← Quay lại trang sách

Lời bạt TƯƠNG LAI CỦA MỘT ẢO TƯỞNG

Di sản thật sự của Jefferson đối nghịch với những di sản khác .

JOYCE APPLEBY (1993)

Những lý tưởng của Jefferson có lẽ chỉ là do sử dụng từ ngữ khéo léo đôi chút. Chúng ra đời quá dễ dàng và nằm chênh vênh trên lý tưởng và khát vọng của những người tốt, nhưng không đủ cho thực tế tàn bạo của thế giới như nó vốn thế .

CARL BECKER (1944)

⚝ ✽ ⚝

Vậy lịch sử đã sửa lại gì trong di sản Jefferson? Giá trị nào của một con người bằng xương bằng thịt mà Thomas Jefferson thể hiện trong đời mình vẫn còn tồn tại và vững vàng qua hơn hai thế kỷ sau khi ông tuyên bố nền độc lập Mỹ? Hơn nửa thế kỷ sau khi sử gia Carl Becker đặt câu hỏi theo hình thức quen thuộc nhất của nó, có vẻ giờ đây đã đến lúc thích hợp để chúng ta tự hỏi một lần nữa: “Điều gì vẫn sống trong triết lý chính trị của Thomas Jefferson?” 1

Phải nói rằng câu hỏi này sẽ đánh thẳng vào chính Jefferson và đa số các sử gia chuyên nghiệp. Jefferson chắc chắn muốn được nhớ đến, nhưng ông đã có chút kiên nhẫn với những di sản lịch sử mà ông có xu hướng coi như gánh nặng của quá khứ đè nặng lên thực tại. Joyce Appleby, một trong những người hâm mộ Jefferson sắc sảo nhất hiện nay, đã nói đầy thú vị: “Di sản thật sự của Jefferson đối nghịch với những di sản khác”. Nếu ông ấy có thể tạo ra một sự xuất hiện kỳ diệu giữa chúng ta, thì nó sẽ hoàn toàn chính đáng khi ông ấy tố cáo toàn bộ sự nghiệp Jefferson là một sự lãng phí lớn về thời gian. Ông ấy cũng có thể nói rằng thế hệ người Mỹ hiện nay cần phải giải phóng mình khỏi ảnh hưởng nặng nề từ tổ tiên và những người tiền nhiệm để tìm kiếm số phận và tương lai của chính mình. Thật vậy, chỉ có làm như thế chúng ta mới tiếp tục trung thành với những niềm tin cốt lõi của Jefferson. 2

Hầu hết các sử gia sẽ phụ họa theo một phiên bản khác của cùng thông điệp này. Họ nhìn nó trong quá khứ như một quốc gia ngoại bang với tập tục và ngôn ngữ riêng. Do đó, tất cả những nỗ lực nhằm kéo Jefferson ra khỏi thời gian và không gian của ông là sự phiêu lưu vô ích và sai lầm, sẽ ảnh hưởng đến tính toàn vẹn của bối cảnh lịch sử đã tạo nên ông. Nhấc Jefferson ra khỏi bối cảnh đó và đưa ông vào hiện tại cũng giống như cố gắng để trồng những bông hoa đã bị cắt khỏi cành. Điều này có nghĩa là để bảo vệ sự trong sáng của quá khứ thì phải trả giá bằng việc từ bỏ sự liên quan của nó với hiện tại. Nhưng hầu hết các sử gia thà chấp nhận nguy cơ của chủ nghĩa hoài cổ còn hơn là phạm lỗi hiện tại luận.

Tuy nhiên, dù tốt hay xấu, Jefferson từ lâu đã phá vỡ những chướng ngại vật mà các sử gia thiết lập giữa hiện tại và quá khứ. Các phiên bản khác nhau về ông gồm cả anh hùng và phản diện cứ mơ hồ giữa chúng ta, và những tuyên bố khác nhau về di sản Jefferson đã trở thành đặc trưng thường trực trong nền văn hóa Mỹ đương đại. Để chắc chắn, Bill Clinton tính toán hành hương đến Monticello còn Ronald Reagan khuyến nghị chúng ta “hái một bông hoa từ cuộc đời Thomas Jefferson và đặt nó vào tâm hồn chúng ta mãi mãi”, cho thấy cùng một thôi thúc rõ ràng dành lấy một biểu tượng cho những mục đích chính trị riêng của họ. Abraham Lincoln và Franklin Delano Roosevelt, ngày nay cũng trở thành những biểu tượng, đã hoàn thiện kỹ thuật này từ lâu. (Trên thực tế, điển hình là khi Roosevelt xây dựng Đài tưởng niệm Jefferson chủ yếu cấp cho Đảng Dân chủ một biểu tượng để đối lại với Đài tưởng niệm Lincoln mà Đảng Cộng hòa tuyên bố là của mình). Những dẫn chứng về sự chiếm hữu công khai như vậy về Jefferson thần thoại chỉ có kết nối mờ nhạt với Jefferson lịch sử, người có lẽ đang yên nghĩ thoải mái trong ốc đảo lưu trữ của các học giả đầy cảnh giác nhưng vô hình. 3

