PHẦN IV XXXVII
Vậy là, chúng ta sẽ cứu được một người, nếu bắt anh ta yêu cái ác phần nào ít đi so với những khi anh ta đã từng yêu nó; như thế là chúng ta đã giúp anh ta bắt tay vào việc xây nên trong cõi sâu thẳm của tâm hồn một nơi cư trú, mà vào đó số phận sẽ làm yếu đi vũ khí của mình. Nơi cư trú này sẽ là công trình bất hủ hoặc là của nhận thức, hoặc là của tình yêu - nó là gì thì cũng đâu có quan trọng, vì tình yêu là sự nhận thức vẫn còn đang đi tìm bản thân mình trong bóng tối, trong khi đó sự nhận thức chân chính là một tình yêu rốt cuộc đã tìm thấy bản thân mình trong ánh sáng, tâm hồn đã nhóm lên ngọn lửa vui bên trong mình, nơi sâu thẳm nhất của chốn cư trú ấy. Niềm vui sướng của tâm hồn xua đi nỗi buồn mà số phận ác nghiệt để lại sau mình, giống như ngọn lửa tự nhiên diệt trừ đi ảnh hưởng của bệnh tật trên khắp trái đất, - niềm vui sướng này của tâm hồn không giống như các niềm vui khác. Nó không phải là kết quả của sự thành công bên ngoài, cũng chẳng phải là sự tự ái hả hê, bởi ẩn dưới sự hả hê của lòng tự ai sẽ giảm bớt đi theo mức độ hoàn thiện của tâm hồn là niềm vui sướng của một tình yêu thuần khiết lớn lên theo mức độ tâm hồn hở nên cao thượng hơn. Không, niềm vui sướng này sinh ra chẳng phải do sự cao ngạo, và tâm hồn cảm thấy mình hạnh phúc chẳng phải vì nó có thể mãn nguyện với sắc đẹp của mình. Đúng là một tâm hồn đã hiểu được mình ở một mức độ nào đó có quyền biết rằng, nó tuyệt vời. Nhưng tất cả những gì mà nó quá xăng xái gán thêm cho cái nhận thức về vẻ đẹp, thì chưa biết chừng nó lại làm cái việc ngắt bỏ đi tình yêu vô thức. Nghĩa vụ đầu tiên của cái nhận thức phát hiện ra bản thân mình là dạy chúng ta tôn trọng cái vô thức còn chưa muốn hiển lộ. Nhưng niềm vui mà tôi nói đến ấy không lấy đi của tình yêu cái mà nó bổ sung thêm cho nhận thức. Trái lại, chỉ có ở trong nó thôi sự nhận thức mới được nuôi dưỡng bằng tình yêu, khi mà tình yêu đang tăng thêm nhờ nhận thức. Một tinh thần đang hoàn thiện sẽ nếm trải những niềm vui không thể thấu đạt được đối với cái thể xác hạnh phúc; nhưng một tâm hồn khi nó trở nên tuyệt vời hơn sẽ nếm trải những niềm vui, mà không phải lúc nào cũng dễ tiếp thụ với một tinh thần đang hoàn thiện. Đúng thật là, một tinh thần đang hoàn thiện, và một tâm hồn đang trở nên tuyệt vời hơn thường cùng chung tay gia cố cho tòa nội tâm. Nhưng cũng có khi chúng hành động riêng rẽ, và vì thế hai khu được chúng dựng lên không liên kết với nhau. Nếu như xảy ra tình huống như thế, và một người mà tôi yêu mến nhất trên đời đến xin tôi một lời khuyên nên lựa chọn như thế nào và nơi nào trong hai nơi cư trú ấy sâu sắc, kiên cố, vui hơn, thì tôi có lẽ sẽ khuyên anh ta cho số phận của mình trú ngụ trong tâm hồn đang vươn tới sự hoàn thiện.
XXXVIIIChúng ta sẽ hỏi: phải chăng nhà thông thái sẽ không bao giờ đau khổ? Chẳng có một cơn giông tố nào sẽ làm u ám vòm trời bao trùm cuộc đời ông ta? Sẽ chẳng có ai đi giăng lưới trước ông ta bao giờ? Vợ và bạn bè ông ta không bao giờ phản bội ông ta? Cái mà ông ta coi là cao cả chẳng bao giờ là thấp kém? Cha mẹ ông ta, con cái ông ta, anh em của ông ta sẽ chẳng bao giờ chết như những người khác? Mọi con đường mà theo đó nỗi buồn thâm nhập vào trong con người chúng ta có luôn luôn được các thiên thần bảo vệ hay không? Nhưng phải chăng Chúa Ki tô không từng khóc trước ngôi mộ của Lazare? Và phải chăng Marc-Aurèle không đau khổ giữa một bên là Commode, đứa con trai đã lộ rõ là một con thú, và một bên là Faustine, người vợ mà ông yêu thương, nhưng lại chẳng yêu ông? Và phải chăng Paul-Émile, một người cũng thông thái đến thế, như Timoléon, không nức nở dưới bàn tay của định mệnh, khi con trai cả của ông đã chết 5 ngày trước cuộc tiến về thành Rome ca khúc khải hoàn, còn đứa con trai nhỏ thì chết 3 ngày sau đó? Sự cứu vớt của nơi cư trú mà sự thông thái dành cho hạnh phúc nằm ở đâu? Chúng ta có nên chăng gạch xóa đi mọi điều đã nói trước đây, và liêt sự thông thái vào cùng một loại như mọi ảo tưởng khác - những ảo tưởng mà tâm hồn con người cố thử dùng để biện hộ trước con mắt của lý trí cho những nỗi niềm mong ước của mình, mà kinh nghiệm hầu như lúc nào cũng công nhận là phi lý?
XXXIXTrong thực tế nhà thông thái cũng biết đến những khổ đau. Ông ta đau khổ, và những nỗi đau khổ trở thành một trong các nhân tố của sự thông thái.
