← Quay lại trang sách

Chương 5 MONTICELLO: 1816-1826

Tôi thích những giấc mơ về tương lai hơn là lịch sử của quá khứ .

JEFFERSON GỬI JOHN ADAMS

Ngày 1 tháng 8 năm 1816

Tôi lấy làm tiếc rằng giờ đây niềm tin trong tôi đã chết, rằng sự hy sinh vô ích của thế hệ năm 1776… đã bị vứt bỏ bởi những đam mê thiếu khôn ngoan và không xứng đáng của đám con cháu, và niềm an ủi duy nhất của tôi là, tôi sống không phải để khóc than về điều đó .

JEFFERSON GỬI JOHN HOLMES

Ngày 22 tháng 4 năm 1820

⚝ ✽ ⚝

Những vị khách ghé thăm ngài cựu tổng thống trong 10 năm cuối đời của ông có thể thoáng thấy ông ngồi trên lưng con ngựa yêu thích của mình, Eagle, trong hai hoặc ba giờ đồng hồ, băng qua những cánh đồng và khu rừng xung quanh Monticello vào hầu hết đẩu các buổi chiều. Thời gian, theo một cách không thể tránh được, đã từng chút một lấy đi từ cơ thể già nua của ông, rồi sự mất mát ấy tích tụ ở từng khớp xương và huyết mạch của người thanh niên một thời trai tráng. Sự mất khả năng kéo dài đã khiến cho việc phải đứng dậy khi đang ngồi trên ghế hay tản bộ qua khu vườn trở nên khó khăn; tuy nhiên, vì một lý do nào đó, dường như biến mất hoàn toàn khi ông leo lên lưng ngựa. (Năm 1809, ở tuổi 65, lần cuối cùng ông cưỡi ngựa từ Washington về nhà để nghỉ hưu mà không cần bất kỳ sự trợ giúp nào và thậm chí, ở tám tiếng đồng hồ sau cùng, ông đã vật lộn vượt qua cơn bão tuyết). Vì Eagle cũng già đi như ông và trở thành Eagle Già nên các thành viên gia đình lo lắng rằng những chuyến đi đơn thương độc mã vào mỗi buổi chiều như vậy sẽ khiến cả người và ngựa gặp bất trắc. Nhưng Jefferson đã bỏ qua những lời cảnh báo như vậy, và giải thích rằng, mặc dù ông là một ông già trên đôi chân của mình, nhưng trên yên ngựa ông vẫn là một thanh niên trai tráng. Ngay cả khi ông bị ngã gãy tay từ cầu thang sau tòa Monticello vào năm 1822, ông vẫn khăng khăng đòi cưỡi ngựa hằng ngày. Ông sai người mang Eagle Già lên bậc thềm để ông có thể leo lên lưng nó dễ dàng hơn, nhẹ nhàng ngồi vào yên với cánh tay lành của mình trong khi con ngựa kiên nhẫn dựa vào tường hiên, rồi ở tư thế lưng thẳng tắp của một người sinh ra để cưỡi ngựa, ung dung lên đường như một nhà quý tộc bẩm sinh đang cố giữ cuộc hẹn với số phận. 1

Chúng ta biết về vẻ ngoài và chế độ sinh hoạt hằng ngày của Jefferson trong 10 năm cuối đời nhiều hơn bất kỳ giai đoạn nào khác trong cuộc đời ông. Sau tất cả, ông là một thành viên nổi bật của thế hệ sáng lập nước Mỹ, rõ ràng đã được định mệnh sắp đặt một vị trí trong sử sách, để du khách cảm thấy một sự thôi thúc đặc biệt phải ghi lại ấn tượng về Nhà thông thái của Monticello cho hậu thế. Sự tàn phá không thể cưỡng lại của quá trình lão hóa cũng buộc Jefferson phải ghi nhận những thực tế về cơ thể và sức khỏe của ông dù ông từng lãnh cảm với chúng. Đến tận lúc cuối, ông vẫn có tính nghi ngờ cố hữu với tất cả các bác sĩ, và tuyên bố rằng bất cứ khi nào ông thấy ba bác sĩ với nhau, “ông sẽ nhìn lên xem có con kền kền nào gần đó không”. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận, theo như lời ông nói với Adams, rằng “cỗ máy của chúng ta hiện nay đã chạy được 70 hoặc 80 năm rồi, và chúng ta biết nó sẽ bị hao mòn đi, nay thì trục, mai thì bánh xe, giờ là bánh răng, sau lại đến lò xo, lần lượt sẽ bị hỏng”. 2

Tranh luận khi xưa về màu tóc của ông là màu đỏ hay vàng hoe, giờ đã thay bằng lời mô tả chung của gia đình và bạn bè ông rằng nó đã chuyển sang màu xám. Ông cũng cắt tóc ngắn hơn, bỏ phần đuôi sam sau lưng, phần vì dễ chăm sóc hơn, phần vì mốt tóc dài có vẻ bắt đầu lỗi thời. Khi đi ra ngoài hoặc cưỡi ngựa, ông thường đội một chiếc mũ lớn, tròn, rộng vành để tránh ánh nắng chiếu vào mặt. Dù vậy, da mặt ông vẫn đầy chấm đồi mồi và thường bị tróc ra do tiếp xúc với ánh nắng; các mao mạch nằm sát dưới da dễ vỡ, khiến khuôn mặt ông loang lổ; xét cả về mặt sinh học lẫn tâm lý học, ông là người da mỏng. Chứng tiêu chảy và rối loạn đường ruột tái phát khiến ông trở nên tiều tụy - cuối cùng, chính căn bệnh này đã cướp đi sinh mạng của ông - nên phần lớn thời gian, ông cần dùng gậy để đi lại, và người hầu da đen trung thành của ông, Burwell, kế nhiệm Jupiter và James Hemings, luôn đi cùng ông, trừ những chuyến cưỡi ngựa buổi chiều. Ông vẫn đứng khá thẳng dù phải dùng gậy, mặc dù, một số vị khách nhận thấy đầu và cổ của ông bây giờ nghiêng về phía trước, như thể ông luôn tựa vào gió. 3

Khi các vị khách cùng ông đi tham quan, họ thường thể hiện sự ngạc nhiên trước cách nói đầy say mê và sinh động cũng như tốc độ nói chuyện của ông, thường dài ngắn khác nhau và đi kèm với một cái nhún vai nhấn mạnh cùng động tác vung cánh tay dài với bàn tay lớn. Một người bán sách lưu động, rõ ràng mong đợi một thái độ điềm tĩnh và khắc kỷ hơn, đã mô tả ông giống như “một đảng viên hơn là một nhà triết học”. Lối ăn mặc thoải mái được Jefferson yêu thích cũng làm một số vị khách viếng thăm bất ngờ. Ông thường mặc một chiếc vest sáng màu (thường là màu đỏ) bên dưới một chiếc ghi-lê xám kết hợp cùng một chiếc tây hoặc quần nhung lùng bùng, và hai ống quần được nhét vào đôi bốt cưỡi ngựa. Nói cách khác, ông ăn mặc giống như một chủ đồn điền Virginia đang làm việc hơn là một cựu chính khách hoặc một biểu tượng quốc gia đầy cảm hứng. Dù có làn da loang lổ và thường phải chống gậy, dù có sự khác biệt giữa thái độ lãnh đạm của ông và những kỳ vọng về ông như một vị thần, hầu hết mọi người xung quanh đều nhận xét rằng Jefferson có ngoại hình tương đối trẻ trung, ở tuổi 80, ông trông như 60 tuổi. 4

