng ra, thì thành phố mang tên ông lại bắt đầu bằng một không gian rộng lớn nhưng hầu như trống rỗng, rồi sau đó mới dần dần được lấp đầy. Du khách châu Âu và Mỹ luôn bị nhầm lẫn khi đặt chân vào thủ đô của Mỹ, vì những nhà quản lý thành phố đã công bố các tấm bản đồ và bản in chi tiết cho thấy cách bố trí của các đường phố và các tòa nhà trong hình dung mà không giải thích rằng sẽ phải mất hàng thập niên thì thực tế mới bắt kịp với tầm nhìn. Những lời cuối cùng của Washington về dự án này, chính xác một cách kỳ quái như thường lệ mỗi khi nói đến những vấn đề thiết yếu, dự đoán rằng các không gian trống sẽ cho phép thủ đô của quốc gia trở nên vĩ đại “trong khoảng một thế kỷ”. 5

Điều đó làm cho Washington trở thành một thành phố phong cách Jefferson kiểu mẫu theo một nghĩa khác, cụ thể đó là một lời hứa chắc chắn, một số người sẽ nói là ngớ ngẩn, về khả năng tiềm ẩn của quốc gia, giống như một chàng thanh niên trong những năm đầu đời đã vẽ lên một kế hoạch cho ngôi nhà trong mơ của mình và sau đó tự tin chờ đợi những kỳ vọng của mình sẽ đạt được trong tương lai. Du khách nước ngoài thường xuyên ghi lại sự không bằng lòng của họ với phong cách tân cổ điển táo bạo của Tòa nhà Tổng thống và đồi Capitol - tòa nhà công cộng duy nhất ở đó vào năm 1801 - sau đã bị lún xuống giữa một đầm lầy. “Đường phố đầy bùn vào mùa đông, và bụi mù vào mùa hè”, một người hài hước kể lại, “và thay vì những công trình lớn lộng lẫy, bạn sẽ chẳng thấy gì ngoài ruộng ngô và đồng cỏ, những kênh rạch cạn khô và những đầm lầy bẩn thỉu, nơi ếch nhái làm tình trong âm điệu thích thú giòn vang nhất, và chúng rống lên như thể chúng quyết tâm không giữ bí mật chuyện này”. Đổi tên Goose Creek thành Tiber đã trở thành nguồn cho nhiều câu chuyện cười về sự lố bịch của một thành Rome nước Mỹ. Một nhà thơ Ireland trẻ là Thomas Moore đã biến những ý tứ ấy thành vần vèo, thậm chí đưa cả Tổng thống Jefferson vào mạch thơ:

Đây nơi đô thị đồng quê, nơi trong trí tưởng tượng ta thấy

Quảng trường trong đầm lầy, bia tưởng niệm trên cây cối .

Những thứ sẽ đẹp đẽ theo lời tiên tri

Đền miếu chưa dựng và anh hùng chưa sinh .

Dù giờ chỉ thấy tuyền rừng và J --,

Nơi lý ra phải là phố phường và ngải đắng . 6

Dù bài thơ dở tệ này có thiếu sót đến đâu về mặt thi ca, nhưng đúng là nó đã thu hút được sự chú ý đến sự khác biệt rõ ràng giữa thực tế là Washington giống như một bộ sưu tập hỗn tạp những ngôi làng và tuyên bố khá tự phụ, mà kỳ diệu thay qua thời gian lại hóa ra gần đúng, rằng thủ đô giả tạo này là tâm chấn của một trận động đất chính trị mà định mệnh đã định để lật đổ mọi vương triều và bạo chúa trên hành tinh. Nhưng vào thời điểm đó, nghịch lý đáng chú ý này chỉ trông giống như một mâu thuẫn đơn giản. Capitol chưa hoàn thiện đã minh chứng cho điều này bằng hình ảnh. Thứ mà Jefferson nhìn thấy khi ông kết thúc “cuộc diễu hành nhỏ” của mình chính là một công trường xây dựng. Trung tâm của đồi Capitol đã mất tích hoàn toàn, và các cột trụ được thiết kế để đỡ mặt tiền phía trước vẫn đang nằm ngổn ngang trên bãi cỏ. Chái nhà phía bắc, nơi Hạ viện họp, mới chỉ xong phần khung nhưng mái chưa xong; đám nghị sĩ gọi vui nó là “cái lò”. Jefferson đã chọn tuyên thệ nhậm chức tổng thống trong phòng Thượng viện chủ yếu là vì lúc đó nó là tòa nhà công duy nhất có sẵn. 7

Tất nhiên biểu tượng đô thị và kiến trúc chỉ có thể giúp ta dựng lại không khí ban đầu ở buổi lễ nhậm chức của Jefferson. Một khi bước vào phòng Thượng viện, chúng ta bước vào một khu vực nội bộ theo nhiều nghĩa. Mọi chỗ trong phòng Thượng viện đều đã có người ngồi, hành lang hết chỗ chứa. Cánh phóng viên ước tính khán giả tham dự vào khoảng 1.000 người. Trong khi chúng ta có thể chắc chắn rằng họ đã không đến để nghe về sự xuất hiện của Nền Dân chủ Jefferson mà là về sự phục hồi của “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy”, thì ta lại không tài nào biết được rõ ràng ý nghĩa của nó là gì. Có một sự kịch tính và căng thẳng đằng sau màn chào đón Jefferson khi ông tiến đến sân khấu nhỏ ở tầng dưới phòng Thượng viện. Chờ để gặp ông là Phó Tổng thống Aaron Burr, đã tuyên thệ nhậm chức trước đó vào buổi sáng, và Chánh án John Marshall, có mặt để điều hành lễ tuyên thệ của Jefferson.