Ông ta, có lẽ, thậm chí còn đau khổ hơn những người khác, vì bản chất của ông ta phức tạp hơn. Ông ta đau khổ hơn, vì một người càng ít cô đơn hơn, thì “càng đau khổ nhiều hơn, và một người càng thông thái hơn, thì càng ít cảm thấy hơn rằng ông ta cô đơn. Ông ta đau khổ trong thể xác của mình, trong con tim mình và trong tinh thần của mình, vì có những phần của thể xác, con tim, và tinh thần mà bất cứ một sự thông thái nào trên thế gian cũng không thể chiếm lại được từ số phận. Vì thế vấn đề bàn đến không phải là để làm sao tránh được đau khổ, mà là sao tránh được sự buồn chán và những xiềng xích mà nỗi đau khổ bắt người ta đón nhận nó như vị chúa tể, chứ không phải như một người đưa tin được một ai đó gửi đến, một nhân vật quan trọng hơn và còn chưa xuất hiện trong tầm nhìn của chúng ta sau khúc ngoặt của con đường. Không còn nghi ngờ gì nữa, nhà thông thái, cũng như người hàng xóm của ông ta, sẽ bật dậy khỏi ghế, bị khua dậy bởi những tiếng gõ cửa rầm rầm của người đưa tin làm rung chuyển cả ngôi nhà của ông ta. Nhà thông thái buộc phải ra đón người đưa tin, phải nói chuyện với anh ta, nhưng khi nói chuyện với anh ta, nhà thông thái sẽ nhiều lần hướng cái nhìn ra xa, qua bờ vai của nỗi bất hạnh trong sớm mai, để nhận ra trong lớp bụi nơi chân trời xa một tư tưởng lớn lao, có lẽ, bị nỗi bất hạnh vượt đến trước, về thực chất, nếu nghĩ đến điều này vào những phút giây hạnh phúc, thì cái ác mà định mệnh có thể bất ngờ khiến chúng ta kinh ngạc dường như là một cái gì đó chẳng mấy quan trọng với chúng ta. Tôi nhất trí thừa nhận rằng, khi cái ác đã xuất hiện, thái độ sẽ thay đổi. Nhưng tuy nhiên, có một điều hiển nhiên là nếu như nó muốn dập tắt trong con người chúng ta nguồn lửa dũng cảm thường trực, thì nó sẽ phải hoàn toàn làm ô danh ở nơi sâu thẳm trong trái tim chúng ta tất thảy những gì chúng ta yêu quý, tất thảy những gì chúng ta lấy làm lạ, tất thảy những gì chúng ta tôn sùng. Và có chăng một sức mạnh ngoại giới nào đó sẽ có một lúc nào đó làm ô uế được tình cảm hay tư tưởng, nếu bản thân chúng ta không làm việc này? Ngoại trừ những đau khổ về thể chất, phải chăng có một nỗi đau khổ nào đó có thể chiếm lấy con người chúng ta theo một cách khác, nhờ sự trợ giúp của chính những suy nghĩ của chúng ta? Và ai chính là người cung cấp cho những suy nghĩ của chúng ta vũ khí để chúng có thể hoặc là tấn công, hoặc là bảo vệ chúng ta? Chính đau khổ gây nên ít nỗi đau cho chúng ta thôi, nhưng chúng ta đau khổ khôn nguôi phụ thuộc vào việc chúng ta tiếp nhận đau khổ như thế nào. “Anh ta bất hạnh do lỗi của chính mình, - Anatole France nói, khi kể về một trong những người chẳng bao giờ nhìn qua vai của người đưa tin thô bạo, - anh ta bất hạnh do lỗi của chính mình, bởi mọi nỗi bất hạnh đích thực đều là nỗi bất hạnh nội tâm và do chúng ta tự gây nên. Chúng ta sai lầm, khi nghĩ rằng, chúng đến từ bên ngoài. Chúng ta tạo nên chúng trong bản thân mình từ bản chất riêng của chúng ta”.
XLSức mạnh hữu hiệu của các biến cố chỉ phụ thuộc vào việc chúng ta nhìn nhận biến cố này dưới quan điểm nào. Tập hợp cả 10 người, giống như Paul-Émile, bị mất đi hai đứa con trai của mình vào giờ phút vui mừng nhất của đời mình, và bạn sẽ có 10 nỗi buồn khổ chẳng giống nhau. Nỗi bất hạnh thâm nhập vào chúng ta, nhưng nó thực hiện chỉ cái việc mà nó được ra lệnh. Nó gieo rắc, nó tàn phá, nó thu hoạch vụ mùa theo mệnh lệnh, mà nó nhận thấy được viết nơi ngưỡng cửa nhà chúng ta. Nếu hai đứa con trai của người hàng xóm của tôi, - một người tầm thường, - chết vào đúng cái ngày số phận thực hiện mọi mong ước của người cha của chúng, thì mọi chuyện sẽ diễn ra trong tăm tối, không có một tia lửa nào bùng lên, và nỗi đau khổ tự thân hầu như bị bao phủ bởi sự buồn chán sẽ để lại sau mình chỉ là một nhúm tro tàn vô vị. Tôi không cảm thấy cần phải đến thăm hỏi người hàng xóm của mình. Tôi sớm biết trước mọi tình cảm nhỏ mọn đem đau buồn cho anh ta, bởi đau buồn trả lại cho chúng ta chỉ cái gì mà tâm hồn chúng ta tin tưởng giao cho nó vào những tháng ngày hạnh phúc.
XLINhưng đó cũng chính là nỗi đau khổ đã khiến Paul-Émile sững sờ. Thành Rome kinh hoàng còn tràn ngập âm hưởng của cuộc diễu hành chiến thắng chờ đợi trong sợ hãi. Điều gì sẽ xảy ra? Phải chăng thánh thần đang thách thức nhà thông thái, và nhà thông thái sẽ đáp lại thánh thần ra sao? Người anh hùng chiến thắng nỗi đau khổ như thế nào, hay nỗi đau khổ chiến thắng người anh hùng như thế nào? Vào những thời khắc như thế nhân loại dường như hiểu được rằng, số phận một lần nữa thử sức mạnh bàn tay của mình, và có một điều gì đó sẽ thay đổi với nhân loại, nếu bàn tay này không thể làm chấn động cái bị nó giáng đòn. Và bạn hãy nhìn xem, trong những tình huống tương tự nhân loại lo âu thế nào tìm trong cặp mắt các lãnh tụ của mình một khẩu hiệu chống lại cái sức mạnh vô hình.