Chế độ dinh dưỡng và sinh hoạt hằng ngày của ông vẫn theo lối cũ. Ông ăn rất ít thịt đỏ, thích rau củ, thịt gia cầm và các loại hải sản có vỏ, mặc dù các loại hải sản thường không phù hợp với hệ tiêu hóa của ông. Ông uống cà phê và trà vào bữa sáng, rượu mạch nha và rượu táo vào bữa tối. Trong khi tránh tất cả các loại rượu mạnh, ông lại thưởng thức ba hoặc bốn ly rượu vang mỗi ngày. Ông thức giấc cùng Mặt trời bất kể mùa nào trong năm. Ông thường dành năm đến tám tiếng để ngủ, độ dài tùy thuộc vào giờ giấc nghỉ ngơi, mà giờ giấc này lại phụ thuộc vào chất lượng của cuộc trò chuyện khi có khách viếng thăm hoặc mức độ hứng thú của ông với cuốn sách ông đọc tối hôm đó. Ông ngâm chân trong nước lạnh vào mỗi buổi sáng, dành phần đầu giờ sáng cho thư từ và công việc vườn tược, cưỡi ngựa mỗi chiều, trò chuyện với gia đình và khách đến thăm từ bữa tối cho đến đêm. Thính giác của ông vẫn rất tốt, ngoại trừ như ông vẫn nói, “khi một số tiếng nói cắt ngang nhau”, nghĩa là không phải lúc nào ông cũng theo kịp những cuộc trò chuyện trong bữa tối. Mắt ông nhìn xa rất tốt, nhưng ông phải dùng đến kính khi đọc sách, đặc biệt vào ban đêm. 5

Có những cảnh tượng vô cùng xúc động, giống như cảnh trong tranh vẽ nhưng có thêm âm thanh, được kể lại từ hồi tưởng của những đứa cháu ông. Giống như mô tả về những chuyến dã ngoại hằng ngày trên lưng Eagle Già, những cảnh tượng ấy dựng lại những khoảnh khắc hấp dẫn nhất, mang đến cảm giác bình dị, và trong những tháng ngày nghỉ hưu, ông có thể bắt trọn khung cảnh thanh bình nơi thôn quê mà ông hằng theo đuổi trong suốt cuộc đời. Có một cảnh trong vườn nhà, ngay sau bữa sáng, bên cạnh Wormley, người làm vườn phụ trách thuổng cuốc của ông, Jefferson sắp xếp ngay ngắn các hàng hoa và rau bằng một thước đo hoặc cắt bớt phần nụ và lá bằng con dao tỉa. Hoặc có một cảnh khác trên sân thượng, sau bữa tối, khi Jefferson tổ chức thi chạy quanh nhà cho đám cháu, ông thả một chiếc khăn tay màu trắng làm hiệu lệnh xuất phát, sau đó những đứa nhỏ hơn và chậm hơn vẫn nhận được những miếng hoa quả như những đứa thắng cuộc. 6

Có hai sự xâm phạm nho nhỏ nhưng dai dẳng vào cảnh tượng thanh bình nơi thôn dã trên đỉnh núi, và cả hai sự xâm phạm này đều là hậu quả trực tiếp của việc Jefferson là một trong những người sống sót cuối cùng của năm 1776. Thứ nhất, dòng khách khứa, khách du lịch và những người theo phong cách Jefferson tự xưng đều đặn đổ về, gần như biến Monticello thành một khách sạn ít nhất tám tháng trong năm. “Tôi không cần phải nói cho bạn biết cửa nhà ông ấy rộng mở thế nào”, một khách tham quan kể lại vào năm 1815, “vì bạn cũng quá biết rằng ngọn núi của ông ấy giống như một kiểu thánh địa Mecca”. Các đại biểu Quốc hội, các chức sắc nước ngoài, đại diện của người da đỏ, các sĩ quan quân đội và hải quân đã nghỉ hưu, những nhà truyền giáo Tin Lành, những người bán sách lưu động, những chính khách Virginia đầy tham vọng - tất cả đều cảm thấy phải làm một chuyến hành hương đến Monticello. Một khi đến đó, một số lượng lớn đến đau đầu những người này đã chọn cách xem sự hiếu khách của Jefferson như một lời mời đích danh vị khách này lưu lại vài ngày. Con gái của Martha, Ellen, nhớ lại rằng mẹ cô đôi khi phải phục vụ ăn uống và chăm lo cho 50 vị khách nghỉ lại qua đêm. Những người không hề quen biết, chỉ đơn giản là đi ngang qua, dường như cũng tin rằng Monticello là một ngôi đền quốc gia nơi họ có thể coi là thánh đường. Họ thường nhìn qua cửa sổ khi gia đình đang ngồi ăn tối, đi thẳng vào hành lang trước nhà, bẻ những mẩu gạch hoặc gỗ làm quà lưu niệm, thậm chí là tham gia cùng đám khách mời uống trà hoặc rượu vang và chủ động bắt chuyện với vị tộc trưởng (Jefferson), thậm chí chính ông đôi khi cũng không chắc liệu mình đang tiếp một vị khách mời hay một kẻ chen ngang. Tới năm 1816, vì dòng khách khứa liên tục này đã gần như trở thành một cơn lũ, Jefferson quyết định, ba hoặc bốn lần một năm, rút lui về căn nhà của ông ở hạt Bedford, cách Monticello khoảng 90 dặm. Ông giám sát khâu hoàn thiện của công trình đã trở thành tổ ấm thứ hai của ông mang tên Poplar Forest, một nơi trú ngụ nhỏ hơn nhưng thậm chí còn đặc biệt hơn về mặt kiến trúc so với Monticello (Poplar Forest có hình bát giác hoàn hảo) và biến ngôi nhà thành nơi trú ẩn riêng của mình bất cứ khi nào Monticello bị quá tải. 7

Thứ hai, thư từ của ông đã trở thành một gánh nặng ghê gớm và tốn thời gian. Jefferson nhận được hơn 1.000 lá thư mỗi năm từ khi nghỉ hưu. Năm 1820, ông cố gắng lập con số chính xác và đếm được 1.267 lá thư riêng biệt, hầu hết từ những người ông không quen biết, rất nhiều thư đặt ra những câu hỏi lịch sử đòi hỏi những câu trả lời dài. Ông đã dành ba hoặc bốn tiếng đồng hồ mỗi buổi sáng để cố gắng trả lời thư, sau đó ông sẽ quay lại bàn làm việc trước khi đi ngủ. “Liệu đây có phải cuộc sống không nhỉ?”, ông hỏi Adams, và tự trả lời câu hỏi đó bằng cách mô tả mình là “một con ngựa kéo cối xay, mà chỉ có cái chết mới giúp nó thoát khỏi vòng quay”. Adams bày tỏ cảm thông với những gì mà Jefferson gọi là “trọng trách thư tín”, lưu ý một cách tinh nghịch rằng ông không gặp phải vấn đề của Jefferson bởi ông đã tiên tri được điều này và làm cho mình trở nên khó ưa. Hơn nữa, như Adams giải thích, ông chỉ đơn giản là bỏ qua việc trả lời những lá thư từ những kẻ lập dị và người lạ có ý tốt, để ông có thể cống hiến sức lực còn lại của mình cho những lá thư quan trọng, nhất là thư của chính ông, Jefferson. 8

Nhưng khiếu hài hước của Adams lại không có tác dụng với Jefferson, người mà bằng cách nào đó luôn cảm thấy phải có trách nhiệm trả lời từng lá thư. Madison khuyên ông nên chuẩn bị sẵn một mẫu thư, “một lời đáp tiêu chuẩn mà gia đình có thể gửi đi để bày tỏ lòng biết ơn”, nhưng ông không làm theo được. Đặc biệt là sau khi bệnh viêm khớp ở cổ tay và các ngón tay của ông chuyển biến nặng hơn theo với tuổi tác, ông phàn nàn rằng “việc viết lách nhàm chán không ngừng làm tôi đau đớn và dễ nổi nóng”. Chỉ vài tháng trước khi qua đời, ông than thở rằng việc ông thoát khỏi bàn viết hay không phụ thuộc vào “hy vọng cho đến nay vẫn ảo tưởng rằng những người không liên quan gì đến tôi, sau một thời gian, sẽ tính đến tình trạng tuổi tác và bệnh tật của tôi, mà cảm thấy cần phải buông tha cho cả hai thứ này”. Nhưng sự việc lại không diễn ra như vậy. Ông đã không tài nào buộc được cả những người hành hương táo bạo tới Monticello hay vô vàn những lá thư từ khắp cả nước tôn trọng sự riêng tư của ông và để ông yên. Là một huyền thoại sống, ông đã trở thành tài sản công. 9