Bất kỳ cuộc tụ tập nào có mặt Burr đều có khả năng trông giống như một âm mưu. Trong mắt những người đương thời, ông là một thành viên bí ẩn và lanh lợi nhất của thế hệ cách mạng. John Adams tin rằng Burr là người duy nhất có khả năng vượt qua cả Hamilton trong cuộc đua để trở thành một Napoleon của Mỹ. Ông tỏa sáng và xuất sắc trong phong cách Hamilton, và lợi thế duy nhất của ông so với Hamilton, trên thực tế là so với tất cả các đối thủ cạnh tranh, đó là khả năng bất chấp mọi nguyên tắc đạo đức hay chính trị vốn cản trở con đường quyền lực của mình. “Đối với Burr”, Hamilton viết vào tháng 12 năm 1800, “đến đám bạn thiên vị nhất cũng không ủng hộ tính cách cá nhân của ông”, và thêm rằng “Ông Burr [là] người không thích hợp nhất cho vai trò Tổng thống tại Mỹ”. Hamilton dường như cảm thấy ở Burr một phiên bản hiểm ác hơn về tham vọng chính trị chộn rộn của chính mình, cũng giống Burr dường như cảm thấy ở Hamilton một chính khách Mỹ duy nhất cả gan thách thức yêu cầu chính đáng của ông. Sự rất giống nhau về tính khí của hai người đã khiến họ cạnh tranh với nhau đến mức sống còn. Nếu chỉ nhìn lại, có vẻ hoàn toàn có thể dự đoán được rằng hai nhân vật phản diện sẽ đối mặt nhau bằng súng ngắn trên cánh đồng Weehawken ba năm sau đó và Burr, không bị đè nặng bởi bất kỳ quy tắc danh dự cổ lỗ nào, sẽ lạnh lùng găm một viên đạn vào cột sống của Hamilton. 8

Tại sao một nhân vật không có chút gì tính cách của Jefferson lại đang đứng đó trong phòng Thượng viện, chào đón Jefferson với tư cách là người đứng thứ hai sau ông? Câu trả lời ngắn gọn là Burr chịu trách nhiệm chính cho cuộc bầu cử của Jefferson. Trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1800, một lần nữa Jefferson lại phải đấu với Adams. Mặc dù ứng viên Cộng hòa cho vị trí trong Quốc hội và nhà nước giành chiến thắng vang dội, nhưng Adams vẫn dẫn đầu các ứng viên Liên bang khác về số phiếu. Trong tất cả các bang trừ New York, Adams thực ra có số phiếu đại cử tri bằng hoặc hơn số phiếu ông đã giành được trong cuộc đua năm 1796, cuộc đua mà ông đã thắng sít sao. Nhưng New York đã dứt khoát bầu cho Jefferson, nên chiến thắng của Adams sẽ là rất mong manh. Và người đã giao các đại cử tri của New York cho phe của Jefferson chính là Aaron Burr kiên cường, cái giá phải trả cho Burr về những đóng góp quan trọng này chính là một chỗ trên lá phiếu cùng Jefferson. 9

Đoạn kết tối quan trọng cho câu chuyện chính trị này xảy ra trong những tuần sau chiến thắng của Jefferson. Sau đó, kỳ lạ thay, đầy đau buồn là hệ thống bầu cử đã ngăn cản cử tri phân biệt giữa phiếu bầu cho tổng thống với phiếu bầu cho phó tổng thống (sau đó đã được sửa lại bằng Tu chính án Thứ mười hai), nên Jefferson và Burr đã nhận được cùng số phiếu đại cử tri. Điều này đã đẩy cuộc bầu cử vào Hạ viện, nơi phe Liên bang có thể chặn được phần lớn số phiếu cần thiết cho việc Jefferson được chọn trong sáu ngày với 36 phiếu. Mặc dù tất cả đều thừa nhận rằng cử tri Mỹ đã có ý định chọn Jefferson làm tổng thống, nhưng Burr đã không làm gì để cho thấy ông sẵn sàng trì hoãn. (Hành vi trì hoãn tôn kính là một thứ xa lạ với phong cách của Burr). Vì vậy, người đón chào Jefferson khi ông bước vào phòng Thượng viên là một kẻ âm mưu chính trị tai tiếng, người mà chỉ một vài tuần trước đó đã bị động trao mình cho một âm mưu của phe Liên bang được thiết kế để lừa Jefferson ở chức vụ ông sắp nhận. 10

Rồi có John Marshall. Xét theo mọi lẽ, Marshall đáng ra phải là một đệ tử của Jefferson. Một người đồng hương Virginia, thâm chí là một người họ hàng xa thông qua gia tộc Randolph có mặt ở mọi nơi, Marshall cùng thời với Madison và Monroe, bằng cách nào đó đã lách được qua mạng lưới thường tập hợp những người trẻ tuổi tài năng của Virginia vào gia đình chính trị của Jefferson. Vào thời điểm Hiệp ước Jay, ông đã trở thành một trong những người nổi bật nhất của phe Liên bang; Jefferson đã từ chối ông vì cho rằng con người này “có tác phong lười biếng, thiếu cẩn thận… và đạo đức giả sâu sắc”, cách mà Jefferson coi Marshall là một kẻ phản bội phiên bản chủ nghĩa cộng hòa của Virginia. Tài năng của Marshall đã thu hút sự chú ý của Adams vào năm 1797, và ông được bổ nhiệm làm một thành viên trong đoàn đại biểu hết sức quan trọng của Mỹ sang Pháp, sau đó là Ngoại trưởng, và cuối cùng trong tuần chót của Tổng thống sắp mãn nhiệm Adams là Chánh án tối cao của Mỹ. 11

Nếu nói rằng Jefferson và Marshall ghét nhau, thì đó sẽ là đi quá xa ờ thời điểm năm 1801; ghét bỏ chỉ xuất hiện sau này và thể hiện rõ nét hơn. Bằng một cách lạ lùng, Marshall đại diện cho những khó khăn là hình ảnh phản chiếu của những khó khăn do Burr đại diện, vì Marshall luôn che đậy được những cảm xúc cá nhân dành cho Jefferson ẩn sau một lớp màn được xây dựng tỉ mỉ bằng các luận cứ vô tư, luôn kết thúc bằng việc khiến ông không có sự lựa chọn nào khác ngoài việc đặt mình vào phía bên kia. Cũng giống như việc Hamilton không ưa Burr bắt nguồn từ sự chồng chéo tham vọng của họ và việc hai người đều nổi tiếng quyết đoán, nên sự mất lòng tin của Jefferson vào Marshall càng trầm trọng hơn do cả hai đều ưa thích một phong cách tinh tế và gián tiếp hơn, có lẽ xuất phát từ quy tắc lịch sự của Virginia. Nếu Hamilton đến với bạn bằng đao kiếm, Marshall lại ưa thích dao găm.