Trong khi những nhân vật nổi tiếng có ảnh hưởng nhắc lại lời của Jefferson mà không lo ngại hay bối rối vì sự thiếu hiểu biết của họ, vẫn có một cuộc đối thoại liên tục về sự thiển cận tương tự xảy ra ngày đêm trên Internet. Khi John Adams nói những lời cuối cùng và tiên tri nhất của ông rằng, “Thomas Jefferson sống mãi” - ông không hể biết về không gian mạng. Nhưng bây giờ có nhiều “trò chuyện” hơn về các chủ đề liên quan đến Jefferson (như Tom và Sally, Jefferson và Newt [Gingrich], công thức nấu ăn Monticello, Jefferson và Chúa) trên America Online hơn bất kỳ nhân vật lịch sử nào khác. Vào tháng 2 năm 1996, Quỹ Tưởng niệm Thomas Jefferson đưa vào ít nhất một thứ tương tự như ý kiến thông báo vế những tin phiếm này. “Monticello vui mừng thông báo sự hiện diện của nó trên World-Wide Web”, Quỹ này tuyên bố, cung cấp truy cập đến “một ngày bình thường trong cuộc sống của Jefferson vào đầu những nám 1.800” cùng những chủ đề khác. 4

Nói theo cách nào đó, không gian mạng là một môi trường hoàn hảo cho Jefferson, một nơi thanh tao có thể chuyển những hình ảnh và ấn tượng lơ lửng tự do và không có bất kỳ sự gắn kết giả dối nào. Tương tự như vậy, máy tính cá nhân là công cụ hoàn hảo cho Jefferson; nó cho phép các cá nhân bình thường tiếp cận với các nghiên cứu đơn độc bằng máy tính xách tay, mà một Jefferson đầu thai chắc chắn sẽ coi đó là góc làm việc số hiện đại. Tất cả điều này chỉ củng cố thêm nhận thức rằng việc duy trì kiểm soát mang tính học thuật về ký ức và di sản Jefferson là một chuyện vô ích.

Quay lại câu hỏi cũ của Carl Becker trong cuộc đối thoại đang diễn ra, vậy thì “Điều gì vẫn sống…?” hầu hết các học giả đơn giản lựa chọn sự tránh né. Việc Becker đặt câu hỏi này cũng ngụ ý bất kỳ câu trả lời nào đòi hỏi sự chính xác về lịch sử phải bắt đầu bằng việc thừa nhận rằng phần lớn các di sản của Jefferson không còn nữa; chúng đã chết một cách tự nhiên trong khoảng từ năm 1826 đến hiện nay. Có lẽ cách tốt nhất để hình dung quá trình đó là tưởng tượng một loạt các lâu đài cát trên bờ biển, nằm cách xa nhau nhưng tất cả đều mong manh trước thủy triều thời gian.

Làn sóng lớn đầu tiên tấn công là Nội chiến, đã phá hủy chế độ nô lệ, tính ưu việt chính trị của miền Nam và học thuyết cho rằng các bang chỉ là đơn vị chủ quyền trong Hiệp ước Liên bang. Sau năm 1865, “Virginia rộng lớn” phiên bản Mỹ của Jefferson đã cuốn theo chiều gió, và niềm tin của ông về sự phân bố hợp lý về quyền lực giữa chính quyền bang và liên bang, nếu không bị cuốn trôi, thì vĩnh viễn sẽ được đặt vào vòng bảo vệ.

Làn sóng thứ hai, thật sự là một loạt các con sóng, xô bờ trong khoảng từ năm 1890 đến 1920. Vào năm 1890, điều tra dân số của Mỹ tiết lộ rằng giai đoạn biên giới của lịch sử Mỹ đã kết thúc. (Bài tiểu luận của Frederick Jackson Turner “Ý nghĩa của biên giới trong Lịch sử Mỹ” ba năm sau đó thông báo rằng “biên giới đã biến mất và giai đoạn đầu tiên của lịch sử Mỹ đã khép lại”). Sau đó, cuộc điều tra dân số năm 1920 báo cáo rằng đây là lần đầu tiên đa số công dân Mỹ sống ở đô thị thay vì ở khu vực nông thôn. Thời gian này, Mỹ tiếp nhận một lượng lớn người nhập cư châu Âu và châu Á vĩnh viễn thay đổi tính chất Anglo-Saxon của dân cư Mỹ. Tóm lại, những thay đổi về nhân khẩu học đã chuyển tầm nhìn nông nghiệp của Jefferson vào ký ức hoài cổ, niềm tin của ông đối với sức mạnh tái sinh của miền Tây trở thành một huyền thoại dân chủ, và suy đoán của ông về bá quyền Anglo-Saxon trở thành một di tích chủng tộc. 5