Ông tuyên bố rằng có một người quen bí ẩn mà ông sẵn sàng gặp tại Monticello bất cứ lúc nào. Viễn cảnh về cái chết không làm ông sợ hãi bằng cái mà ông gọi là “tuổi già lẩm cẩm”. Ông đã nói với bạn bè, trong hơn 20 năm qua, rằng cơ thể ông khỏe mạnh đến mức đôi khi ông lo mình sẽ sống quá lâu. Sự sợ hãi tột cùng là tình trạng lão suy mà Adams gọi là “chết ở trên đỉnh”. Tình trạng đáng lo ngại không kém là sự thoái hóa dần dần của cơ thể khiến ông mất đi vẻ ngoài tự chủ và chủ quyền cá nhân. (Một lý do ông coi trọng chuyến đi hằng ngày trên lưng Eagle Già là vì nó tượng trưng cho sự sống còn của tinh thần độc lập nơi ông). Cuối cùng, có một cách hiểu đặc trưng kiểu Jefferson rằng ta không nên lưu luyến quá lâu khoảng thời gian dành cho thế hệ của ta, rằng ta có nghĩa vụ gần như thuộc về phạm trù đạo đức, đó là dọn dẹp mặt bằng cho thế hệ tiếp theo bằng cách đặt minh bên dưới mặt bằng ấy. “Tôi là người tiếp theo”, ông viết cho tình cũ của mình là Maria Cosway vào năm 1820, “và tôi sẽ đón nhận số phận bằng thiện chí; và sau khi tất cả bạn bè của tôi đã ra đi trước tôi, và cả những năng lực của tôi cũng ra đi, lần lượt từng thứ, thì tại sao tôi lại phải níu kéo cuộc sống, trong tình trạng thực vật, giống như một thân cây đơn độc trên cánh đồng hoang vu, nơi tất cả bè bạn trước đây đã không còn”.

Cảm giác sống quá thời này ở Jefferson càng tăng lên theo số tuổi của ông. Vào năm trước khi ông qua đời, Jefferson tuyên bố rằng nhìn lại cuộc sống của ông “giống như nhìn vào một bãi chiến trường. Tất cả, tất cả đã chết! và tôi còn lại một mình giữa một thế hệ mới mà tôi không biết họ, và họ cũng chẳng biết tôi”. 10

Một cảnh đáng nhớ đã chứng minh điểm này một cách tương đối rõ rệt về mặt hình ảnh. Năm 1824, Lafayette có chuyến thăm cuối cùng đến Mỹ, và dĩ nhiên đã lên kế hoạch hẹn gặp Nhà thông thái của Monticello. Một đoàn hộ tống gồm 120 kỵ sĩ và một đám đông 200 người xem đi cùng Lafayette lên núi để chứng kiến màn hội ngộ của những người đồng chí cũ. Madison mô tả vị tướng “có sức khỏe tốt và tinh thần phấn chấn, nhưng phát tướng nhiều và thay đổi theo khía cạnh mà tôi trước giờ không hề biết tới”. (Lafayette bị giam nhiều năm trong ngục tối ở Thụy Sĩ, bị những kẻ cực đoan cầm tù vì đứng về phe ôn hòa trong Cách mạng Pháp, rồi bị béo phì sau khi được thả). Trong khi đó Lafayette mô tả Jefferson “yếu ớt và già đi nhiều”, mặc dù “tâm trí và trái tim ông ấy vẫn tràn trề sức sống”. Trong lúc hai con người đáng kính lớn tuổi ấy lảo đảo bước lại ôm nhau trước đám đông, những nhân chứng khẳng định họ đã nhìn thấy hai con ma từ một thời đại đã qua hiện hình lần cuối, vì lợi ích của thế hệ hiện tại. Với mong mỏi biến Jefferson thành một biểu tượng lịch sử, thật khó xử khi ta nhận ra rằng ông vẫn còn sống. 11

Hoặc một cảnh mang tính biểu tượng cao nhưng đáng sợ vào năm sau đó, 1825, khi Jefferson đồng ý ngồi để làm “mặt nạ sống”, sẽ cho phép hậu thế có được một chân dung đáng tin cậy về người anh hùng nước Mỹ, nó dựng lại hình tượng của biểu tượng sống khi sử dụng một kỹ thuật đặc biệt được thiết kế để chuyển sự diễn giải nghệ thuật thành hình dạng và đường nét thực tế của khuôn mặt. Nhà điêu khắc người Mỹ John Henri Browere đổ liên tiếp nhiều lớp thạch cao bí ẩn lên đầu Jefferson, nhưng chất lỏng này khô và cứng lại nhanh hơn so với dự kiến, khiến Jefferson cảm thấy cực kỳ khó chịu và buộc Browere, như cách nói của Jefferson là, “thoải mái dùng vồ và đục để đập vỡ cái mặt nạ thành nhiều miếng” với những cú đập mạnh và liên tục đến nỗi “một con rùa cũng cảm nhận được…” Trải nghiệm này đã thuyết phục Jefferson “nói lời từ biệt với những bức tượng bán thân và kể cả những bức chân dung”. Ngoài việc minh họa quan niệm phổ biến về Jefferson như một di tích sống của quá khứ Mỹ huy hoàng, sự cố Browere vô tình báo hiệu các vấn đề sau này trong trường hợp có ai đó định thiết lập một mối liên hệ chặt chẽ giữa hình ảnh của Jefferson và con người thật sự của ông. Ngay cả khuôn thạch cao của Browere cũng dựa vào những mảnh vỡ được ghép lại từ chiếc “mặt nạ sống” bị đập bể. Giống như chính con người ông, ngay cả khuôn mặt của Jefferson cũng dường như chống lại những mô tả thực tế. 12

Nhưng việc phác họa lại một cách trung thực những khoảnh khắc mang tính biểu trưng - khi ông cưỡi trên lưng Eagle Già, đón Lafayette, chịu đựng những kỹ thuật lưu giữ của Browere - chỉ cung cấp cho chúng ta cái nhìn thoáng qua về con người thật của Jefferson ở giai đoạn về già của ông. Những cảnh như vậy cũng cắt gọt, và do đó đã bóp méo với ý tốt, giai đoạn tiến hóa cuối cùng của Jefferson trong khoảng 10 năm, khi mà mặc dù có những cuộc đột nhập dai dẳng của du khách và nỗi đau dai dẳng không kém của tuổi tác, ông vẫn tận hưởng di sản của mình một cách thoải mái và trọn vẹn hơn so với bất kỳ thời điểm nào khác trong đời. Một cảnh tượng cuối cùng, mặc dù chỉ là một cái nhìn thoáng qua nhất thời, đem lại cho ta có lẽ là góc độ tốt nhất để từ đó nắm bắt được tình trạng tâm lý của Jefferson trong suốt thập niên cuối cùng của ông bằng cách cung cấp một đầu mối cho những mối quan tâm luôn hiện hữu trong tâm trí và trái tim ông.

Đó là buổi sáng cuối cùng trong đời ông, như thể ý trời đã định, vào ngày 4 tháng 7 năm 1826, kỷ niệm 50 năm ngày công bố Tuyên ngôn Độc lập. Ông rơi vào tình trạng hôn mê từ tối hôm trước, và khi tỉnh dậy, ông đã hỏi bác sĩ và những người trong gia đình ông có mặt bên giường bệnh, “Hôm nay có phải Ngày 4 không?” Tất cả đều thấy rõ, kể cả ông, rằng đây sẽ là trận ốm cuối cùng của ông, và trong vài ngày, khách khứa và gia đình đã tỏ lòng tôn kính, ghi nhận sự kiên định của tinh thần độc lập nơi ông; đêm đến, ông khăng khăng chỉ để một mình Burwell mà ông tin cậy bên cạnh, còn ban ngày ông sẽ tự đuổi ruồi. Lời cầu nguyện của cả gia đinh rằng ông có thể cầm cự đến Ngày 4 đã được ứng nghiệm, mặc dù trong những thời khắc cuối đời, ông đã không còn biết gì nữa. Ông có động đậy một chút, lẩm bẩm điều gì đó mà cả bác sĩ và gia đình đều không thể hiểu được, cho đến khi Burwell, người duy nhất hiểu được những gì ông chủ của mình đang yêu cầu, bước về phía trước để điều chỉnh gối. Yêu cầu cuối cùng của ông, trên thực tế đã được đáp ứng bởi một nô lệ, giống hệt như ký ức đầu tiên của ông, ít nhất là theo truyền thuyết, khi còn nhỏ được một nô lệ đặt lên một chiếc gối để đem đi. Những âm thanh cuối cùng của ông là những lời lan man nửa tỉnh nửa mê, rõ ràng là dựa trên những giấc mơ của ông. Ông trở lại thập niên 1770, chỉ đạo cho ủy ban An toàn về sự cần thiết phải cứng rắn trước chế độ độc tài Anh. Ông ra đi lúc xế trưa ngày 4 tháng 7, trong lúc hồi tưởng về những năm đầu hỗn loạn của Cách mạng Mỹ. Điều này vừa đau xót vừa mang tính biểu tượng. Đối với ý nghĩa của Cách mạng Mỹ - vai trò cá nhân và ý thức không lay chuyển của ông về ý nghĩa của cách mạng đối với hậu thế - cũng là nỗi ám ảnh trung tâm của ông trong suốt thập niên cuối cùng ông nghỉ hưu. 13