Nhưng đây, Paul-Émile phát biểu trước người dân thành Rome được ông triệu tập. Ông vẫn giữ dáng vẻ trang trọng và hướng đến với người dân bằng những lời thế này: “Tôi chưa bao giờ cảm thấy sợ hãi trước điều gì đến từ con người. Còn liên quan đến những gì do thánh thần giáng xuống, thì tôi sợ hơn cả là sự cực kỳ vô thường của số phận và sự đa dạng vô cùng của những đòn đánh của nó. Trong suốt cuộc chiến này tôi đặc biệt sợ, khi số phận, đúng nhu cơn gió thuận chiều, trợ giúp cho mọi việc khởi sự của tôi. Từng khoảnh khắc tôi chờ đợi rằng, nó làm sụp đổ hạnh phúc của tôi và giông tố giáng xuống. Phải, đúng một ngày tôi vượt qua biển Ionienne từ Brindes đến Corsyre, còn từ Corsyre tôi đến ngày thứ năm mới cập vào Delphes, nơi tôi cúng tế thần Apollon. Qua 5 ngày nữa, và chúng tôi tiến vào Macedoine, nơi tôi thực hiện nghi lễ thanh tẩy với quân đoàn như phong tục đã định. Sau đó tôi gấp rút tiến hành cuộc chiến, và 15 ngày sau tôi đã kết thúc cuộc chiến một cách tốt đẹp bằng một trong những chiến thắng lừng lẫy nhất. Việc thành công nối tiếp thành công một cách nhanh chóng này gây nên trong tôi sự ngờ vực hoàn toàn dễ hiểu đối với số phận. Bình tĩnh đối với mọi kẻ thù và trong khi không chờ đợi từ phương diện này bất cứ một mối hiểm nguy nào, thì tôi lại sợ rằng, sự vô thường của nữ thần sẽ thể hiện trên đường về của chúng tôi, khi tôi dẫn đầu quân đoàn xiết bao vui mừng thắng lợi như thế, chở về vô số chiến lợi phẩm và những ông vua bị bắt làm tù binh. Nhưng, sau khi về đến đây, không có lấy một sự rủi ro nhỏ nhất nào và thấy thành phố ngập tràn niềm vui giữa những buổi tiệc tùng và tế lễ, nhưng tôi vẫn tiếp tục lo sợ định mệnh. Tôi biết rằng, nó chẳng dành cho chúng ta một ân huệ nào của mình mà không trộn lẫn với khổ đau, và sự ghen ghét của nó đi kèm với tất cả những thành công vĩ đại của chúng ta. Tâm hồn tôi tràn đầy nỗi lo lắng dằn vặt này và những nỗi sợ hãi cho tương lai của La Mã, và nó thoát khỏi nỗi sợ hãi khi gia đình riêng của tôi đã chết trong một vụ sập đổ kinh hoàng, khi vào những ngày thiêng liêng này tôi buộc phải tự tay mình lần lượt chôn cất hai đứa con trai của mình - những đứa con đã từng đem lại biết bao hy vọng sáng láng đến thế, những đứa con duy nhất mà tôi đã dự tính là người kế tục mình. Giờ đây tôi không còn lo sợ những mối nguy hiểm nghiêm trọng nào nữa và tin chắc rằng, hạnh phúc của các bạn sẽ bền vững dài lâu. Số phận đã trả thù đủ cho những thành công của tôi bằng những nỗi bất hạnh mà nó giáng xuống chính tôi. Ở người chiến thắng cũng như ở kẻ tù binh bị lôi đi sau lễ khải hoàn, số phận đã có thể cho thấy một ví dụ giống nhau đến lạ lùng về sự yếu đuối của con người, chỉ khác một điều là, Persée bại trận vẫn còn những đứa con của ông ta, trong khi đó tôi Paul-Émile đã mất những đứa con của mình”.
XLIIMột người La Mã đã đón nhận một trong những nỗi bất hạnh khủng khiếp nhất như thế đó - những nỗi bất hạnh chỉ có thể xảy đến với con người vào phút giây anh ta nhạy cảm nhất với những khổ đau, tức là vào phút giây hạnh phúc lớn nhất của anh ta. Liệu có hay không những phương cách khác? Có đấy, trên thế gian có biết bao những suy nghĩ và tình cảm cao thượng, thì có bấy nhiêu phương cách đón nhận khổ đau. Và mỗi một tình cảm trong số này, mỗi một suy tư trong số này đều được trang bị một cây đũa thần làm thay đổi y phục và diện mạo của những nỗi đau khổ đến ngưỡng cửa nhà chúng ta. Job sẽ nói: “Chúa ban phát, Chúa lấy đi - sáng danh Đấng Thánh linh nguyện phước muôn đời”, còn Marc-Aurèle thì nói: “Nếu tôi không còn được yêu nữa những người tôi đã từng yêu thương nhất, thì điều này rõ ràng là để dạy tôi yêu những người mà cho đến giờ tôi yêu chưa đủ đầy”.
XLIIITuy nhiên, cũng không nên nghĩ rằng, như thế là họ an ủi bản thân mình bằng những lời sáo rỗng, và tất cả những lời nói này là hành động che giấu rất dở cho vết thương, vết thương càng đau đớn thì họ càng muốn che giấu kỹ hơn. Trước hết an ủi mình bằng những lời sáo rỗng còn tốt hơn là chẳng hề biết an ủi. Rồi nữa, nếu cho rằng, tất cả những lời nói ấy chỉ là ảo tưởng, thì đồng thời cũng nên công bằng mà cho rằng, ảo tưởng là cái lợi ích duy nhất tâm hồn có thể sở hữu, bởi lẽ vì một ảo tưởng nào khác nữa đây mà chúng ta có thể cho mình cái quyền coi thường những ảo tưởng?