Làn sóng thứ ba đến vào những năm 1930 với Chính sách Kinh tế mới. Khi nhìn lại, thật sự có thể thấy làn sóng này đến từ những năm đầu của thế kỷ 20, khi những tác động của đô thị hóa, công nghiệp hóa, gia tăng mật độ dân số và tăng trưởng theo cấp số mũ của thế lực tập đoàn trong nền kinh tế kết hợp với nhau tạo nên nhu cầu cẩn có một chính phủ tập trung hơn để điều chỉnh sự bất bình đẳng của thị trường và siết lại những nguồn năng lượng dữ dội của một nền kinh tế công nghiệp. Herbert Croly trong Sự hứa hẹn của cuộc sống Mỹ (The Promise of American Life) (1909) đã tiên tri và ủng hộ những thay đổi chính trị, Chính sách Kinh tế mới của Roosevelt đã thực hiện và thể chế hóa điều đó. Việc Roosevelt coi Jefferson như một đảng viên Dân chủ ủng hộ Chính sách Kinh tế mới là một trong những hành vi ăn cắp chính trị truyền cảm hứng nhất trong lịch sử Mỹ, vì sự phát triển của quyền lực liên bang trong suốt thời kỳ Kinh tế mới thể hiện cho chiến thắng của “sự hợp nhất” trước “sự phân tán” theo cách dùng từ của Jefferson. Chính sách Kinh tế mới trên thực tế là hồi chuông báo tử cho ý tưởng về một chính phủ tối giản của Jefferson. 6

Làn sóng thứ tư và là cuối cùng ập đến trong khoảng từ năm 1950 đến năm 1965. Sự khởi đầu của Chiến tranh Lạnh vào cuối những năm 1940 đã sử dụng một luân lý căn bản của Jefferson để huy động dư luận chống lại Liên Xô. Nhưng với Biên bản Ghi nhớ An ninh Quốc gia 68 vào năm 1950, Mỹ cam kết xây dựng một cơ sở quân sự lớn cho Chiến tranh Lạnh, chính xác là kiểu quân đội thường trực (có hải quân và không quân) mà Jefferson ghét cay ghét đắng. Trong khi đó các quyết định của Tòa án Tối cao trong vụ Brown với Hội đồng Giáo dục , hợp pháp hóa quyền dân sự vào đầu những năm 1960, thể chế hóa lý tưởng về một xã hội Mỹ đa sắc tộc, khiến niềm tin của Jefferson trong việc tách biệt về tự nhiên và pháp lý giữa người da đen và người da trắng trở nên lỗi thời. Chính sách Xã hội lớn của Lyndon Johnson, với cơ sở quân sự cố thủ, cống hiến cho nhà nước phúc lợi, trao toàn quyền công dân cho người da đen và phụ nữ, đại diện cho hình ảnh thu nhỏ của tham nhũng chính trị trong âm mưu của những người theo Jefferson, cũng như phủ nhận sự khác biệt về chủng tộc và giới tính được Jefferson cho là bắt nguồn từ các nguyên tắc bất di bất dịch của tự nhiên. 7

Việc đề cập “những nguyên tắc bất di bất dịch của tự nhiên” cho thấy một loạt các làn sóng khác nhau được tạo ra do những cơn gió thay đổi trong giới khoa học trái ngược với giới chính trị. Chủ yếu trong đó là những khám phá liên quan đến Charles Darwin, Sigmund Freud và Albert Einstein. Những điều đó hợp lại đã hoàn toàn đánh tan giả định tiền hiện đại của Jefferson về những nguyên tắc vật lý chi phối giới tự nhiên cũng như mối quan hệ giữa những gì ông gọi là “trái tim và cái đầu”. Toàn bộ thế giới tinh thần bên trong sự trầm tư của Jefferson đã thay đổi đáng kể, khoa học hiện đại đã lay chuyển mọi “nguyên tắc bất di bất dịch” mà ông cho là như vậy, bất kỳ kết nối trực tiếp giữa sau này và bây giờ phải được coi là một điều đầy nghi vấn. 8

Giờ đây đã có thể thấy rõ sự dè dặt ăn sâu trong các sử gia nhằm giải thích Jefferson qua các thời đại; không chỉ sự rụt rè, nó có căn nguyên từ một đánh giá đầy đủ hơn về sự thay đổi sẽ chia tách thế giới của ông với thế giới của chúng ta. Để mở rộng hình ảnh của những lâu đài cát trên bờ biển, nó không chỉ là những làn sóng của thay đổi liên tiếp nhấn chìm các niềm tin cốt lõi của Jefferson, mà nó còn định hình lại toàn bộ đường bờ biển. Những thay đổi mang tính quyết định về nhân khẩu học và quan điểm đã làm nên nước Mỹ “hậu Jefferson” xảy ra từ nám 1890 đến năm 1920. Trớ trêu thay, một trong những nét rõ rệt nhất của tư tưởng Jefferson vẫn còn rất sống động chính là sự miễn cưỡng kiên định, trong một số trường hợp là thẳng thừng từ chối chấp nhận sự dính líu chính trị của những thay đổi này.