NGÔN TỪ VÀ ÂM NHẠC

Mặc dù theo định nghĩa, nỗi ám ảnh không cần bất cứ sự thúc giục nào, nhưng trong trường hợp của Jefferson, rất nhiều lần ông nhìn lại là do có một sự thúc giục, cũng có thể nói là sự đốc thúc điên cuồng của John Adams. Khi nhìn lại, việc nối lại thư từ giữa hai vị tộc trưởng dường như là việc không thể tránh khỏi. “Ngài và tôi không nên chết”, như Adams đã rất hùng hồn nói, “trước khi Chúng ta giải thích được cho nhau”. Nhưng trong nhiều năm, điều mà giờ đây có vẻ không thể tránh khỏi và gần như bi thương thì lúc đó lại là hoàn toàn không thể. Chiến thắng sít sao của Jefferson trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1800 đã đẩy Adams về nghỉ hưu tại Quincy, nơi ông đã dành gần 12 năm đắm mình, biểu lộ sự đau đớn và co rúm trong sự oán giận hầu như không bị kìm nén, sau đó bắt đầu tiến hành theo phong cách Adams hiệu quả nhất của mình, nã một loạt ngôn từ công kích vào tất cả những kẻ thù chính trị của ông, trong đó có Jefferson. “Ngài Jefferson có lý do để nhìn lại mình”, Adams nhận xét một cách căm ghét về việc Jefferson từ chức tổng thống. “Tôi không biết làm thế nào ông ấy rũ bỏ được sự hối hận về hành động từ chức của mình. Ông ấy phải biết rằng mình rời bỏ chính phủ trong tình trạng chắc chắn là tồi tệ hơn khi ông ấy tiếp nhận nó, và đó là lỗi của ông ấy hoặc sự thiếu hiểu biết của chính ông ấy. Tuy vậy, tôi mong rằng những chiếc kính thiên văn và các công cụ toán học của ông ấy có thể bảo vệ được hạnh phúc của ông ấy”. Adams có một cách vừa biểu lộ sự tức giận sâu xa đối với Jefferson vừa cố gắng phủ nhận sự tồn tại của nỗi tức giận này. “Tôi không thù hận ông ấy”, ông giải thích cho Benjamin Rush, “mặc dù ông ấy đã vinh danh và trả lương cho gần như mọi nhân vật phản diện, như ông ấy có thể nhận thấy, đã từng là kẻ thù của tôi”. 14

Câu nói cuối cùng này nhằm ám chỉ chiến dịch tuyên truyền của phe Cộng hòa chống lại Adams trong nhiệm kỳ tổng thống của ông, chủ yếu là những cáo buộc bôi nhọ của James Callender trong cuốn Viễn cảnh trước mắt ta , mà Jefferson trong thực tế đã trợ cấp và thông qua. Cuốn sách mô tả Adams là một công cụ vô ích (đúng), thiếu cân bằng một cách nguy hiểm (bóp méo một cách phóng đại sự thật) và quân chủ ngẩm (chủ yếu là không đúng sự thật) của sự tham nhũng Liên bang (hoàn toàn không đúng sự thật). Jefferson đã thực hiện một nỗ lực chung nhằm mở lại đường dây liên lạc với Nhà thông thái của Quincy năm 1804, thử một tuyến đường gián tiếp thông qua Abigail. Nhưng ông đã mắc một sai lầm gấp đôi khi nhắc đến sự tức giận của ông đối với Adams về việc bổ nhiệm những thẩm phán nửa đêm và sau đó tuyên bố hoàn toàn không biết gì về vụ Callender. Abigail trả lời giống như một con sư tử cái bảo vệ đàn của nó. Jefferson đã từng là một người bạn đáng tin cậy, bà giải thích, và tình cảm còn sót lại “vẫn luôn tồn tại trong Trái tim, ngay cả khi sự quý trọng đã không còn nữa”. Nhưng bà không còn tôn trọng hoặc tin cậy một người có khả năng vừa đạo đức giả vừa tự dối mình, và bà thừa nhận bản thân có một ý thức riêng về công lý thơ mộng khi “con rắn bạn vẫn nâng niu và ủ ấm [tức Callender] lại quay ra cắn bàn tay đã nuôi dưỡng mình”, điều này ám chỉ các cáo buộc về Sally Hemings. “Vết thương mà người bạn gây ra vẫn còn đó”, bà nhận xét chua cay, sau đó tuyên bố không cần thư từ gì nữa. (Adams đã không đọc được bất kỳ lá thư nào trong số này cho đến tận vài tháng sau, khi Abigail đưa chúng cho ông, và ông ghi nhanh bên lề: “Tôi không có nhận xét gì vào lúc này và tại nơi này”). Không có thêm trao đổi gì nữa giữa Quincy và Monticello trong tám năm sau đó. 15

Nếu Adams dành nhiều thời gian đến thế để liếm láp vết thương chính trị của minh, thì Jefferson cũng đang phải chịu một loạt thương tổn xảy ra với mình. Những đánh giá hà khắc của Adams về những năm sau này với tư cách là Tổng thống của Jefferson chỉ là một cách diễn tả dữ dội hơn của một bản án nhìn chung là tiêu cực. Những thứ đã từng diễn một cách bình yên trong nhiệm kỳ đầu tiên của ông dường như sụp đổ trong đống thảm họa bất hạnh ở nhiệm kỳ thứ hai. Nguyên nhân cơ bản của những thất bại này, hóa ra lại nằm trong chính những thành công trước đó, cụ thể là sự mâu thuẫn ở châu Âu giữa Anh và Pháp. Hòa bình tạm thời giữa hai đấu sĩ trọn đời này đã cho phép thương mại Mỹ phát triển cực thịnh từ năm 1800 đến năm 1803; điều này đã cho phép Jefferson, với sự hỗ trợ tuyệt vời của Gallatin, thực hiện trò làm phép chính trị, đó là vừa giải quyết khoản nợ vừa cắt giảm thuế. Ngay cả khi chiến tranh Anh-Pháp quay trở lại vào năm 1803, Jefferson và chính quyền của ông là những người hưởng lợi trực tiếp khi Napoleon quyết định làm giảm thiệt hại của mình ở Bắc Mỹ bằng cách bán lãnh thổ Louisiana với giá rẻ mạt. Nhưng việc nối lại cuộc chiến trên toàn Lục địa vào năm 1803, sau đó là việc áp đặt phong tỏa hải quân ở Đại Tây Dương và khu vực Caribe, đã khiến động cơ kinh tế của Mỹ bị đảo ngược. Sự tha thiết của Jefferson trong việc thắt lưng buộc bụng về tài chính khiên lực lượng hải quân non trẻ của Mỹ phải phơi khô ở trên bờ hoặc bị giải tán, thật sự là có rất ít lựa chọn chiến lược cho Jefferson trong lúc các tàu thương mại Mỹ bị tàu chiến Anh hoặc Pháp cuỗm mất ngoài khơi. 16