Tất nhiên, tất cả những nhà thông thái vĩ đại mà tôi kể đến khi chiều xuống trở về ngôi nhà trống vắng của mình và thấy nơi bếp lửa không còn những đứa con của họ ngồi nữa, họ phần nào hiểu ra nỗi đau khổ mà có những người đã nếm trải trọn vẹn - những người mà nỗi đau khổ chẳng đem theo mình một suy nghĩ cao thượng nào cho họ. Chúng ta có thể hạ thấp một suy nghĩ tuyệt vời hay một tình cảm tuyệt vời bằng việc gán cho chúng cái sức mạnh mà chúng không có. Có những dòng nước mắt trào ra mà chúng chẳng thể làm khô được, có những giờ phút thiêng liêng khi sự thông thái còn chưa [cất lời] an ủi. Nhưng, xin nói một lần chót rằng, vấn đề chúng ta bàn đến không phải là làm thế nào để tránh được đau khổ, bởi sẽ không thể mãi mãi tránh khỏi đau khổ. Vấn đề bàn đến là lựa chọn gì trong những cái mà đau khổ đem đến cho chúng ta. Người ta, có lẽ, sẽ nói rằng sự lựa chọn cái mà con mắt chúng ta không thấy được này là một việc chẳng có mấy giá trị, không thể loại bỏ nổi một nỗi đau khổ nào trong những đau khổ mà nguyên nhân của chúng luôn luôn nhãn tiền. Nhưng chẳng phải mọi niềm vui tinh thần của chúng ta, - chúng sâu sắc hơn ngàn vạn lần tất cả các niềm vui thể xác và trí tuệ của chúng ta, - cũng bao gồm những điều chẳng mấy quan trọng ở dạng này hay sao? Nếu chúng ta chuyển thành lời cái tình cảm đã thúc đẩy người anh hùng đến với hành động cao thượng, thì thật sự chúng ta sẽ thấy nó là một điều chẳng có mấy giá trị. Cũng chẳng mấy quan trọng cái tư tưởng mà Caton Trẻ đặt ra cho mình về nghĩa vụ, nếu chúng ta so sánh tư tưởng này với tình trạng loạn lạc bao trùm toàn bộ đế quốc và với cảnh chết chóc đẫm máu mà nó kéo theo mình. Nhưng, tuy nhiên, [tư tưởng] này chẳng phải là một điều trọng đại hơn sự loạn lạc ấy, và vươn cao hơn sự chết chóc do nó gây nên hay sao? Hay phải chăng ngày nay Caton không còn đúng nữa? Có chăng một cuộc đời của ai đó khác, nhờ tư tưởng xa lạ với lý trí của con người, thậm chí đến độ anh ta không thể tự mình đánh giá nổi, có hay chăng một cuộc đời của ai đó khác hạnh phúc sâu sắc hơn, cao thượng hơn cuộc đời của Caton?
Tất thảy hhững gì nâng cao phẩm giá cho cuộc sống của chúng ta, tất thảy những gì chúng ta tôn trọng trong chính bản thân mình, những nguyên cớ cho phẩm hạnh của chúng ta và những giới hạn do ý thức quy định mà mỗi người cho là các tật xấu của mình và thậm chí là tội ác của mình; - tất cả những điều này thực sự có vẻ như chẳng mấy quan trọng khi lý trí đòi hỏi chúng ta phải tường trình. Tuy nhiên, chính đây lại là những quy luật chỉ đạo cuộc đời mỗi người trong chúng ta. Và ai có thể sống mà không tuân theo nhiều chân lý trong số những chân lý không phục tùng lý trí? Tất cả, không loại trừ cả những kẻ tội lỗi nhất, đều tuân theo một trong những chân lý này, và số chân lý mà người ta phải tuân theo càng nhiều, thì con người càng ít tội lỗi hơn. Một kẻ sát nhân sẽ nói với bạn: đúng, tôi đã giết người, nhưng tôi không trộm cắp. Một kẻ trộm cắp sẽ nói rằng hắn trộm cắp, nhưng không phải là kẻ phản bội, còn kẻ phản bội sẽ nói hắn không phản bội anh em mình. Vậy là, bất kể một ai cũng sẽ trốn tránh sau cái vẻ đẹp đạo đức cuối cùng còn sót lại ở anh ta. Ở một kẻ sa ngã hơn tất cả mọi người sẽ luôn còn lại trong tâm hồn một nơi chốn thiêng liêng, một cái gì đó giống như nơi ẩn trú, nơi anh ta tìm thấy nguồn nước tinh khiết, nơi anh ta kiếm tìm nguồn sức lực cần thiết để tiếp tục sống. Và trong vấn đề này cũng như trong mọi vấn đề khác, nguồn an ủi chẳng phải là cái lý trí cũng phải dừng bước trước ngưỡng cửa nơi ẩn trú cuối cùng của một kẻ trộm cắp hay phản bội, như nó đã dừng bước trước ngưỡng cửa của sự dâng hiến của Antigone, sự khuất phục nơi Job, hay tình yêu của Marc-Aurèle. Lý trí đứng bất động, không còn hiểu được gì hơn nữa, chẳng tán dương gì nữa, và chẳng những thế nó cảm thấy nếu như nó nổi giận, thì cơn giận của nó có lẽ sẽ nhằm chống lại nguồn sáng mà bản thân nó chỉ là cái bóng lồ lộ của nguồn sáng ấy, bởi giữa những nguồn sức mạnh này lý trí giống như một người đang đứng trong ánh dương quang rực rỡ. Anh ta thấy cái bóng của mình đổ dài dưới chân anh ta; anh ta có thể bắt nó tiến lên hoặc lùi lại, anh ta có thể thay đổi hình dạng của nó, co gập lại hoặc duỗi thẳng ra, song cái bóng này là cái duy nhất anh ta làm chủ, nắm giữ, có thể ra lệnh trong ánh sáng chói lòa bao quanh anh ta. Và lý trí của chúng ta cũng chuyển động đúng như thế trong ánh sáng của nguồn sáng cao cả nhất, và cái bóng nó đổ xuống chẳng có bất cứ một ảnh hưởng nào đến nguồn sáng bất di bất dịch này. Khoảng cách giữa Marc-Aurèle và kẻ phản bội có lớn đến đâu chăng nữa, thì cả hai tìm kiếm cùng một nguồn nước thần bí đem lại sự sống cho tâm hồn họ, và nguồn nước này chẳng nằm ở lý trí.
Đáng ngạc nhiên là, toàn bộ đời sống đạo đức của chúng ta chẳng phải ở nơi có lý trí, và người nào chỉ sống theo lý trí, thì anh ta sẽ là kẻ đáng thương nhất. Chẳng có một đức hạnh nào, chẳng có một hành động tốt đẹp nào, chẳng có một suy nghĩ cao thượng nào mà toàn bộ gốc rễ của chúng hầu như chỉ mọc ở phía có thể hiểu được và giải thích được. Tuy nhiên, lòng kiêu hãnh của con người dường như lại đòi hỏi toàn bộ đức hạnh, toàn bộ đời sống nội tâm, toàn bộ niềm vui phải nằm trong một nguồn sức mạnh duy nhất được anh ta thực sự nắm giữ, nguồn sức mạnh duy nhất mà anh ta có thể hoàn toàn trông cậy vào nó, - tức là sức mạnh của lý trí. Nhưng, dường như anh ta có cố gắng thế nào để vươn tới nó, thì một biến cố nhỏ nhất của cuộc sống mau chóng cho anh ta thấy rằng, nơi ẩn trú cần phải tìm kiếm chẳng ở nơi lý trí, bởi hiển nhiên rằng, chúng ta là một cái gì đó khác chứ không phải đơn thuần là một sinh thể có lý trí.