Mặt khác, thứ làm nên sức mạnh cho sự rất thẳng thắn ở Marshall là một đầu óc có cách làm việc khác căn bản với Jefferson, người có xu hướng lọc và xếp kinh nghiệm vào hai hạng mục căn bản là đúng và sai. Marshall thì lại làm việc trong tông màu nhờ nhờ và mang quang phổ trung gian hơn, cũng giống như Madison, Marshall có trí tuệ nhanh nhẹn hơn theo kiểu luật sư trong việc phân biệt và phá vỡ lối tư duy phân đôi của Jefferson thành nhiều phần nhỏ hơn. Ông là một thiên tài về lĩnh vực mà Jefferson sau này gọi là “khả năng bóp méo” - nghĩa là những lập luận phức tạp mà dường như đang đi theo đúng hướng của Jefferson, nhưng sau đó, bằng cách nào đó, quay trở lại và hạ cánh dứt điểm ở phía bên kia chiến tuyến. Rất giống sự khéo léo của Hamilton trong cách làm việc với sổ sách kế toán và những con số tài khóa phức tạp, đối với Jefferson mà nói, lý luận của Marshall thường xuất hiện như những hành động ma quỷ của một phù thủy độc ác. Ông cũng cực kỳ khéo léo khi gây ra thiệt hại lớn nhất với sự nghiệp của người khác bằng cách ra sức bảo vệ nó. Ví dụ, trong những tuần trước lễ nhậm chức, ông đã thừa nhận mình có “những phản đối khó chịu” về việc bầu Jefferson và tin rằng định kiến chính trị của Jefferson đã làm ông “hoàn toàn… không phù hợp với vai trò quan tòa của một quốc gia, nghĩa là không thể chiều theo những định kiến này mà không gây ra thương tổn sâu sắc và lâu dài”. Nhưng bất chấp những dè dặt này, ông vẫn mong người ta biết rằng một số lời chỉ trích của phe Liên bang đối với Tổng thống đắc cử là không công bằng. Nếu những người theo thuyết Jefferson được chia thành “những nhà lý thuyết ước đoán và những kẻ khủng bố tuyệt đối”, thì chính Jefferson lại không cho mình là thành viên của nhóm thứ hai. 12

Ở cấp độ chính trị hơn là cá nhân, người đàn ông đang chờ để chủ trì lễ tuyên thệ cho Jefferson trong phòng Thượng viện đông đúc cảm thấy đặc biệt khó chịu vì ông đứng đó như hiện thân cuối cùng của “đám quan tòa nửa đêm”. Cụm từ này không phải do Jefferson nghĩ ra, mặc dù ông đã nhanh chóng sử dụng nó như một cách để ám chỉ các vị trí tư pháp mà Adams đã chỉ định, bị cho là vào những giờ cuối cùng làm tổng thống của ông. Bản thân cụm từ đã phần nào gây hiểu nhầm, vì nó gợi lên hình ảnh Adams dành đêm cuối cùng của ông tại dinh thự tổng thống, giận dữ ký những lá thư bổ nhiệm dưới ánh đèn dầu nửa đêm trong một cơn co thắt vô vọng của hận thù chính trị trước khi đón thời kỳ mới vào sáng sớm ở thành phố ngoài kia. Trong thực tế, Adams đã bổ nhiệm phần lớn các vị trí trong cơ quan tư pháp, trong đó có Marshall với chức vụ chánh án, vài tuần trước đó, ngay sau khi thông qua Đạo Luật Tư pháp vào tháng 2 năm 1801. Tuy nhiên, đúng là những việc bổ nhiệm này, bao gồm cả vị trí của Marshall, lại diễn ra sau khi công khai kết quả của cuộc bầu cử tổng thống năm 1800, vì vậy theo nghĩa đó chúng đã tạo thành một hành động mang tính đảng phái được thiết kế để dí các thẩm phán phe Liên bang vào tay tổng thống tương lai của phe Cộng hòa. Adams có thể tuyên bố như ông đã làm, rằng ông chỉ đơn giản là làm những gì Washington đã làm trong tuần cuối cùng trên cương vị tổng thống; nhưng đó là một tiền lệ thiếu thuyết phục vì việc bầu Jefferson thể hiện sự phủ nhận căn bản chính quyền phe Liên bang đương nhiệm, trong khi Adams lại đại diện cho một sự tiếp nối. 13

Để làm cho các vấn đề tồi tệ hơn, Marshall được bổ nhiệm không có nhiệm kỳ. Đó là một vị trí suốt đời và chỉ có thể bỏ trống nếu Marshall phạm vào “hành vi phản nghịch” hoặc bị truy cứu là “tội phạm cấp cao và xằng bậy”. Điều này biến ông thành một kiểu “con ngựa thành Troy” được đặt ngay chính giữa nhiệm kỳ tổng thống của Jefferson, vị tư lệnh chính thức của hệ thống tư pháp phe Liên bang mà rõ ràng là không hề bị lay chuyển trước ảnh hưởng hành pháp hay công luận. Cũng không phải là Marshall không ý thức được vị trí thật sự duy nhất của ông và cơ hội gần như mở đến tận cùng của mình - ông coi đó là một nhiệm vụ - gây rối. Vào ngày nhậm chức, ngay trước khi ông bước tới đồi Capitol, ông đã viết một lá thư trấn an một đồng nghiệp phe Liên bang. “Về tầm quan trọng của ngành tư pháp tại mọi thời điểm, mà đặc biệt hơn là ở thời điểm hiện tại, tôi hoàn toàn ấn tượng”, ông giải thích, “và tôi sẽ nỗ lực trong vai trò mới của mình, một vai trò mà tôi được yêu cầu là không làm bạn bè tôi thất vọng”. Jefferson tất nhiên là không biết gì về lá thư này, nhưng ông biết đủ nhiều để nghi ngờ trò phá hoại thường xuyên xuất phát từ cái góc được bảo vệ của Marshall. Ngày hôm trước, dự đoán rằng Marshall có thể sẽ xuất hiện muộn nhằm phá hỏng sự trang trọng của buổi lễ, Jefferson đã gửi cho ông một ghi chú ngắn gọn nhắc nhở ông phải có mặt đúng 12 giờ. Marshall hồi âm, trấn an Tổng thống đắc cử rằng ông luôn đúng giờ. 14

Dù bộ ba kỳ quặc gồm Burr, Marshall và Jefferson có nuôi dưỡng một sự ghét bỏ và thiếu tin tưởng lẫn nhau đến đâu, thì đây cũng chỉ đơn thuần là chuyện cá nhân hoặc chuyện riêng mỗi người. Ở mức độ công cộng lớn hơn, sự căng thẳng hiện hữu trong phòng Thượng viện bắt nguồn từ hai nỗi lo chồng chéo: Thứ nhất, việc Jefferson và phe Cộng hòa lên nắm quyền là chưa có tiền lệ theo nghĩa rằng phe Liên bang đã kiểm soát chính phủ liên bang kể từ khi thành lập vào năm 1789; thứ hai, thông điệp chính trị chi phối của Jefferson trong suốt những năm 1790 gần như hoàn toàn tiêu cực, theo nghĩa rằng ông cầm đầu phản đối các phiên bản của phe Liên bang về quyền lực liên bang và phản đối việc thành lập một chính phủ quốc gia mạnh trên cơ sở cho rằng điều này vi phạm những ý định ban đầu của Cách mạng Mỹ. Hai nỗi lo này gộp lại làm dấy lên những câu hỏi nghiêm túc về sự tồn tại của một chính phủ liên bang mà tân Tổng thống dọa sẽ phá bỏ. 15