Câu trả lời của Jefferson trước những thách thức này là Đạo luật Cấm vận năm 1807, trong đó chủ yếu đóng cửa các cảng của Mỹ với mọi giao dịch thương mại với nước ngoài. Ý tưởng về lệnh cấm vận xuất phát từ Madison, người đã thuyết phục chính bản thân mình rằng đóng cửa các hoạt động xuất khẩu và thị trường nội địa của Mỹ sẽ buộc Anh và Pháp thay đổi chính sách của họ. Đây luôn là một ảo tưởng, nhưng lại được pha trộn rất hợp với tầm nhìn đạo đức của Jefferson, nghĩa là chỉ chăm chăm cắt đứt tất cả mối liên hệ đến những quốc gia nhưỡng nhiêu, hiếu chiến của châu Âu. Kết quả là một tai họa nghiêm trọng đã giáng xuống nền kinh tế Mỹ, không những không có tác động rõ rệt đối với chính sách hay nền kinh tế của Anh hoặc Pháp mà còn buộc chính phủ liên bang phải dùng đến quyền cưỡng chế để thi hành lệnh cấm vận, do đó mâu thuẫn với nguyên tắc của Jefferson về chính phủ hạn chế. Tệ hơn nữa, trong lúc cuộc khủng hoảng quốc tế đang gia tăng, Jefferson đồng thời phải đối phó với khủng hoảng trong nước, với khả năng nghiêm trọng không kém khi Aaron Burr, cựu Phó Tổng thống của ông, bị bắt vì âm mưu khởi động một kế hoạch tham vọng một cách hoang đường - ngay cả ngày nay, những mục tiêu kỳ lạ của Burr vẫn thật khó hiểu - đó là tách một phần đáng kể của miền Tây Nam Mỹ để thành lập một quốc gia độc lập, và ở đó, Burr là vị bạo chúa nhân từ. Việc bắt giữ và cuối cùng là đưa ra xét xử Burr chỉ gây thêm khó khăn cho Jefferson, người háo hức được nhìn Burr bị kết tội phản quốc đến nỗi ông sẵn sàng vi phạm nguyên tắc hiến pháp căn bản để làm theo cách của mình, nhưng một lần nữa lại thấy cách thức ấy bị ngăn chặn bởi vị linh mục tối cao đại diện cho sự thách thức của phe Liên bang, đó là John Marshall bất khuất, người kết luận Burr không có tội. 17

Tổng kết lại, nhiệm kỳ đầu tiên của Jefferson vinh quang bao nhiêu thì nhiệm kỳ thứ hai của ông bất hạnh bấy nhiêu. Ông thông báo quyết định tuân theo tiền lệ của Washington và nghỉ hưu sau hai nhiệm kỳ vào tháng 12 năm 1807, ngay khi Đạo luật Cấm vận được Quốc hội chấp thuận. Từ thời điểm đó trở đi, trong hơn một năm, ông chuyển giao tất cả các quyết định quan trọng cho Madison và Gallatin, theo cách ấy tạo ra một cảm giác trôi dạt trong chính sách của Mỹ đúng vào thời điểm lệnh cấm vận không được quẩn chúng ưa chuộng và nặng nề, đòi hỏi có sự điều hành. Có người buột miệng, thậm chí trong giới Cộng hòa, về việc Pontius Pilate muốn rũ sạch những trách nhiệm khó nhằn. Trong số những người Liên bang đã có những so sánh mang tính khiêu khích nực cười về việc Jefferson chuyển đổi một cách đáng hổ thẹn thành người lính Anh trong những ngày cuối từ vai trò Thống đốc ở cuộc cách mạng bang Virginia. Ông rõ ràng là một tổng thống hết thời. “Chưa bao giờ một tù nhân, được thoát khỏi xiềng xích”, ông nhân xét trước lễ nhậm chức của Madison, “cảm thấy nhẹ nhõm như tôi khi được rũ bỏ gông cùm quyền lực”. 18

Đó là một kết thúc không mấy dễ chịu và có phần trống rỗng với một người có hơn 40 năm phục vụ nhân dân hầu như không nghỉ. Như chính ông đã dự đoán trong Diễn văn Nhậm chức đầu tiên của minh, không người nào có khả năng rời khỏi văn phòng tổng thống mà giữ được uy tín như khi đặt chân vào đó. Với tất cả những lợi ích của việc nhìn nhận lại, giờ đây có thể dễ dàng thấy rằng những thất bại trong nhiệm kỳ thứ hai của ông có nguyên nhân bắt nguồn từ các cuộc chiến tranh Napoleon, và điều này nằm ngoài sự kiểm soát của Jefferson, hoặc dùng ra là của bất kỳ ai. May mắn ở thời kỳ đầu làm tổng thống của ông đơn giản là đã hết. Tuy nhiên, sự ảm đạm ở giai đoạn cuối của nhiệm kỳ tổng thống đã phủ một màn sương mù lên cả quá trình; điều này giúp giải thích tại sao ông đã quyết định không liệt kê giai đoạn này trong sự nghiệp chính trị của mình trên bia mộ. Lúc đó ở Quincy, một ngày sau khi nhiệm kỳ của Jefferson kết thúc, Adams viết thư cho Benjamin Rush, tuyên bố rằng ông đã biết trước tất cả những kết cục đáng thất vọng này. Nhưng ít nhất kết cục của ông với tư cách tổng thống, Adams ghi nhận, có tính chất rõ ràng và sắc nét của một thất bại trong bầu cử. Bất cứ ai cố gắng đọc bài kinh tạ ơn về nhiệm kỳ tổng thống của Jefferson cũng khó có thể tìm được lời nào để nói. “Jefferson đã hết thời và Madison đến với cuộc đời vào đúng 12 giờ đêm qua”, Adams đã nói đùa với Rush. “Ngài có thể vui lòng đánh một giấc ngắn, mơ thấy những lời chỉ dẫn của tôi và sự soi sáng tên tuổi Jefferson và chính quyền của ông ta không?” Tất nhiên, để an toàn thì nên nói “chỉ hậu thế mới có thể định đoạt”. 19

Cả Adams và Jefferson đều để ý đến sự phán xét của hậu thế, vì vậy có lẽ điều đầu tiên cần phải nhớ trong đầu khi chúng ta xem xét những thư từ hùng hồn trong mấy năm cuối đời của họ là họ không chỉ viết cho nhau mà còn viết cho hậu thế chúng ta. Adams liên tục bị Rush thúc giục phá vỡ sự im lặng giữa Quincy và Monticello trong nhiều năm, Rush tuyên bố rằng ông liên tục nằm mơ thấy hai vị tộc trưởng nối lại quan hệ năm xưa, khi họ thành lập nên, theo cụm từ đáng nhớ của Rush, “cực Bắc và cực Nam của Cách mạng Mỹ”. Ban đầu Adams nói với Rush rằng giấc mơ đó giống như ác mộng với ông; Jefferson là một “cái bóng” bí ẩn, người có tính cách “giống như những con sông lớn êm ả ta không nhìn thấy đáy”. 20

Nhưng dần dần lớp băng tan chảy ở Quincy. Ông không ấp ủ “oán giận hay thù địch chống lại Quý ngài ấy” và chắc chắn sẽ trả lời “nếu tôi nhận được thư của ông ấy…”, có nghĩa là Jefferson sẽ phải là người viết thư trước. Sau đó, Adams trở nên hết sức vui vẻ về vấn đề này, ông tuyên bố sẽ đổi tên bất động sản ở Quincy của ông thành “Montezillo”, một phiên bản thu nhỏ từ ngôi nhà lớn của Jefferson, tự hỏi thành tiếng với Rush những điều đã gây chia cắt giữa ông và Jefferson lúc đầu và kết luận “rằng điều gây chia rẽ giữa Jefferson và tôi chính là kiểu tóc”. Ông thích tóc thẳng và Jefferson lại chuộng tóc quăn. Hay là ngược lại? Adams rõ ràng đang đi men về phía xích lại gần nhau. 21