XLIVNhưng nếu chẳng phải lý trí của chúng ta thực hiện việc lựa chọn cái gì mà đau khổ đem lại cho chúng ta, thì ai sẽ làm đây? Cái quá khứ tạo nên tâm hồn chúng ta sẽ thực hiện việc lựa chọn này. Không thể trong một ngày vừa gieo, vừa thu hoạch trái quả thông thái. Nếu tôi không sống như Paul-Émile, thì chẳng một suy nghĩ nào trong số những suy nghĩ đã từng an ủi ông se an ủi tôi, dẫu tất cả các nhà thông thái trên thế giới cùng đồng lòng không ngừng nhắc lại chúng cho tôi. Các thiên thần đến để làm khô những giọt nước mắt của chúng ta sẽ tiếp nhận đúng đường nét và hình ảnh của điều mà chúng ta nói, cái mà chúng ta nghĩ, và đặc biệt là việc mà chúng ta làm trước lúc tai biến. Khi Thomas Carlyle thông thái, tuy đang đau ốm, bị mất đi Jeannie Welsh, người vợ đã 40 năm chung sống, - người mà ông hết mực yêu thương, - nỗi buồn của ông với độ chính xác không thể tin nổi đã đón nhận các dạng thức tình yêu của họ trong quá khứ. Và chính vì thế mà nó trang trọng, vô biên, đau đớn đấy, nhưng đồng thời cũng an ủi, vô hạn trong những trách cứ của mình, trong sự dịu dàng của của mình, trong những thở than của mình, như lời cầu nguyện hay suy tư trên bờ biển mịt mờ. Trong những nỗi đau khổ nơi con tim chúng ta hình ảnh tổng hợp của tất cả những ngày đã qua của chúng ta sẽ được tái tạo lại với một sự chính xác đầy thú vị hay vui thú độc địa. Và nếu những hồi ức của cuộc đời tôi bị mất đi sự cao thượng và ánh sáng, thì vào phút giây, nó luôn sẽ đến, khi những hồi ức của tôi biến thành những giọt lệ, thì những giọt lệ này cũng bị mất đi sự cao thượng và ánh sáng. Những giọt nước mắt của chúng ta tự thân chúng là trong suốt để có thể phản ánh quá khứ của tâm hồn chúng ta, và cái mà chúng phản ánh tạo nên hình phạt cho chúng ta hay phần thưởng cho chúng ta. Chỉ có một cái duy nhất trên đời không bao giờ biến thành sự đau khổ - đấy là việc thiện mà chúng ta thực hiện. Khi chúng ta bị mất đi người thân yêu, sự hồi tưởng về những phút giây khi chúng ta yêu người ấy chưa đủ đầy buộc chúng ta rơi những giọt lệ, nhưng chúng chẳng đem lại sự thanh thản. Nếu chúng ta thường xuyên nở nụ cười với người đã giã từ chúng ta, thì từ nỗi buồn của mình chúng ta sẽ chẳng tìm thấy nổi một cái gì thấp kém, và chúng ta sẽ rơi những giọt lệ giữ lại được phần nào sự dịu dàng của những tình cảm trìu mến và những phẩm hạnh được nhớ lại. Bởi kỷ niệm về một tình yêu đích thực - một trong những hành động đức hạnh hàm chứa trong mình mọi cái còn lại - sẽ làm chúng ta rơi những giọt lệ hạnh phúc đúng hệt như những giờ phút gợi nên những kỷ niệm này. Chẳng có một cái gì lại công bằng như sự đau khổ. Và toàn bộ cuộc đời của chúng ta chờ đợi giờ phút nó đến như cái khuôn đúc chờ mong đồng nung chảy để trả cho chúng ta một sự trả công xứng đáng.
XLVVà ở đây, ở chính cái trụ vững chắc đỡ cho ngôi cao của số phận chúng ta, [số phận] thấy quyền lực của nó mới hạn chế biết bao với những người hoàn thiện hơn số phận. Số phận tồn tại cho đến lúc nào còn tình trạng man rợ. Nó không sánh bằng nhiều người về sự phát triển. Nó chọn lựa vũ khí của mình trong cuộc sống thông thường, và thứ vũ khí này đã lỗi thời. Nó tấn công chúng ta từ bên ngoài như đã từng tấn công vào thời Oedipe. Nó buông rơi mũi tên ngay trước mặt mình như một cung thủ mù. Chính khi những mũi tên này cần hướng lên cao đôi chút để trúng đích, thì chúng lại bất lực rơi ngay xuống đất. Những nỗi đau khổ, những lời thở than, những giọt nước mắt, nỗi buồn, - những tên gọi tương tự nhau ấy mang bản chất khác biệt. Nếu như chúng ta muốn thâm nhập vào tinh thần của những từ này, thì sẽ nhận thấy rằng, chúng ta chỉ đặt tên cho dấu tích của những sự lầm lạc của mình. Và ở đâu những sự lầm lạc của chúng ta cao thượng, - bởi có những lầm lạc cao thượng, cũng như có những phẩm hạnh nhỏ mọn, - thì ở đó nỗi đau khổ của chúng ta sẽ giống với hạnh phúc đích thực hơn là hạnh phúc của những người đã từng hạnh phúc, song đã không nhân lên được nhận thức của mình. Phải chăng bạn nghĩ rằng Carlyle đồng ý đánh đổi nỗi đau khổ bung nở trong tâm hồn mình như một bông hoa khổng lồ dịu dàng để lấy cái hạnh phúc vợ chồng đã bị mất đi viễn cảnh và ánh sáng của một trong những người hàng xóm hạnh phúc nhất của ông ở Chelsea? Và phải chăng nỗi buồn của Ernest Renan bị mất đi Henriette người chị gái của mình thì có vui thú gì hơn cho tâm hồn khi so với hàng ngàn người không phải chịu nỗi buồn thương, chẳng yêu thương chị em gái của mình? Ai xứng đáng với sự thương cảm hơn, người chiều chiều khóc trên bờ biển vô bờ, hay người cả đời vô cớ cười sướng trong căn phòng chật hẹp của mình? “Hạnh phúc, đau khổ” - nếu như chúng ta có thể một phút thôi rời khỏi chính bản thân mình và nếm trải nỗi buồn của người anh hùng, thì liệu có nhiều người trong chúng ta chẳng hề tiếc nuối gì quay trở lại với cái hạnh phúc cỏn con của mình hay không?