Tiếng nói chính cho sự diễn tả mạnh mẽ này về sự hoài niệm Jefferson vào cuối thế kỷ 20 là cánh bảo thủ của Đảng Cộng hòa. Bắt đầu với Barry Goldwater vào những năm 1960, sau đó đạt đỉnh thành công cấp quốc gia với Ronald Reagan vào những năm 1980 và tiếp tục với Hợp đồng của Newt Gingrich với Mỹ trong những năm 1990, phong trào bảo thủ đã vận động chống lại đặc tính xâm lấn của chính phủ liên bang, cũng như Jefferson từng vân động chống lại khuynh hướng hợp nhất của Nghị viện Anh trong thập niên 1770, chương trình tài chính của Hamilton trong thập niên 1790 và những nỗ lực liên bang nhằm ngăn chặn sự bành trướng của chế độ nô lệ trong thập liên 1820. Mong muốn chuyển quyền lực từ chính quyền liên bang sang các chính quyền bang của Đảng Cộng hòa không chỉ phản ánh ưu tiên hiến pháp của Jefferson; mà quan trọng hơn, là thể hiện sâu sắc hơn sự thù địch của ông đối với quyền lực chính phủ. Thật vậy, kể từ khi kết thúc Chiến tranh Lạnh vào năm 1989, Chính phủ Mỹ đã thay thế Liên Xô trở thành phiên bản trong nước của Đế quốc của cái Ác. 9

Đây là Jefferson thuần túy, cả trong ác cảm bẩm sinh với quyền lực tập trung cách xa các cộng đồng địa phương lẫn trong xu hướng bỏ qua những lý do chính đáng cho sự ra đời của các thể chế chính trị cấp liên bang. Giống như uy thế của Jefferson khi nhậm chức tổng thống năm 1800, phe bảo thủ hiện đại quan niệm nhiệm vụ của họ là tháo dỡ nhằm loại bỏ các mảnh vỡ chính trị tích lại từ thời Hoàng kim. Với Jefferson, đồng hồ cần phải quay trở lại năm 1776. Đối với những người bảo thủ hiện đại, thời điểm mục tiêu khó nắm bắt hơn: 1963 (tiền Xã hội lớn); 1932 (tiền Kinh tế mới); thậm chí năm 1890 (tiền Chủ nghĩa tiến bộ). Logic căn bản của tư tưởng bảo thủ rõ ràng coi toàn bộ công trình liên bang đã phát triển trong thời hậu Jefferson ở thế kỷ qua là nguy hiểm và không cần thiết. Người ta có thể lập luận rằng đây chủ yếu là một kiểu hùng biện, không có ai mong chờ nghiêm túc việc loại bỏ An sinh Xã hội hoặc Cục Dự trữ Liên bang, mà trên thực tế, các cuộc tấn công kéo dài trong bốn năm vào quyền lực của chính phủ liên bang đã có rất ít tác động đối với sự gia tăng chi tiêu liên bang hoặc quy mô của bộ máy quan liêu Washington. Tuy nhiên, không nên đánh giá thấp năng lực hùng biện về tư tưởng chống chính phủ của Jefferson, không nên coi đó chỉ là một ảnh hưởng nhất định đối với đặc điểm đặc biệt của tranh luận chính trị. Không giống như bất kỳ quốc gia nào trong thế giới hiện đại, ý tưởng đặc trưng về sức mạnh của chính phủ đang bị kỳ thị tại Mỹ. Và đó là sức mạnh còn lại của tài hùng biện Jefferson, tài hùng biện đã giữ chính quyền ở thế phòng thủ. Mạch tư tưởng mạnh mẽ này của Jefferson vẫn còn tồn tại và thậm chí là tồn tại tốt cả ở phe bảo thủ của Đảng Cộng hòa. 10

Sức sống bền bỉ và thậm chí hồi sinh của các đặc tính chống chính phủ có cả ưu và nhược điểm, tuy nhiên, vì mối liên quan có phần khoa trương như một cách đặc trưng của Jefferson với câu hỏi khung về chính sách công, nghĩa là di sản Jefferson chẳng có nhiều điều để nói về những vấn đề đáng lo ngại và gây tranh cãi nhất trong xã hội Mỹ đương đại - phá thai, ma túy, nghèo đói, tội phạm. Tranh luận về những vấn đề xã hội này chính là tranh luận về vai trò thích đáng của chính phủ, và theo quan điểm của những người kế thừa Jefferson, chính phủ chẳng có vai trò gì cả. Như Carl Becker đã nói, Jefferson tin rằng “điều duy nhất phải làm với quyền lực chính trị chính là giảm bớt nó, vì nó vốn đã nguy hiểm”.