Câu trả lời cho loạt câu hỏi đầu tiên có vẻ rõ ràng và chắc chắn, về căn bản đã được thể hiện ngay trong lễ nhậm chức. Margaret Bayard Smith, vợ của biên tập viên tờ National Intelligencer thân Jefferson và là một khán giả của buổi lễ, đã diễn đạt một cách ngắn gọn nhất về điều này: “Những thay đổi về chính quyền, cái mà với mọi chính phủ trong mọi thời đại nói chung, thường là những kỷ nguyên của sự lẫn lộn, ti tiện và đổ máu, diễn ra trong đất nước hạnh phúc này mà không có bất kỳ sự phân tâm hoặc hỗn loạn nào”. Quan trọng là điều này đã diễn ra như một thực tế căn bản, quan trọng hơn cả sự giản dị phô trương và tính biểu tượng cộng hòa của cuộc diễu hành nhậm chức. Việc chuyển giao quyền lực chính trị một cách hòa bình từ chế độ này sang chế độ khác, một vấn đề đã ám ảnh các chính phủ châu Âu từ lớn tới nhỏ, trong mọi hình dạng và hình thức từ thời xa xưa, và thật sự vẫn tiếp tục ám ảnh một số quốc gia hùng mạnh nhất trong thế giới hiện đại, đã diễn ra vô cùng bình thản. Phe Liên bang bị đánh bại cảm thấy cay đắng, hẳn rồi, nhưng họ vẫn tôn trọng ý chí của cử tri. Trong cuộc tranh luận và bỏ phiếu kéo dài tại Hạ viện vào tháng 2, Thomas McKean, Thống đốc theo phe Cộng hòa của bang Pennsylvania, đã đe dọa sẽ kêu gọi 20.000 dân quân nếu phe Liên bang định giở trò gian lận với chiến thắng của Jefferson. Một người Pennsylvania khác, Hugh Henry Brackenridge, đã khuyên Jefferson giành chính quyền và triệu tập chính phủ mà không cần chờ cho Hạ viện giải quyết bế tắc với Burr. Một số người Virginia đã đề nghị triệu tập một hội nghị lập hiến mới để tái cơ cấu chính phủ liên bang, vì dự đoán phe Liên bang sẽ giở trò lừa bịp. Nhưng tất cả những cảnh báo ấy đều không được ai để ý, và cảm giác của họ hóa ra chỉ là sự phóng đại mà thôi. Mặc dù đó không phải là điều Jefferson muốn ám chỉ khi sử dụng cụm từ “cuộc cách mạng năm 1800”, nhưng tính cách mạng đặc trưng nhất trong việc nhậm chức tổng thống của ông chính là ý nghĩa thông thường của nó. Nói cách khác, những sự kiện trọng yếu nhất lại chính là những thứ đã không xảy ra. 16

Câu trả lời cho loạt câu hỏi thứ hai - về chương trình nghị sự chính trị của Jefferson với tư cách Tổng thống - còn đau đầu hơn nữa. Không ai biết chắc chắn ông hàm ý gì trong cụm từ “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy”, ngoại trừ có lẽ là điều này đòi hỏi phải giảm bớt quy mô và phạm vi của chính phủ liên bang. “Ông Jefferson đã được tính toán kỹ càng để kéo đổ mọi công trình chính trị lớn”, một người Virginia theo phe Liên bang viết, “và người ta sẽ không phải thất vọng, không phải lo ngại ông sẽ dùng chính mình… để phá tan tòa nhà quốc gia ra từng mảnh…”; ông cảnh báo rằng “ngay cả nền móng của nó cũng sẽ bị san bằng trong vòng chưa đầy bốn năm”. Việc nhắc đến “nền móng” là ám chỉ mối lo chính của phe Liên bang, đó là việc Jefferson định từ bỏ việc dàn xếp hiến pháp năm 1788. Dù sao thì ông cũng đã được bầu làm lãnh đạo của một đảng chính trị mà tiền để trung tâm của nó lại thù địch với bất kỳ hành động thực thi quyền lực nào của chính phủ liên bang đối với các vấn đề trong nước. Cái mà Jefferson gọi là “các nguyên tắc Whig cổ” với thái độ đầy ngưỡng mộ, thực ra lại hoàn toàn đối lập về mặt bản chất, được phát triển ở Anh như truyền thống bất đồng chống lại sức mạnh tích tụ của nhà vua và triều đình, sau đó là ở Mỹ vời tư cách cơ sở tư tưởng cho việc chống lại sự áp đặt của cả sức mạnh Hoàng gia lẫn Nghị viện lên các thuộc địa. Rõ ràng Jefferson và những người ủng hộ phe Cộng hòa của ông coi các chính sách của phe Liên bang trong những năm 1790, đặc biệt là chương trình tài khóa của Hamilton, như một sự phản bội đối với “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy”. Nhưng theo như logic vốn đối lập trong tư tưởng Jefferson, việc ông cũng bác bỏ quyền hạn quá lớn được giao cho chính phủ quốc gia theo Hiến pháp không chỉ hợp lý, mà còn có vẻ gần như bắt buộc. Điều này có nghĩa là quay ngược kim đồng hồ trở lại những năm 1790 và 1780, khi quyền lực của chính phủ quốc gia căn cứ theo Điều lệ Liên bang là rất yếu. Thật ra, nếu xem xét sự ác cảm sâu xa của Jefferson đối với những ép buộc chính trị thuộc mọi thể loại và cam kết lâu dài của ông với truyền thống bất đồng, trong đó coi tất cả quyền lực nhà nước về mặt bản chất là độc đoán và tham nhũng, thì thật khó để biết nơi ông đã vẽ đường ngăn cách giữa việc thực hiện hợp pháp quyền lực chính trị với việc vi phạm quyền tự do cá nhân một cách áp bức và lạm dụng. Phe Liên bang sẽ đặt câu hỏi, làm thế nào ông có thể tuyên thệ giữ gìn, bảo đảm và bảo vệ Hiến pháp Mỹ, nếu mục tiêu chính của ông khi làm tổng thống là phá bỏ các thiết chế liên bang được tạo ra bởi chính văn kiện này? 17