Vậy thì, có thể cho rằng vấn đề, - hạnh phúc hay đau khổ, ngay cả khi nó đến từ bên ngoài chăng nữa, thực chất chỉ tồn tại trong chính bản thân chúng ta, - đã được chứng minh? Tất thảy những gì xung quanh chúng ta sẽ trở thành thiên thần hay quỷ dữ là tùy theo bản chất của con tim chúng ta. Jeanne d’Arc nghe thấy tiếng của các vị thánh, còn Macbeth nghe thấy tiếng của quỷ ngạ, nhưng cả hai nghe thấy chỉ cùng một tiếng nói thôi. Cái định mệnh mà chúng ta sẵn sàng than khóc đến thế, có lẽ, hoàn toàn không phải là cái mà chúng ta nghĩ. Nó chẳng có một thứ vũ khí nào khác ngoài cái mà tự chúng ta trang bị cho nó. Nó chẳng công bằng, cũng chẳng bất công, nó chẳng bao giờ tuyên án. Cái mà chúng ta đón nhận là thần thánh chỉ là người đưa tin cải trang mà thôi. Anh ta chỉ vào những ngày nhất định trong cuộc đời chúng ta mới cảnh báo cho chúng ta rằng, chẳng bao lâu nữa sẽ đến thời điểm chúng ta cần tự phán xét chính bản thân mình.
XLVIQuả thật là những người loại hai chẳng tự phán xét bản thân mình. Và vì họ từ chối phán xét bản thân mình, nên họ bị hoàn cảnh phán xét. Họ lệ thuộc vào cái số phận hầu như bất di bất dịch, bởi số phận thay đổi bản chất của mình chỉ theo bản án mà một người tự tuyên cho chính mình. Thay vì bắt biến cố phải thay đổi, họ lại tự thay đổi mình về mặt đạo đức trong lần đụng độ đầu tiên với hoàn cảnh. Họ vội vàng tiếp nhận các dạng thức của nỗi bất hạnh mà họ than vãn về nó, chẳng những thế còn là các dạng thức khốn khổ và tồi tệ nhất. Tất thảy những gì xảy ra với họ đều có mùi định mệnh. Với người này định mệnh là nghề nghiệp, với người kia là tình bạn đã từng làm nơi nương tựa, với người khác nữa là người tình đã từng đón đợi. Trong quan niệm của họ biến cố xảy ra và định mệnh là hai thuật ngữ tương đồng, mà biến cố xảy ra hiếm khi là cái định mệnh tốt lành. Toàn bộ nơi chốn nào trong con người chúng ta không được chiếm giữ bằng sức mạnh của tâm hồn chúng ta, thì sẽ nhanh chóng bị chiếm giữ bằng sức mạnh thù địch. Mọi khoảng trống trong con tim hay khối óc sẽ trở thành nguồn gốc của những ảnh hưởng nguy hại. Ophélie của Shakespeare và Marguerite của Goethe đều lệ thuộc vào định mệnh, vì họ yếu đuối đến mức có sự tham dự của họ thì chẳng thể có một hoạt động nào được thực hiện mà nó lại không biến thành hoạt động của định mệnh. Nhưng nếu như Marguerite hay Ophélie có được một phần thôi nguồn sức mạnh đã cổ vũ cho Antigone của Sophocle, thì phải chăng họ cũng không thay đổi nổi không chỉ số phận của riêng mình, mà còn cả số phận của Hamlet và Fauste? Và nếu như anh chàng More ở Venise thay vì lấy Desdémone, lại cưới Pauline của Corneille làm vợ, thì bạn có nghĩ rằng, trong những hoàn cảnh như nhau số phận của Desdémone có thể dẫu chỉ trong chốc lát thôi tiến gần tới tình yêu rạng ngời của Pauline? Số phận đen đủi của họ ẩn nấp nơi đâu? Trong thân xác họ hay trong tâm hồn họ? Và nếu đúng thật là thân xác đôi khi không thê nhân lên nguồn sức mạnh của mình, thì phải chăng chính điều này cũng xảy ra với tâm hồn? Chúng ta hãy thử xem xét: đối với phần lớn mọi người chỉ có một cái định mệnh đích thực có thể xảy ra, tức là cái định mệnh có quyền nói với một người rằng: “Kể từ nay tâm hồn ngươi sẽ không thể hồi phục và phát triển được hơn nữa”. Nhưng phải chăng có một cái định mệnh có quyền nói với chúng ta như thế?
XLVIITuy nhiên, đức hạnh thường chịu hình phạt, và sức mạnh riêng của tâm hồn đôi khi trút bất hạnh xuống nó. Chúng ta càng yêu nhiều hơn, thì phần tâm hồn dễ bị tổn thương vì nỗi đau buồn cao thượng càng lớn hơn. Nhưng nhà thông thái sẵn sàng mở rộng cái phần biết bao tuyệt vời này của tâm hồn.