Trong bối cảnh chống chính phủ, di sản lâu năm nhất của Jefferson là nguyên tắc tự do tôn giáo, được định nghĩa là sự tách biệt hoàn toàn giữa nhà thờ với nhà nước, mặc dù ông sẽ đau khổ khi biết người bảo hộ chính cho nguyên tắc phủ định này trong nửa cuối thế kỷ 20 chính là Tòa án Tối cao, cơ quan chính phủ mà ông ghét nhất. Tuy nhiên, nguyên tắc chính phủ không can thiệp vào đức tin hoặc thực hành tôn giáo của con người là một lý tưởng đặc trưng Jefferson đã được thông qua từ cuối thế kỷ 18 đến cuối thế kỷ 20 mà không cần bất kỳ sự thay đổi đáng kể nào trong đặc trưng hay màu sắc. 11

Những di sản lâu bền khác của ông không thực sự rõ ràng và phải tìm kiếm trong nhiều lĩnh vực hiếm hơn, đó là nơi bầu không khí trí tuệ mong manh hơn khiến dễ nhầm lẫn những lời nói vô vị thành lý tưởng. Hai ví dụ về những mối nguy hiểm lồng ghép trong công việc ở những độ cao như vậy có thể coi là bài học mục tiêu nhằm cải thiện triển vọng chúng ta tránh được số phận ngớ ngẩn như thế. Thứ nhất, một loạt các nhà bình luận thông minh, dẫn đầu là Gunnar Myrdal trong Một song đề Mỹ (An American Dilemma) (1943), đã tuyên bố rằng ý tưởng cốt lõi cho những gì ông gọi là Kinh Tin Kính của Mỹ, như lần đầu tiên được Jefferson trình bày trong phần quyền tự nhiên của Tuyên ngôn Độc lập, tạo thành nền tảng trí tuệ chung cho nhiều nhóm chủng tộc và dân tộc khác nhau của Mỹ. Qua đó, những từ ngữ hùng hồn nhất của Jefferson và những lý tưởng về tự do và bình đẳng được rao giảng, trở thành xi măng hoặc keo dán mang tính trí tuệ để gắn kết các chủng tộc Mỹ với nhau. 12

Không chỉ phi lý khi tin rằng một ý tưởng trừu tượng có thể thực hiện một chức năng xã hội lớn như vậy, mà nó còn phản đối mạnh mẽ tất cả những gi chúng ta biết về Jefferson lịch sử để biến ông thành một người ủng hộ bình đẳng chủng tộc hay lý tưởng đa chủng tộc ngày nay. Ông tuyệt đối tin tưởng vào tính ưu việt Anglo-Saxon da trắng, giống như một vài nhân vật hàng đầu khác của thế hệ cách mạng. Hơn nữa, ông rời khỏi con đường của mình để xác định sự khác nhau giữa các chủng tộc chính là sản phẩm của tự nhiên chứ không phải nuôi dưỡng. Martin Luther King, Jr., đã đúng khi trinh bày bài phát biểu “Tôi có một giấc mơ” trên những bậc thang của Đài tưởng niệm Lincoln, biến nó thành phiên bản mở rộng của Lincoln từ phiên bản gốc về triết học quyền tự nhiên của Jefferson nhằm mở rộng thông điệp để bao gồm cả người da đen. Mặc dù hợp lý khi gọi Jefferson là kẻ thù của chế độ nô lệ, ngay cả khi có bằng chứng cho thấy cuộc đời ông mâu thuẫn với mệnh lệnh logic trong tư tưởng ông, nhưng đó là sự bóp méo hoàn toàn cả cuộc đời và tư tưởng của ông nhằm miêu tả ông như một người cùng phe hội nhập chủng tộc.

Thứ hai, Jefferson đã trở thành nguồn sử liệu ưu việt cho các tổng thống và quan chức mong muốn tạo ra một thanh âm lạc quan cho tính ưu việt của các thể chế chính trị Mỹ cùng những lý tưởng và nhân vật được sắc phong trước cả chiến thắng cuối cùng của mình. Thực tế, có thể tập hợp hàng loạt câu trích dẫn của Jefferson để ủng hộ hình thức lạc quan nhất của lòng yêu nước. Chẳng hạn như Chiến tranh Lạnh đã được tiến hành theo những tư tưởng đạo đức và nhị nguyên mạnh mẽ của Jefferson. Và không phi lý cũng không phi lịch sử khi tưởng tượng Jefferson mô tả sự sụp đổ của Liên Xô vào năm 1989 là đỉnh điểm của cuộc đấu tranh toàn cầu do các cuộc cách mạng Mỹ và Pháp khởi xướng, cuộc chiến kéo dài của những ý tưởng nhất định sẽ thay thế chế độ chuyên chế dựa trên áp bức cùng với chính phủ đại diện và nền kinh tế thị trường dựa trên sự đồng thuận chung và tự nguyện cá nhân.