Cuối cùng, vào ngày 1 tháng 1 năm 1812, ông đã có một bước đi mang tính quyết định với đôi lời nhắn nhủ chân tình, phản đối rằng sự hòa giải này chẳng có gì quan trọng hay mang tính lịch sử. “Jefferson luôn là một cậu bé với tôi”, ông nói đùa; “Tôi dám nói tôi là thầy dạy cậu ta về Chính trị và đã dạy cậu ta mọi thứ về cách ứng xử chính trị sao cho tốt và chỉnh chu”. Làm thế nào một người lại có thể có ác cảm đối với đệ tử của chính mình? Adams ngụ ý rằng, sự khác biệt giữa hai người là sản phẩm của sự bóp méo cộng thêm phóng đại của những kẻ thù chung của họ, đặc biệt là Hamilton. Tình bạn ấy có thể được khôi phục dễ dàng bởi nó chưa bao giờ hoàn toàn mất đi. “Nó giống như việc một thủy thủ gặp một thủy thủ anh em, sau 25 năm vắng bóng”, Adams châm biếm, “và bắt chuyện với nhau, dạo này thế nào, Jack?” Tất cả những chuyện này đều nửa đùa nửa thật, và việc viện dẫn lý do hài hòa đã giúp Adams tránh được chuyện phải đối mặt với thực tế rằng ông đang với tay qua cái đã trở thành sự ngăn cách cá nhân và chính trị to lớn. 22

Trong quá trình suốt 14 năm sau đó, họ đã trao đổi 158 lá thư và tạo ra cái mà nhiều sử gia coi như là những ghi chép thư từ phong phú nhất giữa các chính khách nổi bật trong lịch sử Mỹ. Điều mà hầu hết các độc giả ngày nay cảm nhận được trong những bức thư này là một giọng điệu bi thương và sự thanh thản cám dỗ của hai phiên bản nhà triết học kiêm đấng quân vương của Mỹ, đang trầm ngâm thành tiếng với nhau tất cả các chủ đề vượt thời gian, đôi khi khẩu chiến với nhau để giành giải hùng biện như hai cậu học sinh khôn sớm. “Tính khí của tôi là lạc quan”, Jefferson viết năm 1816. “Tôi điều khiển con tàu tiếng nói với Hy vọng nơi đầu tàu, để lại Nỗi sợ hãi nơi đuôi tàu”. Adams đáp lại hiền từ: “Tôi ngưỡng mộ khả năng điều khiển của ngài và muốn giong buồm đi cùng ngài, dù trên con tàu tiếng nói của ngài hay của tôi, sát cánh bên ngài; đặt Hy vọng với Phù hiệu vui vẻ của mình bày ra ở Mũi tàu; để Sợ hãi với đám Yêu quái của nó ở cuối tàu”. Và rồi cả hai còn nhại theo phong cách Cicero. “Nhưng tính ba hoa người già đang dẫn tôi đến đâu đây?” Jefferson hỏi tu từ: “Tới chính trị, nơi rút cục tôi đã ra đi… Tôi đã từ bỏ báo chí để đổi lấy Tacitus và Thucydides, Newton và Euclid; và tôi thấy mình hạnh phúc hơn”. Adams trả lời bằng cách phô diễn hỏa lực văn chương của mình: “Tôi đã đọc Thucydides và Tacitus thường xuyên, và lâu đến nỗi cảm thấy mệt mỏi với phong cách thanh lịch, sâu sắc và mê hoặc của họ”; ông nói đùa rằng “Tính ba hoa người già của tôi hơn cả trả đũa ‘tính ba hoa người già’ của ngài” và sau đó kết thúc bằng một lối thăng hoa gần như theo kiểu Jefferson trong phong cách lặp âm: “Dù một tộc trưởng cáu kỉnh có nói gì đi nữa, tôi chưa bao giờ thấy ngày mà tôi có thể nói rằng tôi không cảm thấy Vinh hạnh; hoặc là tôi có nhiều Niềm đau hơn Vinh hạnh”. 23

Họ thích thú và phấn khích một cách có ý thức khi viết cho nhau về một loạt các chủ đề an toàn: quá trình lão hóa; vẻ đẹp và sự mục nát của Ki-tô giáo; các nhân vật kỳ lạ và đôi khi điên rồ - những người khách không mời mà tới thăm vị Tổng thống bận rộn (Adams tuyên bố rằng bất cứ khi nào những nhà tiên tri tự xưng yêu cầu một cuộc phỏng vấn trong nhiệm kỳ tổng thống của ông, ông sẽ yêu cầu họ thực hiện phép lạ trước, do đó tránh được tất cả các cuộc gặp gỡ không cần thiết như vậy; những cuốn sách đáng đọc; sự phát triển ấn tượng của một ngôn ngữ bản địa Mỹ. Jefferson đặc biệt thẳng thắn về sự cần thiết của việc cho phép đưa những từ mới như “coi thường” (belittle) và ‘‘cách nói mới” (neologism) vào sử dụng. “Từ điển là nơi lưu trữ các từ ngữ đã được hợp thức hóa thông qua việc sử dụng chúng”, ông nhận định, và những cuộc trò chuyện hằng ngày “là hội thảo, nơi những từ ngữ mới được tạo ra”. Adams hoàn toàn đồng ý, lập luận rằng họ nên phối hợp với nhau để phản đối chế độ độc tài Anh, lần này là bác bỏ sự kiểm soát độc tài của Anh đối với từ ngữ. “Chúng tôi không còn bị ràng buộc bởi từ điển của Johnson”, Adams nhận xét, “hay bởi… Luật Nhà thờ của Anh”.

Adams thừa nhận rằng từ ngữ là lĩnh vực đặc biệt của Jefferson. (Đó là một trong những lý do ông thích nói với bạn bè rằng ông đã đề nghị Jefferson trẻ tuổi soạn thảo Tuyên ngôn Độc lập). “Chúng ta chẳng mấy chốc sẽ được đánh dấu sao”, Adams ghi nhận vào năm 1821, thêm là, “Sic transit Gloriola (có từ Latin như vậy sao?) Mundi”. (16) Jefferson cũng đồng tình về số lượng ngày càng ít những người sống sót từ năm 1776, sau đó khẳng định rằng chính Cicero đã sử dụng từ “Gloriola”, có nghĩa là “chút vinh quang”, một mô tả khiêm tốn phù hợp xứng đáng với ông, Adams và những đồng chí cách mạng của họ. Adams đáp lại và dự đoán rằng Jefferson, “là người trẻ nhất và năng động nhất về mặt tâm trí cũng như thể xác”, sẽ là người sống sót cuối cùng. Giống như người cuối cùng đi ngủ trong nhà, nên Jefferson có trách nhiệm đóng lò sưởi lại “và cào tro trong đống than…” 24

Đỉnh cao tình cảm trong loạt thư từ với tư cách một cuộc đối thoại cổ điển giữa hai vị tộc trưởng hòa giải là vào năm 1823. Trong những năm đầu khi mới nghỉ hưu, Adams đã viết một số bức thư trong đó lên án Jefferson về sự lừa dối và chỉ trích chính sách tổng thống của

(16) Tạm dịch: Vinh quang chẳng mấy chốc sẽ qua đi. (ND)

ông. Khi một số bức thư này được đăng trên các báo vào năm 1823 mà không có sự cho phép của ông, Adams đã rất bối rối và lo lắng rằng chúng sẽ làm tổn hại tình bạn mới được phục hồi của hai người. Nhưng Jefferson đã có một phản ứng tuyệt vời trước tình huống này: “Hãy yên tâm, bạn thân mến”, ông viết, “rằng tôi không tài nào tiếp nhận nổi một ấn tượng, dù là nhỏ nhất, từ nỗ lực nhằm cắm gai nhọn lên chiếc gối tuổi tác, giá trị, và sự khôn ngoan, và gieo cỏ dại giữa những người bạn đã bên nhau trong gần nửa thế kỷ. Tôi khẩn cầu ngài đừng bắt tâm trí phải chịu đựng và lo lắng về những nỗ lực độc ác đầu độc sự thanh thản này, và cầu nguyện ngài sẽ ném sự lo lắng ấy đi bằng cách…” Adams vui mừng khôn xiết, đòi đọc to lá thư của Jefferson cho cả nhà cùng nghe tại bàn ăn sáng. Đó là “lá thư hay nhất từng được viết…, lá thư như tôi mong đợi, chỉ là nó được thể hiện hay hơn nhiều”. Ông kết thúc lá thư với loạt đạn theo phong cách điển hình của Adams chống lại “sự tuôn trào cáu kỉnh và phiền nhiễu của các chính khách… [những người] không đáng nhớ, chứ chưa nói đến chuyện là đáng quan tâm… Tôi xin trân trọng gửi lời chào tới tinh thần chiến đấu của ngài”, sau đó đã ký tên “J. A. đang ở tuổi 89 và vẫn quá béo nên không thể sống lâu hơn”. 25