Câu trả lời ông dường như rò rỉ ra cho những người ủng hộ Đảng Cộng hòa trong những tháng trước lễ nhậm chức của mình, đó là ý định của ông không phải phá bỏ chính phủ liên bang, mà chỉ là thu nhỏ nó. “Lý thuyết thật sự trong Hiến pháp của chúng ta”, ông nói với Gideon Granger, là “các bang độc lập mọi thứ trong đối nội, và đoàn kết mọi thứ trong đối ngoại”. Điều này nghe có vẻ rất giống với quan điểm mà ông đưa ra trong thập niên 1780, khi Hiến pháp được soạn thảo và trước khi Madison thuyết phục ông ủng hộ việc phê chuẩn nó. Điều này cũng thống nhất với quan điểm của ông vào năm 1798, khi ông và Madison cùng làm việc để soạn thảo các Nghị quyết Kentucky và Virginia nhằm ngăn chặn việc thực hiện các Đạo luật về ngoại kiểu và chống nổi loạn, một đạo luật trọng yếu dưới thời ông làm Phó tổng thống. Ở chức vụ đó Jefferson đã đi được xa hơn nhiều so với Madison trong việc công nhận quyền của một bang được phép vô hiệu hóa luật liên bang trong phạm vi biên giới của nó, thậm chí còn mô tả sự can thiệp của liên bang vào các vấn đề của bang giống như sự can thiệp của chính phủ nước ngoài. Tháng 10 năm 1801, ông cũng cho thấy là ông ủng hộ một đề nghị được lưu hành ở Virginia của John Taylor và Edmund Pendleton, trong đó kêu gọi thực hiện chế độ tổng thống một nhiệm kỳ và giảm bớt quyền hành pháp, nhiệm kỳ ngắn hơn cho thượng nghị sĩ, các thẩm phán liên bang có thể bị Quốc hội bỏ phiếu bãi miễn và giới hạn trong hiến pháp về quyền đi vay của chính phủ liên bang. Dù người ta có coi những gợi ý này là “co lại” hoặc “tháo dỡ”, thì chúng đều cho thấy những tin đồn của phe Liên bang là đúng, rằng Jefferson có ý định tiêu diệt nền tảng hiện tại của chính quyền trung ương và do đó cho phép Mỹ trở thành một loạt các quốc gia-dân tộc riêng biệt như châu Âu, theo kiểu của Pháp, Y và Áo. 18

Nếu có một sự đồng thuận trong nội bộ cả hai phe Cộng hòa và Liên bang, rằng việc bầu Jefferson có nghĩa là giảm triệt để quyền hạn của chính phủ liên bang, thì câu hỏi duy nhất ở đây sẽ là giảm bao nhiêu và bất đồng chính trị duy nhất là phe Cộng hòa thì vui mừng khôn xiết còn phe Liên bang lại hoảng sợ, và một tiếng nói bất đồng sẽ không là ai khác ngoài Alexander Hamilton. Nhận thức được rằng “đã là quá muộn để tôi trở thành người biện hộ cho ông ấy”, và rằng dù sao ông “cũng không thật sự có bất kỳ ý muốn nào làm điều đó”, Hamilton tiếp tục nửa đùa nửa thật bảo vệ các nguyên tắc chính trị của Jefferson: “Tôi thừa nhận rằng chính trị của ông ấy nhuốm màu cuồng tín, rằng ông ấy quá nghiêm túc với quy tắc dân chủ của mình, rằng ông ấy là một kẻ thù tinh quái đối với các biện pháp chủ yếu của chính quyền trước đó, rằng ông ấy xảo quyệt và kiên trì với các mục tiêu của mình, rằng ông ấy không thành thật về những phương tiện để thành công, cũng không lưu tâm lắm đến sự thật, và rằng ông ấy là một kẻ đạo đức giả đáng khinh”. Nhưng bất chấp mọi điểm yếu cá nhân này, mà thực ra là một phần do những điểm yếu này đã khiến Hamilton dự đoán rằng Jefferson “có khả năng giống như bất kỳ người nào mà tôi biết có thói quen trì hoãn…; và kết quả có thể xảy ra với một tính khí như vậy là việc bảo tồn những hệ thống, mặc dù ban đầu là đối lập, nhưng một khi đã được thiết lập, sẽ không thể bị lật ngược mà không gây nguy hiểm cho người đã làm việc đó”. Cũng giống như mọi người khác, Hamilton thừa nhận, ông chỉ đang đoán, nhưng ông không tin rằng Jefferson lại muốn duy trì loại áp lực cần thiết để hủy bỏ chính phủ liên bang. “Đối với tôi”, Hamilton kết luận, “một ước tính thật sự về tính cách của ngài J bảo đảm kỳ vọng về một hệ thống tùy cơ ứng biến hơn là một hệ thống bạo lực”. 19

Lúc đó, những điều này là các rung động cá nhân hoặc riêng tư cũng giống như những suy đoán chính trị lớn hơn hiện hữu trong phòng Thượng viện khi Jefferson quay ra khán giả và bắt đầu đọc Diễn văn Nhậm chức của mình. Một đặc điểm trong lời kể huyền thoại là hoàn toàn chính xác - giọng ông khẽ khàng và khó nghe tới mức chỉ ít người ở hàng đầu tiên mới có thể nghe thấy những gì ông nói - nhưng ông đã chăm chút cho bài phát biểu của mình giống như ông đã làm với Tuyên ngôn Độc lập. Và lần này, mọi từ ngữ đều là của ông, không bị chỉnh sửa bởi các ủy ban hoặc những vị đại biểu thích can thiệp. Hơn thế nữa, ông đã kịp hoàn thành việc sửa đổi để có thể đưa dự thảo cuối cùng đi in và gửi cho tờ National Intelligencer vào ngày phát biểu, vì vậy có khả năng là một số người trong đám khán giả đã có trong tay bản in bài phát biểu từ trước để theo dõi bất chấp giọng đọc khó nghe của ông. Những gì họ nghe thấy, hoặc có thể đọc được, hóa ra là một trong hai hoặc ba bài phát biểu nhậm chức quan trọng nhất trong lịch sử Mỹ, và ngoài bản Tuyên ngôn thiêng liêng, đây là tài liệu hùng hồn và nghệ thuật nhất mà Jefferson từng chế tác. 20

DIỄN VĂN NHẬM CHỨC ĐẦU TIÊN

Giống như bất kỳ tuyên bố khai sinh nào trong lịch sử Mỹ, mặc dù không giống phần lớn những phát biểu nhậm chức của các tổng thống Mỹ khác, nhưng phát biểu của Jefferson ngày 4 tháng 3 năm 1801 lại có lợi ích trên nhiều cấp độ. Ở mức độ tinh vi nhất và cao nhất, ở nơi mà kỹ năng văn phong của Jefferson cảm thấy thoải mái nhất và vận hành hạnh phúc gần như thơ, bài phát biểu của ông chứa nhiều đoạn văn vang vọng qua năm tháng với những cụm từ đáng nhớ. Là một tuyên bố hùng hồn về sự khiêm tốn phù hợp với sự thông tuệ toàn diện mà chúng ta tìm kiếm ở một tổng thống mới, không ai nói điều đó hay hơn, ví dụ như:

Tôi đã học được cách hy vọng rằng đám những người đàn ông không hoàn hảo sẽ hiếm khi rời khỏi vị trí này với danh tiếng và sự ủng hộ đã đưa ông ta vào vị trí đó… Tôi sẽ thường xuyên phạm sai lầm do thiếu sót trong phán xét. Ngay cả khi đúng, tôi vẫn bị cho là sai bởi những người mà quan điểm của họ không đại diện cho tất cả mọi người. Tôi xin ân xá cho những lỗi lầm của riêng tôi, chúng chưa bao giờ là cố ý; và xin quý vị ủng hộ việc chống lại những sai lầm của người khác, vốn có thể lên án những gì họ không được nhìn thấy toàn bộ. 21

Hoặc nếu có ai đó đang tìm kiếm một ví dụ kinh điển về nguyên tắc tự do ngôn luận, thì không có chính khách Mỹ nào từng thể hiện điều ấy gãy gọn hơn: “Nếu có bất kỳ ai trong số chúng ta muốn giải tán liên minh này hoặc thay đổi hình thức cộng hòa của nó, thì cứ để họ đứng đó, yên tĩnh như những di tích an toàn, cùng với sai lầm vế ý kiến có thể được dung thứ khi lý lẽ được tự do chống lại nó”. Hoặc để đưa ra một minh họa cuối cùng trong số những để mục hùng hồn không kém, thì có công thức ngắn gọn này về các mục tiêu chính sách đối nội và đối ngoại của Mỹ: “Công lý bình đẳng và chính xác cho tất cả mọi người, dù thuộc bang nào hay niềm tin nào, mang tính tôn giáo hay chính trị; hòa bình, thương mại, và tình bạn chân thành, với tất cả các quốc gia - không vướng vào liên minh với nước nào”. Jefferson, chứ không phải Washington, là người đã đặt ra thuật ngữ “không vướng vào liên minh”. 22

Nhưng những lời thường được trích dẫn, có thể vượt qua thời gian trở thành một biểu hiện trữ tình của chân lý siêu việt, trong thực tế hoàn toàn dễ hiểu khi nhìn vào bối cảnh nền chính trị Mỹ năm 1801. Ngoài phần quyền tự nhiên của Tuyên ngôn Độc lập, có lẽ đây là tuyên bố chính trị nổi tiếng nhất mà Jefferson từng đưa ra: “Nhưng mọi sự khác biệt về quan điểm không phải là khác biệt về nguyên tắc. Chúng ta đã gọi bằng những cái tên khác nhau những người anh em cùng chung nguyên tắc của chúng ta. Tất cả chúng ta đều là người Cộng hòa - tất cả chúng ta đều là người Liên bang”. Đây cũng là đoạn mà hầu như mọi phóng viên và quan sát viên đặc biệt quan tâm thú vị vào thời điểm đó, bởi câu nói này dường như đại diện cho tuyên bố rõ ràng, thực ra là chính yếu, của Jefferson về hòa giải và ôn hòa. Nó báo hiệu rằng các trận chiến cay đắng giữa các đảng phái hồi những năm 1790 sẽ không tiếp tục trong nhiệm kỳ tổng thống của Jefferson, rằng phe Cộng hòa đang lên sẽ không tìm cách trả thù cho những tội ác của phe Liên bang trong quá khứ giống như các Đạo luật về ngoại kiểu và chống nổi loạn, và quan trọng nhất là cách hiểu của Jefferson về “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy” không đồng nghĩa với một đột phá triệt để so với các chính sách của phe Liên bang hay một sự bác bỏ đầy kịch tính về khuôn khổ chính phủ được thiết lập trong Hiến pháp. Hamilton đã nói thay cho phe Liên bang thanh thản, họ xem bài phát biểu như “một sự rút gọn thẳng thắn những hiểu lầm trong quá khứ, và một cam kết với cộng đồng rằng tân Tổng thống sẽ không cho phép những đổi mới nguy hiểm, nhưng tại các thời điểm cần thiết sẽ tiếp bước những người tiền nhiệm của mình”. 23

Nhưng ý của Jefferson lại không hẳn là những điều Hamilton và tất cả các nhà bình luận khác cho là nghe được từ ông. Một phần của vấn đề thực ra là ở cách diễn giải. Trong phiên bản của bài phát biểu được in trong tờ National Intelligencer và sau đó được phát hành cho báo chí trong cả nước, đoạn quan trọng là: “Tất cả chúng ta đều là người Cộng hòa - tất cả chúng ta đều là người Liên bang”. Bằng cách viết hoa những từ quan trọng, bản in đã để Jefferson đưa ra một tuyên bố trung thành về những mục tiêu trùng lắp của hai đảng chính trị. Nhưng trong phiên bản viết tay của bài phát biểu mà Jefferson sẽ đọc thì những từ khóa này không được viết hoa. Do đó không phải Jefferson đang ám chỉ nền tảng chung được chia sẻ bởi hai đảng, nhưng như nhiều người vẫn tin, được chia sẻ bởi tất cả các công dân Mỹ, rằng một hình thức chính phủ cộng hòa với sự gắn kết mang tính liên bang giữa các bang là thích hợp nhất. Vì sẽ khó có thể tìm ra một số ít các công dân Mỹ không đồng ý với nhận xét này, nên tuyên bố của ông thiên về một sự tẻ nhạt chính trị hơn là một sự nhượng bộ về ý thức hệ. Ấn tượng về việc Jefferson công khai rút lại tuyên bố trước đó của ông về xung đột đảng phái như một cuộc đấu tranh đạo đức giữa các lực lượng ánh sáng và các lực lượng bóng tối, hóa ra lại là một nhầm lẫn tai hại.