Mặt khác, nó là sự lầm đường lạc lối và cuối cùng là sai lầm chết người khi đánh đồng sự lạc quan của Jefferson về kết quả của cuộc đấu tranh quốc tế, thường được mô tả hài hòa với sự bảo đảm may mắn, với tầm nhìn cụ thể hơn của ông về việc nước Mỹ là Thành phố Vĩnh cửu trên Đồi. Jefferson đã không tin tưởng, như Ronald Reagan từng tuyên bố rằng “ở Mỹ luôn là buổi sáng”. Đặc biệt khi về cuối đời, ông đã rất bi quan về khả năng tồn tại lâu dài của Mỹ mà ông đã góp phần tạo ra. Mặc dù sự thật ông là người đặc biệt trong thế hệ cách mạng theo cách ông mô tả những chân trời vô hạn của Mỹ, thậm chí Jefferson chia sẻ cùng những người đồng sáng lập với mình nhận thức thực tế rằng tất cả các quốc gia, trong đó có Mỹ, đều có tuổi thọ hữu hạn.

Vào năm 1829, Madison đã dự đoán Cộng hòa Mỹ sẽ tồn tại thêm 100 năm nữa, một dự đoán phải cân nhắc đến lời tiên tri kỳ lạ vào lúc bắt đầu cuộc Đại suy thoái. Adams dao động giữa những cảnh báo khải huyền rằng ngày tận thế đã rất gần và những dự đoán lạc quan hơn kéo dài đến một thế kỷ rưỡi nữa. Mặc dù một trong những đặc tính hấp dẫn nhất trong tư tưởng Jefferson là khả năng vượt ra khỏi bối cảnh lịch sử cụ thể của nó, nhưng Jefferson chia sẻ với các thành viên khác của thế hệ cách mạng niềm tin rằng tất cả các quốc gia đang lên cuối cùng cũng phải thất bại, thành công chính trị của Mỹ phụ thuộc vào hàng loạt điều kiện thuận lợi về xã hội, kinh tế và nhân khẩu học, chủ yếu là sự tồn tại của những vùng đất đai rộng lớn phía tây, cuối cùng sẽ chẳng còn nữa. Như Drew McCoy đã nói rất ngắn gọn, Jefferson hy vọng trì hoãn sự tàn phá không thể tránh khỏi của thời gian bằng cách mở rộng cuộc thử nghiệm của Mỹ trong không gian. (Chính sách Biên giới mới của John Kennedy thể hiện lực đẩy vào không gian như Jefferson dự kiến). Như chúng ta đã thấy, những điều kiện thuận lợi biến mất trong khoảng từ năm 1890 đến 1920, do đó toàn bộ bối cảnh chính trị của thế kỷ 20 ở Mỹ sẽ coi Jefferson là kẻ xa lạ, thật sự có triệu chứng thoái hóa của Mỹ cùng những gì ông coi là thói tham nhũng của Đế quốc Anh. Nói cách khác, nếu chúng ta muốn tái hiện Jefferson đứng trên đỉnh Bức tường Berlin và đi đầu cổ động cho sự phá hủy nó, chúng ta cũng phải hiểu rằng phiên bản chiến thắng của nền chính trị dân chủ và kinh tế tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỷ 20 không hề có trong tâm trí ông. 13

Hầu như tất cả những nhà bình luận len vào vùng hiếm trong việc theo đuổi di sản lâu đời của Jefferson cuối cùng đều đến đích khi tìm ra bản chất của nó trong phần quyền tự nhiên của Tuyên ngôn Độc lập và lý tưởng tự do cá nhân được tuyên bố hùng hồn trong đó. Vào đầu thế kỷ 20, Woodrow Wilson tìm kiếm sau những gì ông gọi là “Tinh thần Jefferson” và đã thấy trong đó “quyền cá nhân với một cơ hội tự do…” Vào cuối thế kỷ đó, Joyce Appleby tham gia vào cuộc tìm kiếm tương tự, cũng kết luận rằng “di sản lâu đời nhất của Jefferson cho chúng ta thừa hưởng một cách tự nhiên đã có một sự hiểu biết đặc biệt về quyền tự do con người”. Ở giữa vô số nhà hùng biện kiêm thông dịch viên này, các chính khách và học giả đã nghe một thanh âm tương tự, thường là một phần của một bài thánh ca yêu nước mà Jefferson đã chứng tỏ là một nguồn hữu ích cho các chiến dịch chống lại kẻ thù ngoại bang như Đức, Nhật Bản và Liên Xô, hoặc trong những cuộc nội chiến với các mục tiêu mâu thuẫn nhau như công đoàn và quyền lực doanh nghiệp, pháp chế phúc lợi và nghèo cố hữu, án tử hình và quyền được chết. Tài hùng biện của Jefferson về bản chất dung túng những thứ nhạt nhẽo và hổ lốn kiểu này. Rất khó trả lời tư tưởng thật của Jefferson kết thúc ở đâu và sự vô vị không thể bắt đầu trở thành một câu hỏi không lời đáp. 14