Đúng, cần phải thừa nhận rằng, định mệnh chẳng phải luôn luôn ở dưới đáy cùng u ám của mình. Vào những giờ phút nhất định nó cần những sự hy sinh cao cả mà nó bắt được khi thò đôi tay lạnh giá khổng lổ của mình vào miền ánh sáng. Vừa nhắc đến cái tên đẩy bi kịch của Antigone thôi, và tôi chắc chắn sẽ nói: “Đấy, bất chấp sức mạnh tâm hồn của nàng, nạn nhân của định mệnh mà anh hoài công tìm kiếm đấy”… Không thể không đồng ý với điều này. Antigone trở thành vật hy sinh của vị thần lạnh lùng, vì tâm hồn nàng mạnh hơn gấp ba lần tâm hồn của những người phụ nữ bình thường. Nàng hy sinh, vì định mệnh đặt nàng vào tình thế bắt nàng phải lựa chọn giữa cái chết và điều mà nàng coi là nghĩa vụ làm chị thiêng liêng nhất của mình. Nàng bất ngờ bị đặt giữa cái chết và tình yêu, hơn thế nữa là một tình yêu thuần khiết và vô tư nhất, một tình yêu hướng đến một ảo ảnh mà nàng chưa bao giờ thấy trên thế gian này. Tại sao định mệnh có thể dồn đuổi nàng vào một tình thế bế tắc nguy hại đến thế do cái chết và nghĩa vụ tạo ra cho nàng? Chỉ vì duy nhất một điều: tâm hồn nàng cao thượng hơn những tâm hồn khác; nó đã thấy trước mình cái bức tường nghĩa vụ chẳng thể vượt qua mà Ismène, cô em gái yếu đuối của nàng không nhận ra ngay cả khi người ta chỉ cho cô ta. Cùng một lúc cả hai chị em họ đứng ở ngưỡng cửa cung điện, cũng cùng những giọng nói đó vang lên quanh họ. Antigone chỉ lắng nghe tiếng nói từ trên cao vang dội xuống, và chính vì thế nàng chết. Ismène thậm chí chẳng nghi ngờ rằng, có những tiếng nói khác ngoài cái tiếng nói từ dưới vọng lên, và chính vì thế cô ta lẩn tránh cái chết. Bạn cứ thử chia cho tâm hồn của Antigone một phần nhỏ sự yếu đuối có nhiều biết bao nhiêu trong tâm hồn của Ophélie hay Marguerite xem, và định mệnh sẽ coi việc kêu gọi sự hy sinh vào thời khắc đó là vô ích, khi người con gái của Oedipe xuất hiện dưới hành lang cung điện của Créon. Thế đấy, định mệnh có thể trở thành chủ nhân của tâm hồn nàng chỉ vì đây là một tâm hồn mạnh mẽ.
Toàn bộ điều này là quá hiển nhiên, và niềm an ủi của một người công chính, người anh hùng, và nhà thông thái là ở đó. Định mệnh làm chủ họ chỉ nhờ sự trợ giúp của cái thiện mà nó buộc họ phải thực hiện. Tất cả những người khác giống như những thành phố có 100 cánh cổng mở toang cho nó thâm nhập vào. Nhưng nhà thông thái là một thành phố tứ phía kín cổng cao tường, chỉ có một cổng vào được soi sáng; và định mệnh có thể mở được cánh cổng này chỉ sau khi nó thành công trong việc buộc tình yêu gõ cánh cổng này. Định mệnh bắt những người khác làm mọi điều nó muốn. Mà định mệnh một khi đã cảm thấy mình được tự do, thì nó chỉ muốn cái ác. Nhưng nếu nó có ý định làm chủ một người công chính, thì nó phải nghĩ về cái thiện. Ở đây công cụ phục vụ cho nó không chỉ là sự tăm tối. Người công chính được bảo vệ khỏi bóng tối-bằng ánh sáng của mình, và chỉ ánh sáng mạnh hơn mới có thể chiến thắng nó. Định mệnh khi ấy buộc phải trở nên tuyệt vời hơn người hy sinh. Nó đặt những người bình thường giữa nỗi đau khổ và thương tâm của người khác; nhưng nó có thể bắt được nhà thông thái và người anh hùng chỉ sau khi đã đặt họ giữa nỗi đau khổ riêng và hạnh phúc của người khác. Với loại người thứ nhất nó tấn công nhờ tất cả những gì quái gở, nhưng với loại người sau nó có thể đuổi kịp họ chỉ nhờ vào điều gì tuyệt vời nhất trên thế gian. Nó chống lại những người này - những người mà ở họ đã chuẩn bị săn cả ngàn thứ vũ khí [cho nó), thậm chí cả những viên đá lát đường cũng biến thành vũ khí. Nhưng nó có thể tấn công những người kia chỉ khi đã được trang bị một thanh gươm không thể chống đỡ được. Và đây cũng là thanh gươm bừng cháy của một người hiến sinh và của nghĩa vụ. Chuyện về Antigone đã chấm dứt toàn bộ câu chuyện về quyền lực của định mệnh với nhà thông thái. Chúa Ki tô chết vì chúng ta, Curtius gieo mình xuống vực sâu, Socrate từ chối im lặng, người nữ y tá kiệt sức bên giường của một bệnh nhân, một người qua đường bình dị chết để cứu sống một người qua đường bị nạn, - họ tất cả đều phải lựa chọn, và tất cả mang trên mình ở cùng một điểm cái vết thương vẻ vang của Antigone. Một điều hiển nhiên là trong vầng hào quang ẩn chứa những mối nguy hiểm tuyệt vời, và ai sợ hy sinh thì người đó không thể bình yên vô sự là một nhà thông thái. Thế nên những người sợ hy sinh khi giờ phút trọng đại điểm, có lẽ, chẳng xứng đáng được mang danh là nhà thông thái.
XLVIIIKhi chúng ta nói đến từ “định mệnh”, thì mỗi người hình dung ra một cái gì đó u ám, khủng khiếp và chết chóc. Sâu xa trong suy nghĩ của con người định mệnh chẳng là cái gì khác ngoài con đường dẫn đến cấi chết. Trong phần lớn các trường hợp đấy chỉ là tên gọi người ta đặt cho cái chết còn chưa xảy đến. Đấy là cái chết sẽ được thấu hiểu trong tương lai, và là bóng đen do cái chết hắt xuống cuộc đời. “Số giời đã định, chẳng tránh được”, - chúng ta nói thế, chẳng hạn như khi nghĩ về cái chết đang chờ người lữ hành trên bước ngoặt của con đường. Nhưng nếu như người lữ hành gặp hạnh phúc, thì chúng ta sẽ lại chẳng nhắc đến định mệnh hay nói về nó như nói về cái thần thánh kia. Tuy nhiên, phải chăng làm thế nào để một người trên bước đường đời gặp hạnh phúc nhiều hơn là gặp đau khổ và cái còn trọng yếu hơn cả cái chết là một việc không thể? Phải chăng làm sao để anh ta gặp được cái hạnh phúc mà chúng ta không nhìn thấy là một việc không thể, bởi hạnh phúc về bản chất của mình ít hiển hiện hơn đau khổ, và ít được nhận thấy hơn khi nó lớn lên? Song chúng ta chẳng tính đến toàn bộ điều này. Cả làng, cả thành phố đổ xô ra xem một tai nạn vớ vẩn nào đó. Nhưng nếu đó là một nụ hôn hay tia sáng của một cái đẹp khiến chúng ta tròn mắt sửng sốt, hay ánh sáng của một tình yêu làm bừng sáng con tim chúng ta, thì lại chẳng có một ai để tâm đến. Song, tuy nhiên, một nụ hôn có thể làm chúng ta vui sướng cũng như một vết thương có thể gây nên cơn đau. Chúng ta thật bất công, chúng ta không bao giờ làm cho định mệnh vào niềm vui sướng, và nếu chúng ta không gắn tên nó với cái chết, thì vì rằng chúng ta đã gắn nó với cái tai biến còn lớn hơn cả chính cái chết.