Có một vài đoạn có tính chất gợi ý đã cung cấp manh mối cho phiên bản thật sự nhìn xa trông rộng của Jefferson về “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy”, nhưng hầu hết các nhà bình luận đã bị dọa cho chết khiếp bởi thông điệp tiết chế rõ ràng đến độ không nhận ra những manh mối đó. John Marshall, người có lẽ đứng đủ gần bục phát biểu để nghe bài phát biểu trong lúc Jefferson trình bày, đã đi thẳng về nhà mình và ghi lại ấn tượng của ông: “Tôi đã chủ trì lễ tuyên thệ cho Tổng thống… Nó [Diễn văn Nhậm chức] thể hiện bằng những từ ngữ trực tiếp, đưa ra lời nói dối cho bài diễn thuyết đảng phái bạo lực khiến ông ấy được bầu; nhưng nó thể hiện mạnh mẽ đặc điểm lý thuyết chính trị của ông ấy”. Marshall đã đúng, mặc dù ông không nói rõ ý ông là gì khi nhắc tới “lý thuyết chính trị”. Nhưng điều này khó có thể là lỗi của vị Chánh án. Một thành phần quan trọng trong thiên tài của Jefferson là khả năng nêu lên tầm nhìn của ông về nền chính trị Mỹ ở mức độ khái quát, trong đó thách đố tính cụ thể và sử dụng một thứ ngôn ngữ cao độ khiến người ta cảm thấy có nghĩa vụ phải ngước lên nhìn và ngưỡng mộ trong khi không hoàn toàn chắc chắn về các chi tiết. 24

Một trong những đoạn văn như vậy đã xuất hiện trong Diễn văn Nhậm chức khi Jefferson liệt kê các lợi thế tự nhiên mà công dân Mỹ được hưởng, vốn bị “ngăn cách với sự tàn phá hủy diệt của một phần tư thế giới bởi thiên nhiên và một đại dương rộng lớn” và có may mắn sở hữu “một đất nước do họ chọn, với đủ chỗ cho con cháu đến hàng trăm và hàng ngàn thế hệ sau”. Sau đó, ông kết luận danh mục tài sản với những gì ông gọi là “thêm một điều nữa”: “một chính phủ khôn ngoan và thanh đạm sẽ kiểm chế con người làm tổn thương nhau, sẽ để con người tự do điều chỉnh theo đuổi ngành nghề của mỗi người và sự tiến bộ của họ, và sẽ không cướp khỏi miệng người lao động miếng bánh mì kiếm được. Đây là tóm tắt về một chính phủ tốt, và điều này là cần thiết để khép kín vòng tròn hạnh phúc của chúng ta”. Đây là tuyên bố rõ ràng nhất của Jefferson về lý thuyết chính phủ tối giản của ông. Trong khi phe Liên bang bồn chồn lắng nghe ông giải thích quan điểm của mình về quyền hành pháp, về vai trò của cơ quan tư pháp và thẩm quyền thích hợp của luật liên bang so với luật bang, thì Jefferson lại đóng khung câu trả lời của mình ở một mức độ mà theo đó mọi sự phân biệt đó đều biến mất. Chính quan niệm về chính quyền là vấn đề cốt lõi ở đây. Theo nghĩa đó, ông vẫn tuân theo truyền thống Whig, trong đó kỳ thị tất cả các hình thức của quyền lực chính trị như sự tham nhũng cố hữu, đồng thời ông vẫn tuân theo lý tưởng của chính mình về sự tự trị cá nhân, coi bất kỳ việc công khai thực hiện thẩm quyền nào mà không có sự thỏa thuận hoặc tự nguyện đều là một sự can thiệp. Mặc dù là một truyền thống chính trị cũ, đáng kính và là một niềm tin lâu dài thuộc về Jefferson, nhưng quan điểm này có hình thức một tiểu thuyết dưới dạng Diễn văn Nhậm chức, vì nó có nghĩa là Jefferson đang tuyên bố rằng trách nhiệm chính của ông với tư cách tổng thống là để đại diện cho chính cái chính phủ thiếu hiệu quả và vô hình mà ông được bầu ra để lãnh đạo. Bề ngoài, quan điểm này dường như đặt ông vào một vị trí kỳ lạ và bất thường, giống như việc cho Luther đứng đầu Giáo hội Công giáo vậy. 25

Về phía Jefferson, câu hỏi rõ ràng được đặt ra một cách logic tiếp theo sau việc chối bỏ vai trò tích cực đối với chính phủ này đã không biến mất. Ông nêu vấn đề này lên trong bài phát biểu của mình và đã cố gắng ít nhất một lần thử đưa ra câu trả lời:

Tôi biết, thật sự là một số người trung thực lo sợ rằng một chính phủ cộng hòa sẽ không thể mạnh được; rằng chính phủ này chưa đủ mạnh. Nhưng liệu những người yêu nước trung thực với trải nghiệm thành công có từ bỏ một chính phủ cho đến nay vẫn cho chúng ta tự do và vững mạnh, vì cảm thấy sợ hãi về mặt lý thuyết và tầm nhìn, rằng chính phủ này, hy vọng lớn nhất của thế giới, có thể sẽ cần năng lượng để tự duy trì mình? Tôi tin là không. Trái lại, tôi tin rằng, chúng ta là chính phủ mạnh nhất trên Trái đất. Tôi tin rằng đó là chính phủ duy nhất mà mọi người, theo lời hiệu triệu của pháp luật, sẽ tuân theo tiêu chuẩn của luật pháp, và sẽ coi những sự vi phạm trật tự công cộng là vấn đề của chính mình. 26

Đây là đoạn văn vừa phong phú nhất, vừa khó nắm bắt nhất trong Diễn văn Nhậm chức của Jefferson. Đoạn văn ít nhất đã ngầm thừa nhận rằng cuộc bầu cử của ông đã ấp ủ, khơi ngòi cho lo âu lan rộng về việc chia cắt chính phủ liên bang và kéo theo đó là việc giải thể liên bang quốc gia. Nhưng sau đó Jefferson lại lật ngược lập luận, tuyên bố rằng phê bình của ông bị thít chặt bởi “nỗi sợ lý thuyết và tầm nhìn”. Điều này trên thực tế chính là lời buộc tội chống lại ông - đó là, ông là một người có tầm nhìn ngây thơ, thiếu hiểu biết thực tế về sự ổn định của quốc gia phụ thuộc nhiều như thế nào vào một chính phủ liên bang tràn đầy năng lượng mà ông (chứ không phải những lời chỉ trích phe Liên bang của ông, như ông dường như muốn nói) đã cam kết sẽ phá bỏ. Bằng cách nào đó Jefferson đã biến mình thành người bảo vệ cho một chính phủ quốc gia với tư cách là “hy vọng lớn nhất của thế giới” - một cụm từ Abraham Lincoln đã định chọn và cải tiến nó thành “hy vọng cuối cùng, tốt nhất” trong Diễn văn Nhậm chức đầu tiên của riêng mình - và giao phó những chỉ trích của mình sang vai trò của những kẻ hoài nghi, vốn thiếu đức tin cộng hòa như ông.