Rõ ràng, quan niệm riêng của Jefferson về tự do cá nhân hạn chế hơn so với những khái niệm hiện đại ngày nay. Cái nhìn của ông về căn bản là tiêu cực: tự do trước sự xâm phạm của nhà thờ hoặc nhà nước. Đó là tất cả đặc tính chống chính phủ của ông, và do đó không phù hợp với niềm tin hiện đại của chúng ta về các quyền lợi cá nhân, cho dù đó là tiêu chuẩn sống tốt, quỹ hưu trí xông xênh hoặc chăm sóc y tế đầy đủ, tất cả đều phụ thuộc chính xác vào loại hỗ trợ của chính phủ mà ông sẽ cho là xâm phạm. Khái niệm của ông là sự tự do riêng nó, có nhiều điểm chung hơn với những yêu sách của thế kỷ 20 về quyền riêng tư, so với những yêu sách gây hấn về quyền lực chính trị hay kinh tế. Ông thật sự có rất ít điều để nói về những cách tích cực mà người Mỹ nên sử dụng với tự do cá nhân của họ, mặc dù cuộc chiến tranh giành tài sản của thế kỷ 19, rồi sự theo đuổi của thế kỷ 20 đối với các mức độ tiêu thụ chưa từng có, chắc chắn sẽ bỏ lại ông với sự thất vọng về nhân dân mình.

Đối với tất cả những lý do đó, lời viện dẫn đương đại coi Jefferson là “môn đệ của tự do” luôn gây hiểu nhầm và có vấn đề. Tuy nhiên, mặc dù nội dung của ý tưởng đã thay đổi theo nhiều cách tốn kém kể từ thời của Jefferson, nhưng những gì không thay đổi và những gì giữ nguyên một di sản Jefferson thật sự mạnh mẽ là dạng thức đóng khung mọi cân nhắc về tự do cá nhân. Duy nhất trong số những nhà tư tưởng chính trị có ảnh hưởng của thế hệ cách mạng, Jefferson bắt dầu với giả định về chủ quyền cá nhân, sau đó nỗ lực phát triển các quy định giúp chính phủ bảo vệ tốt nhất các quyền cá nhân và giảm thiểu tác động của chính phủ hoặc quyền hạn của nhà nước đối với cuộc sống cá nhân. Cả Adams và Madison, thậm chí ở một mức độ lớn hơn là Hamilton, đều bắt đầu với giả định xã hội như một đơn vị tập thể, hiện thân của chính phủ, bản thân nó sau đó nên được thiết kế để tối đa hóa tự do cá nhân trong bối cảnh rộng lớn hơn của trật tự công cộng. Jefferson không lo lắng cho trật tự công cộng, tin như ông đã từng tin rằng các cá nhân được giải phóng khỏi tàn tích cuối cùng của áp bức phong kiến sẽ tương tác tự do với nhau để tạo ra sự hài hòa tự nhiên về lợi ích do những hình thức kỷ luật vô hình hoặc ngụy trang định hướng, như thị trường của Adam Smith. Như Adams đã cố gắng nói với ông qua thư từ vào những năm cuối đời họ, niềm tin này luôn là một ảo tưởng, nhưng nó là một ảo tưởng cực hấp dẫn, tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong những năm “cất cánh” ồn ào của nền kinh tế Mỹ vào thế kỷ 19, khi tăng trưởng kinh tế và địa lý tạo ra phiên bản riêng bát nháo của trật tự hỗn loạn. Mãi đến cuối thế kỷ 19, với sự kết thúc của vấn đề biên giới và xuất hiện sự bất bình đẳng kinh tế ồ ạt của Thời đại Hoàng kim, niềm tin này hoàn toàn bị vạch trần như một ảo tưởng.

Nhưng khi đó, việc Jefferson xây dựng tự do cá nhân như niềm tin gốc rễ và điểm khởi đầu đặc quyền trong tất cả các cuộc tranh luân chính trị là vô cùng cực đoan. Cũng như chính Jefferson được chuẩn bị để tạm thời từ bỏ nguyên tắc theo yêu cầu từ những cơ hội lớn (ví dụ như Vụ mua lại Louisiana) hoặc những cuộc khủng hoảng lớn (Đạo luật Cấm vận năm 1807), những người Mỹ của thế kỷ 20 chỉ sẵn sàng chấp nhận một tinh thần tập thể hơn khi bị Đại suy thoái hoặc kẻ thù ngoại bang trong Thế chiến Thứ hai và sau đó là Chiến tranh Lạnh đe dọa. Nhưng chủ quyền cá nhân vẫn là niềm tin ảnh hưởng đến các thế hệ sau và là nền tảng ý thức hệ cho toàn bộ tư tưởng chính trị chủ đạo sau khi các mối đe dọa rút đi. Nó tiếp tục đóng khung những đối thoại chính trị theo cách đặt tất cả kế hoạch và đề xuất chung cho những quyền chung, như hành động khẳng định, vào thế phòng thủ. Sau khi xem xét toàn bộ nền văn hóa dân chủ Mỹ, Robert Wiebe đã kết luận lý tưởng của Jefferson về “chế độ tự trị”, mặc dù mâu thuẫn về khái niệm, vẫn là niềm tin vĩnh cửu của hầu hết người Mỹ: “Cơ thể chủ yếu của sự chỉ trích đương đại lựa chọn chủ nghĩa cá nhân là lời nguyền đặc biệt của nền dân chủ Mỹ đơn giản xộc vào mặt lịch sử của nó. Bảo người Mỹ cải thiện dân chủ bằng cách thoải mái chìm vào cộng đồng, đánh mất mình trong một cuộc sống tập thể chỉ là lời kêu gọi trong gió. Chưa bao giờ nền dân chủ Mỹ không có mạch nguồn mạnh mẽ của chủ nghĩa cá nhân, và không dấu hiệu nào cho thấy sẽ là như thế”. 15 Dù tốt hay xấu, thảo luận chính trị Mỹ gọi theo cách của Jefferson là một cuộc trò chuyện về các cá nhân có chủ quyền, vốn chỉ miễn cưỡng và trong các trường hợp đặc biệt được chuẩn bị để giảm bớt chủ quyền đó vì những mục đích xã hội lớn hơn.