Và như vậy, mặc dù cả hai người đều đang làm duyên cho hậu thế, lại có một sự thật đáng kể trong bức chân dung cổ điển của Adams và Jefferson với tư cách hai nhà hiển triết hội ngộ trò chuyện với nhau, và sau đó qua các thời đại nói chuyện với chúng ta, trong vai trò đặc biệt của họ với tư cách người Mỹ gốc. (ít nhất cũng rất khó để tìm được và cùng một thời điểm tiếng cười châm biếm bật ra, hai vị tổng thống đã nghỉ hưu trong lịch sử Mỹ mà lại tương đương nhau về năng lực văn chương và sự tinh tế về tri thức như vậy). Tuy nhiên, ở một bức tranh khác, có thêm một vài sự thật đặc biệt quan trọng đối với việc tìm hiểu tâm lý của Jefferson trong những năm cuối đời. Trong bức tranh này Jefferson đang đứng thẳng người, cao lớn với cánh tay khoanh trước ngực như thường lệ, và Adams đang thoăn thoắt đi đi lại lại trước mặt ông, nói chuyện với phong cách một dặm một phút của mình, cứ định kỳ dừng lại tóm lấy vạt áo Jefferson để làm rõ quan điểm gây tranh cãi và sống động của mình. Thật sự là có rất nhiều việc còn dở dang giữa hai vị tộc trưởng, đặc biệt là nếu Adams đã nhất quyết tỏ ra nghiêm túc, như ông rõ ràng đang làm như thế, với niềm tin của mình rằng họ không được phép chết trước khi giải thích bản thân cho nhau. Adams có lẽ là người duy nhất trên thế giới có khả năng thách thức, thường với phong cách gây hấn đầy ngang ngạnh, niềm tin được trân trọng nhất của Jefferson về ý nghĩa thật sự của Cách mạng Mỹ.

Jefferson muốn phân biệt giữa một bên là tình cảm chân thật của mình dành cho Adams với tư cách một người đàn ông khôn ngoan và dũng cảm có tính cách không phải bàn cãi, một trong những thành viên của “nhóm huynh đệ” thời đầu, đã làm nên Cách mạng Mỹ, với một bên là bất đồng của ông với thương hiệu tư duy chính trị của Adams. Theo cách ông nói với Rush thì ông luôn bảo vệ tính cách của Adams “với ngoại lệ duy nhất liên quan đến quan điểm chính trị”. Nhưng xét đến sự kết hợp trơn tru của chính trị và cá tính trong con người Adams, thì đây giống như nói rằng một người luôn trung thành lắng nghe Giáo hoàng, trừ khi người đó lên tiếng về vấn đề đức tin và luân lý. Ngoài ra, Adams còn có ưu thế nhất định về tâm lý so với Jefferson do tuổi tác và kinh nghiệm của người đi trước trong từng vị trí mà hai người đều kinh qua: trong Quốc hội Lục địa ở thập niên 1770, châu Âu trong thập niên 1780, Phó Tổng thống những năm 1790, và sau đó là Tổng thống. Mặc dù Adams nói đùa khi ông mô tả Jefferson là đệ tử trẻ tuổi của mình, nhưng điều này chí ít cũng có một phần sự thật trong đó. Vì những lý do này, Jefferson có xu hướng vì nể Adams theo cách mà những người được ông bảo hộ vì nể ông - Madison, Monroe, Gallatin. Hơn nữa, trong khi các nhà lãnh đạo phe Liên bang khác, chủ yếu là Hamilton và Marshall, là những kẻ thù thuần túy - người rõ ràng đứng hẳn một bên của ranh giới đạo đức trong tâm trí Jefferson với một bên là sức mạnh của ánh sáng và bên kia là sức mạnh của bóng tối, Adams dường như đứng ở cả hai bên lằn ranh ấy, trong thực tế ông phủ nhận sự tồn tại của một lằn ranh như vậy. Ông chỉ đơn giản là không thích hợp với bất kỳ hạng mục nào của Jefferson. Còn nữa, Adams có một văn phong dào dạt điên khùng trong đó phản ánh chính xác thương hiệu trò chuyện nổi tiếng về tài mở khóa của mình, trong đó một ý tưởng nảy ra từ một ý tưởng khác ở góc độ không thể đoán trước và với tốc độ khiến cho khó có được ý niệm về một cuộc trao đổi thận trọng, mang tính ngoại giao và tránh né những chủ đề không an toàn vốn dĩ là không có khả năng. 26

Có lẽ điểm bất đồng rõ nhất giúp cho ta thấy hai người đàn ông đã đầu tư kỳ công thế nào trong việc định hình câu chuyện Cách mạng nhằm nâng cao danh tiếng của mình liên quan đến ký ức của hai người về Tuyên ngôn Độc lập. Khi tài liệu này lần đầu tiên được xuất bản và ra mắt thế giới vào năm 1776, chỉ có các đại biểu dự Quốc hội Lục địa mới biết rằng Jefferson là tác giả chính. Mãi đến giữa thập niên 1780, khi Jefferson ở Paris, người ta mới bắt đầu công nhận mối liên kết giữa từ ngữ của Tuyên ngôn với một cá nhân. Tuy nhiên, trong những năm tiếp theo, khi Ngày 4 tháng 7 trở thành dịp kỷ niệm Quốc khánh, thì người ta mới bắt đầu chính thức liên hệ Jefferson với ngôn ngữ của Tuyên ngôn, và danh tiếng của ông cũng từ đó mà lên theo văn bản thiêng liêng này. Hành động chính thức cuối cùng với tư cách tổng thống của Madison là vào mùa xuân năm 1817, ông chọn ra bốn bức tranh của John Trumbul cho mái vòm Capitol Rotunda, những bức tranh đó đã được phục hồi sau vụ cháy do người Anh gây ra trong Chiến tranh năm 1812. Lựa chọn đầu tiên là bức tranh Trumbull mô tả Jefferson bàn giao bản thảo Tuyên ngôn cho Chủ tịch Quốc hội Lục địa, đằng sau là Adams và các thành viên khác của Ban soạn thảo. 27

Có thể cảm nhận được cái tôi đau nhói của Adams đằng sau tất cả những than phiền của ông về tính biểu trưng của cảnh tượng này. Ví dụ như năm 1819, một tài liệu xuất hiện ở hạt Mecklenburg, Bắc Carolina, được cho là được viết vào tháng 3 năm 1775, hơn một năm trước khi Tuyên ngôn ra đời, và có lời văn giống với văn bản thiêng liêng một cách kỳ lạ. Hàm ý rõ ràng là nếu những nghị quyết Mecklenburg là thật, thì văn bản này đã phủ một bóng đêm lên tuyên bố của Jefferson về tính nguyên bản của Tuyên ngôn. Adams khá khiêu khích khi hỏi Jefferson liệu ông có biết tí gì về sự phát hiện đáng ngạc nhiên này không. Jefferson trả lời ngay lập tức, cho rằng những nghị quyết Mecklenburg gần như chắc chắn là một sự giả mạo, và ông chưa bao giờ nhìn thấy chúng. Mặc dù Adams đã viết lại cho Jefferson để nói rằng ông tin lời của Jefferson, nhưng ông lại đi nói với những người bạn khác điều ngược lại. “Tôi có thể tin ngay rằng một tá hoa tú cầu trước mắt tôi bây giờ chỉ là tình cờ”, ông buôn chuyện, “cũng giống như cách tôi tin rằng những nghị quyết Mecklenburg và bản tuyên ngôn của ông Jefferson không liên quan đến nhau”. 28