Nhưng sự chuyển đổi thật sự sáng tạo, một lần nữa, lại mang tính ngụ ý nhiều hơn là khẳng định, chính là đề nghị của Jefferson, rằng nguồn năng lượng đích thực, thật ra là duy nhất, trong một nền cộng hòa không phải của riêng chính phủ mà là quan điểm tự nguyện của nhân dân mà nó dựa vào. Giả định truyền thống, một quy kết nền tảng trong toàn bộ phe Liên bang, là một chính phủ liên bang hoạt động là điều cần thiết để thể hiện quyền hạn và chính sách quốc gia tập trung. Khi thiếu vắng sự lãnh đạo của một chính phủ như vậy, nền Cộng hòa Mỹ được cho rằng sẽ bị rơi vào vòng xoáy của một loạt các phe phái và các nhóm lợi ích rồi cuối cùng tách thành các đơn vị khu vực. Nói ngắn gọn, nếu không có một chính quyền trung ương mạnh, sẽ không thể có một quốc gia Mỹ thống nhất. Tuy nhiên, trong công thức của Jefferson, hẳn là điều đó đi ngược với phe Liên bang, sự giải phóng năng lượng quốc gia được tăng lên trong khi quyền lực của chính phủ bị giảm xuống. Trong khi cách nghĩ của phe Liên bang về chính phủ liên quan đến việc duy trì kỷ luật, sự ổn định và cân bằng, thì tâm lý Jefferson lại bỏ qua những mối quan tâm truyền thống như vậy và tán dương lý tưởng giải phóng. Ẩn trong ngôn ngữ của ông về những gì làm cho một chính phủ cộng hòa mạnh mẽ là niềm tin vào sự gắn kết vốn có của một xã hội Mỹ mà không đòi hỏi các cơ chế nhà nước để duy trì sự ổn định quốc gia.

Trong những tuần sau khi trình bày và phân phối bài Diễn văn Nhậm chức của mình, Jefferson tiến hành viết thư cho những người ký tên vào Tuyên ngôn Độc lập còn sống, cũng như các đồng nghiệp khác từ Quốc hội Lục địa, cũng đã “có mặt lúc tạo ra”, để chia sẻ cảm giác vui mừng của ông khi phiên bản của “chủ nghĩa cộng hòa thuần túy” mà ông đã tuyên xưng trong phát biểu của mình là một sự khôi phục những gì mà tất cả họ dự định hồi năm 1776. Dù ý tưởng thực nghiệm mới và ý thức hệ nào ẩn sau ngôn từ của bài Diễn văn Nhậm chức, thì Jefferson cũng hoàn toàn chắc chắn rằng thông điệp của ông đại diện cho sự phục hồi một tầm nhìn được chia sẻ bởi những nhà cách mạng thuở ban đầu, đó là “những chân lý thiêng liêng và cổ xưa” mà trên đó nền độc lập Mỹ được đặt cơ sở. Ông giải thích cho Benjamin Rush, một lão thành cách mạng ở Philadelphia, rằng “những tâm tình này từ lâu đã hoàn toàn là của tôi”, và Rush đồng tình rằng phát biểu của Jefferson đã thể hiện một cách nên thơ các giá trị mà vì nó tất cả họ đều nghĩ rằng mình đã tranh đấu trong những ngày vinh quang. Một cái gì đó linh thiêng và huyền bí đã xảy ra tại thời điểm thành lập, một kiểu gặp gỡ nguyên sơ với sự thuần khiết chính trị mà tất cả những người tham gia ban đầu đều trải qua giống như một sự hiển linh tập thể. Bản năng đầu tiên của Jefferson là chia sẻ với những người đồng đội còn sống và những người chia sẻ các trải nghiệm đó với mình - những thứ mà người ngoài cuộc và thế hệ trẻ không thể hiểu - rằng “tinh thần năm ’76” đích thực đã trở lại. Các tội nhân ít nhất đã bị tống ra khỏi đền thờ, và các thánh thần một lần nữa lại chiếm quyền kiểm soát. 27

Chuyện ông nhấn mạnh vào cả việc thắt lưng buộc bụng và tính giản dị, cả trong lễ nhậm chức lẫn trong phương thức của ông dành cho một chính phủ liên bang bị tước bỏ, thể hiện niềm tin cốt lõi của ông về sự phục hồi ý nghĩa của Cách mạng Mỹ và về những gì mà ông sẽ tái lập khi được bầu làm tổng thống. Rất giống như việc ông yêu thích “một cuộc nổi loạn nhỏ thi thoảng xảy ra” hoặc “quét sạch” các mảnh vỡ tích lũy của lịch sử qua mỗi thế hệ, Jefferson coi việc ông nắm quyền là một nhiệm vụ nhằm thanh trừng tất cả các hành lý thể chế quả cân mà Chính phủ Mỹ đã mua vào từ thuở khai sinh lập địa cách đây một phần tư thế kỷ. Trong khi các nhà chỉ trích ông ở phe Liên bang và kể cả một số người ủng hộ phe Cộng hòa ôn hòa của ông lên tiếng lo lắng về việc cải cách của Jefferson sẽ đi xa tới đâu (có bao gồm loại bỏ các ngân hàng quốc gia? tư pháp liên bang? hải quân?), thì tâm trí của riêng Jefferson chỉ đơn giản là không làm việc ở cấp độ cụ thể đó. Cách ông suy nghĩ về chương trình nghị sự tổng thống, giống như ngôn ngữ trữ tình của ông trong Diễn văn Nhậm chức, lơ lửng bên trên những chi tiết cụ thể đó. Như ông giải thích với John Dickinson, một trong những thành viên của “nhóm tiền bối” cách mạng, Chính phủ Mỹ giống như một con tàu đã đi qua một số vùng biển dữ: “Chúng tôi sẽ đưa con tàu trở lại hải trình cộng hòa, và con tàu ấy sẽ phô diễn kỹ năng của những người đóng tàu bằng vẻ đẹp chuyển động của nó”. Nói ngắn gọn là, một khi đất nước đã được đưa vào khuôn khổ thích hợp, các lực lượng tự nhiên như gió và thủy triều sẽ phụ trách và đưa con tàu nước Mỹ tới vận mệnh của nó. Với Jefferson, Chúa không phải là một chi tiết; người ở trên trời cùng những vì sao. Nếu có ai đó có thể sắp xếp con tàu nhà nước với những ngôi sao một lần nữa, thì mọi cuộc cãi vã nhỏ về quyền hành pháp và quyền tài phán liên bang sẽ trở nên không còn cần thiết nữa và sẽ biến mất khỏi tầm mắt. Những ai vẫn cứ nêu mấy câu hỏi chọc giận về các điểm đó đã vô tình thú nhận rằng họ thiếu đức tin cộng hòa thuần khiết. 28

TỔNG THỐNG VĂN BẢN

Bất cứ nơi nào người ta muốn xác định sự hiện diện vĩnh cửu của Chúa, thì biểu hiện chính trị của