Cuối cùng, Jefferson đã tạo ra một phong cách lãnh đạo nhất định, phù hợp với các yêu cầu đặc biệt của nền văn hóa chính trị Mỹ có liên quan tới hai thế kỷ sau đó. Đó là một phong cách dựa vào khả năng thích ứng với những mâu thuẫn. Nếu bạn bắt đầu với niềm tin rằng trong trường hợp tốt nhất chính phủ là cái ác cần phải có, thì việc lãnh đạo chính trị hiệu quả phải gián tiếp và không đe dọa. Nó phải che đậy việc thực thi quyền lực khỏi dư luận, tỏ vẻ phục tùng và vô hại hơn thực tế. Nếu cũng có sự tách biệt cố hữu giữa những lý tưởng lập quốc (như tự do cá nhân, bình đẳng về cơ hội và chủ quyền của nhân dân) với các mệnh lệnh của chính phủ hiện hành, chúng đòi hỏi năng lực để ép buộc và thi hành kỷ luật đối với sự lưỡng lự và mềm yếu của trái tim, thì sự lãnh đạo hiệu quả, đặc biệt ở cấp điều hành, phải có khả năng lừa dối vô hại. Và nếu văn hóa chính trị quả quyết tiếp nhận quyền lực từ dư luận, theo định nghĩa được chia thành những câu hỏi gây tranh cãi về thời đại, thì sự lãnh đạo ít nhất phải tỏ ra tuân thủ, và mánh khóe tồn tại chính trị đòi hỏi kỹ năng sử dụng ngôn ngữ theo cách cho phép những cử tri khác nhau nghe thấy những gì họ được nghe.

Trong thế giới thống nhất và chuyên môn quân sự, nước Mỹ cuối thế kỷ 20 không cho phép phong cách lãnh đạo trực tiếp hơn, dễ thấy hơn, dễ nắm bắt hơn. Nhưng trong lĩnh vực chính trị, chính quyền vẫn bị hạn chế gắt gao và phải đạt được mục đích cuối cùng theo cách ngấm ngầm hơn. Truyền hình chỉ gia tăng môi trường lừa gạt; ngay lập tức, các kỹ thuật thăm dò chính xác hơn chỉ khuếch đại ảnh hưởng của dư luận. Quy mô chính phủ tăng trưởng theo cấp số nhân trong suốt thế kỷ, đồng thời thái độ thù địch với chính phủ theo phong cách Jefferson ảnh hưởng đến những góc văn hóa sâu nhất, khiến nghịch lý có giá trị cao hơn bằng cách tăng sức hấp dẫn của các ứng viên chính trị, như Jefferson năm 1800, tuyên bố chán ghét chính phủ liên bang mà họ đang vận động để đứng đầu.

Jefferson không tự giác tìm đến phong cách này, không trau dồi nhân cách của mình cho phù hợp với các yêu cầu của lãnh đạo nhân dân trong nền văn hóa chính trị vốn dĩ đã nghi ngờ chính phủ. Phong cách này đến với ông một cách tự nhiên. Việc ông phản kháng đời sống chính trị là hoàn toàn chân thành. Nếu ông được đầu thai và được để nghị chạy đua vào chính trường trong thời đại chúng ta, ông gần như chắc chắn sẽ khước từ để nép mình trong sự yên tĩnh của Monticello. Nhưng với khí chất và thiên hướng của mình, ông sở hữu sự lanh lợi bên trong để tạo ra nhiều sự diễn tả của sự thật, kỹ năng hùng biện để đề xuất những chính sách lọt tai nhiều đối tượng khác nhau, sự quanh co khó lường chỉ có thể có trong một kẻ mơ mộng tận tụy, ác cảm thẳng thắn với quyền lực mà ông thật sự theo đuổi. Đây vẫn là những tài năng chính trị vô giá. Và sự đơn giản trong nền tảng đạo đức của tầm nhìn Jefferson chỉ gia tăng tầm ảnh hưởng chính trị khi quy mô cử tri Mỹ phát triển lớn hơn và khó chi phối hơn. Nếu chúng ta có thể thuyết phục ông chạy đua tranh cử, ông sẽ vẫn là một ứng viên đáng gờm cho chức vụ quốc gia.