Tuy nhiên, nhìn chung Adams có xu hướng không đặt câu hỏi về tính xác thực trong sáng tác của Jefferson mà nhấn mạnh vào tầm quan trọng của quá trình soạn thảo hoặc thâm chí là của chính Tuyên ngôn. Trong phiên bản của Adams về câu chuyện này, lần đầu tiên được trình bày trong cuốn tự truyện của ông và sau đó chuyển tải trong những bức thư cho bất cứ ai có câu hỏi về vấn đề này, ban soạn thảo đã bổ nhiệm ông làm chủ tịch một tiểu ban gồm hai người là Jefferson và ông. Sau đó, ông đã giao phó công việc soạn thảo thật sự cho Jefferson. Khi phiên bản này quay trở lại với Jefferson, ông ngay lập tức nhận ra rằng Adams đã cố gắng ăn cắp phần công trạng viết nên những từ ngữ kỳ diệu của ông (bạn có thể nghĩ theo hướng nhằm đẩy Adams lên vị trí phía trước trong bức chân dung của Trumbull), và ông nhanh chóng đưa ra một lời đáp lịch sự nhưng chắc nịch: “Bộ nhớ của ngài Adams đã dẫn ông ấy đến một lỗi lầm rõ ràng. Ở tuổi 88, và 47 năm sau ngày Độc lập, điều này chẳng có gì hay ho. Và tôi, ở tuổi 80, cũng không dám ỉ vào sự khác biệt tuổi tác để bộ nhớ của tôi chống đối lại của ngài ấy, nếu không có bằng chứng bằng văn bản do chính tay tôi viết ra tại thời điểm đó và ngay tại nơi đó”. Ghi chú của Jefferson, được ông đưa vào cuốn tự truyện của mình, cho thấy ông và Adams đích thực đã tham khảo ý kiến trước khi bắt đẩu quá trình soạn thảo, nhưng việc tham khảo sau đó đã bị “nhớ sai thành hoạt động của một tiểu ban”. Không có sự hợp tác, thậm chí ở hình thức hành chính nào tại thời điểm sáng tạo. Jefferson đã cố gắng chối bỏ bất cứ cáo buộc nào liên quan đến tính độc đáo về mặt triết học trong Tuyên ngôn. Như Madison đã nói rất ngắn gọn về điều này, mục tiêu của Jefferson “là khẳng định không phát hiện ra sự thật, và để biến sự thật thành Hành động Cách mạng”. Nhưng để làm vậy, Jefferson khẳng định, ông đã hành động một mình. 29

Khi nhìn lại, có vẻ sẽ thật vụn vặt khi ta cứ đi sâu vào lịch sử chuyện này, nhưng sự kiện ấy đã mô tả rõ nét cách thức cả hai người công nhận đầy đủ tầm quan trọng mang tính biểu tượng mà Tuyên ngôn đã đạt được, ngay cả lúc họ đang sống, và do đó cũng mô tả luôn vị trí của họ trong ngôi đền vinh danh các vị thần nước Mỹ phụ thuộc nhiều đến đâu vào mối liên hệ của họ với việc tạo nên Tuyên ngôn. Đó là một thực tế làm Adams trăn trở hơn bất cứ điều gì khác. “Liệu bao giờ sẽ có một đoạn cao trào, có tác động lớn như sự kiện Jefferson chấp bút cho Tuyên ngôn Độc lập hay không?” Ông hỏi Rush. Ông đủ thẳng thắn để nói với Jefferson rằng ý nghĩa của Tuyên ngôn đã được nhiều người đánh giá quá cao; Tuyên ngôn chỉ giống như “trò bắn bi hoặc ném lon của trẻ con mà thôi… Chỉ là quần là áo lượt và đồ trang trí chứ không phải là Thể xác, Tâm hồn và bản chất”. Ông tuyên bố không ai tại Quốc hội Lục địa coi ngôn ngữ của Tuyên ngôn là một thứ gì khác hơn một tài liệu tuyên truyền hùng hồn. Tuyên ngồn chỉ đơn thuần là “một vở diễn sân khấu bên lề” mà các thế hệ tiếp theo đã biến thành sự kiện chính. Kết quả là, “Jefferson đã chạy theo hiệu ứng sân khấu… và tất cả vinh quang của nó”. 30

Vậy thì, câu chuyện thực về Cách mạng Mỹ là gì? Cả hai đều thống nhất rằng câu chuyên ấy có lẽ sẽ theo họ xuống mồ và không bao giờ tìm được đường đi vào sử sách. Adams thích lưu ý sự gia tăng đột ngột của những lời kể giả mạo đã làm nhiễu loạn các ghi chép và hồi ký tự viết, rằng như ông và Jefferson có thể làm chứng, đó là mấy phiên bản giả tưởng về những gì đã thật sự được nói ra trong các dãy hành lang và các cuộc họp riêng, nơi những quyết định thật sự được đưa ra. Jefferson đồng tình rằng chỉ những “sự kiện bên ngoài” mới đi vào các ghi chép lịch sử, và rằng “cuộc sống và tâm hồn của lịch sử mãi mãi không được phép biết đến”. Tuy nhiên, trong phiên bản của Adams về câu chuyện có thật, thời điểm đỉnh cao không phải là ngày 4 tháng 7 năm 1776, và tài liệu mang tính quyết định không phải là Tuyên ngôn Độc lập. Bản thân cuộc chiến đã bắt đầu nổ ra từ thời điểm đó. Hầu hết các đại biểu tham dự Quốc hội Lục địa coi Tuyên ngôn như một bản xác nhận mang tính nghi lễ về những gì đã xảy ra; giá trị thực tiễn chính của nó, ngoài việc công bố một kết cục khó tránh bằng ngôn ngữ trữ tình, là nhằm nâng cao triển vọng về một liên minh thời chiến với Pháp, và tất cả các nhà lãnh đạo cách mạng hiểu liên minh với Pháp là vấn đề cấp bách lúc bấy giờ. Tuyên ngôn của Jefferson giống như sấm sét trong một cơn bão; Tuyên ngôn ấy gây ra nhiều tiếng vang, nhưng sét đã lóe lên trước đó và có hiệu quả thật sự. 31

Đối với Adams, thời điểm đỉnh cao đã xảy ra vào ngày 15 tháng 5 năm 1776, khi Quốc hội Lục địa thông qua một nghị quyết - không tình cờ cho lắm, vì ông đã đề xuất điều đó - kêu gọi đưa ra hiến pháp mới tại mỗi bang. Đây chính là hành động mang tính quyết định, như cách Adams nhìn nhận, vì ba lý do: Thứ nhất, đó là quyết định đòi hỏi phải tạo ra một Chính phủ Mỹ riêng biệt và độc lập; thứ hai, nghị quyết quy định rằng mỗi bang nhóm họp để soạn thảo hiến pháp của từng bang, do đó ủng hộ học thuyết về chủ quyền phổ biến, ý tưởng thiêng liêng rằng “nhân dân là nguồn cội của tất cả chính quyền và gốc gác của tất cả quyền lực”; thứ ba, và đáng chú ý nhất trong phiên bản của Adams, điều này có nghĩa Cách mạng Mỹ là một cam kết có trách nhiệm và tích cực với các hình thức mới của kỷ luật chính trị, chứ không phải chỉ là một sự khẳng định vô trách nhiệm và tiêu cực của việc tách khỏi Anh dựa trên một lời hứa quyến rũ về sự giải phóng hoàn toàn. Theo Adams, Jefferson là một trong số ít, có lẽ là người duy nhất tham gia các cuộc tranh luận, coi ngôn ngữ trong phần quyền tự nhiên của Tuyên ngôn là một tuyên bố nghiêm túc về sự rũ bỏ sạch trơn và triệt để những khôn ngoan chính trị tích lũy từ quá khứ. Mặt khác, theo Jefferson, nếu Adams đã đúng, thì Cách mạng Mỹ thật sự không phải là một cuộc cách mạng. 32

Sự bất đồng về ý nghĩa của cuộc cách mạng cho thấy mối căng thẳng tiềm ẩn xuyên suốt những bức thư giữa Adams-Jefferson. Nó chưa bao giờ thể hiện ra ngoài dưới hình thức một cuộc trao đổi quan điểm đầy đủ và tự do, vì cả hai đều không muốn đặt sự hòa giải muộn mằn của họ vào rủi ro. Những bắt buộc về mặt ngoại giao của cuộc đối thoại trên thực tế khiến hai vị tộc trưởng Mỹ không thể hoàn thành lời hứa của Adams và phân bua cho bản thân trước khi họ qua đời. Thật vậy, nếu Jefferson làm theo cách của mình, thì các chủ đề nhạy cảm sẽ được tránh nói đến hoàn toàn, phần vì ông ghét sự xung đột bao nhiêu thì Adams lại thích thú điều đó bấy