XLIXNếu tôi kể cho bạn nghe về cái định mệnh truy đuổi Oedipe, Jeanne d’Arc và Agamemnon, thì bạn sẽ không nhận ra cuộc đời của ba con người này, mà bạn sẽ chỉ thấy những lối mòn tồi tệ nhất dẫn tới cái chết. Bạn thuyết phục mình rằng, họ đã có một số phận bất hạnh, vì cái chết của họ chẳng hạnh phúc gì. Nhưng bạn quên mất rằng, cái chết chẳng bao giờ là hạnh phúc trong con mắt của những người còn chưa chết. Thế nhưng chúng ta luôn luôn phán xét như thế về cuộc đời. Chúng ta có cảm tưởng rằng, cái chết nuốt chửng tất tật, và nếu ba mươi năm hạnh phúc kết thúc bằng một cái chết không may, thì chúng ta cảm giác rằng, toàn bộ ba mươi năm biến mất trong bóng tối của một giờ đau đớn.
LChúng ta thật sai lầm khi bằng cái cách như thế gắn định mệnh với cái chết hay với nỗi bất hạnh. Rốt cục, đến bao giờ chúng ta mới từ bỏ cái suy nghĩ rằng, cái chết có ý nghĩa lớn hơn sự sống, và đau khổ đáng kể hơn hạnh phúc? Tại sao khi bàn về số phận của một ai đó, chúng ta luôn luôn nhìn vào khía cạnh đẫm lệ buồn thương, chứ không vào khía cạnh rạng rỡ nụ cười? Ai đã nói với chúng ta rằng, phải đo đếm một cuộc đời bằng thước đo của cái chết, chứ không phải ngược lại, đo lường một cái chết bằng thước đo cuộc đời? Chúng ta cảm thông với số phận của Socrate, Duncan, Antigone, Jeanne d’Arc và nhiều người công chính khác, vì cái chết của họ đến bất ngờ và ác nghiệt, và chúng ta tự nhủ rằng, chẳng có sự thông thái nào, chẳng có đức hạnh nào đủ sức tước nổi vũ khí của nỗi bất hạnh. Nhưng, thứ nhất là, ai đi tìm kiếm trong sự thông thái và công chính một cái gì đó khác ngoài chính sự thông thái và công chính, thì người đó chẳng thông thái và cũng chẳng công chính. Và rồi, chúng ta có quyền gì đi quy giản toàn bộ cuộc đời vào cái thời điểm chết? Lấy cớ chi bạn nói với tôi rằng, sự thông thái và đức hạnh của Antigone và Socrate đã mang đến bất hạnh cho họ và đồng thời chỉ ra cái kết cục đau thương của họ? Phải chăng cái chết chiếm một chỗ lớn hơn sự sinh thành? Và, tuy nhiên, khi đánh giá số phận của một nhà thông thái, bạn không hề tính đến sự sinh thành của ông ta. Chúng ta hạnh phúc hay bất hạnh là phụ thuộc vào những gì chúng ta thực hiện từ khi sinh thành đến khi nhắm mắt xuôi tay. Đâu phải vào thời khắc lìa đời, mà suốt những tháng năm trước đó chứa đựng hạnh phúc và khổ đau của một con người mới thực sự là định mệnh của anh ta.
Chúng ta bàn luận hầu như theo cái lối như thể nhà thông thái, mà lịch sử kể lại cho chúng ta về cái chết khủng khiếp của ông ta, cả một đời đã sống trong sự tiên đoán trước về một kết cục đau đớn do sự thông thái của ông ta đã chuẩn bị sẵn. Thực ra nhà thông thái ít lo nghĩ về cái chết hơn một người lầm lạc. Socrate không lo sợ như Macbeth rằng, mọi sự sẽ kết thúc một cách thê thảm. Và nếu mọi chuyện với ông có kết thúc một cách buồn thảm đi chăng nữa, trái với mong đợi của ông, thì ông cũng sẽ không sống cuộc đời mình để làm sao chết nhanh cho rảnh như vị chúa tể của xứ Cawdor. Nhưng rất thường thấy là trong sâu thẳm suy nghĩ của mình chúng ta tin chắc rằng, vết thương chảy máu trong vài tiếng đồng hồ sẽ tuyệt diệt cái thế giới của cả một đời.
LITôi không muốn nói rằng, định mệnh luôn công bằng, rằng nó ban thưởng cho những người tốt và trừng phạt những kẻ ác. Tâm hồn của ai có thể cho mình là nhân hậu, nếu nó tin chắc ở sự ban thưởng? Nhưng khi kết tội định mệnh, chúng ta còn trở nên bất công hơn chính nó. Chúng ta nhìn thấy chỉ nỗi bất hạnh của nhà thông thái, vì chúng ta ai cũng biết bất hạnh là gì. Nhưng chúng ta không thấy được hạnh phúc của ông ta, bởi cần phải thông thái được như nhà thông thái, và công chính được như người công chính, mà số phận của họ đang được chúng ta bàn đến, để hiểu được hạnh phúc của họ.
Khi một người có tâm hồn thấp kém thử đo lường hạnh phúc của một nhà thông thái vĩ đại, thì hạnh phúc này sẽ luồn tránh anh ta như nước chảy qua giữa các kẽ ngón tay. Nhưng trong tay một nhà thông thái nó trở nên rắn chắc và lấp lánh như vàng. Chúng ta sở hữu chỉ cái hạnh phúc mà chúng ta đủ sức hiểu được. Điều thường thấy là, những tai biến của nhà thông thái giống như những tai biến của một người khác. Nhưng hạnh phúc của ông ta chẳng có điểm gì chung với cái được một người không thông thái gọi là hạnh phúc. Trong lĩnh vực hạnh phúc có nhiều miền đất chưa được biết đến hơn là trong lĩnh vực đau khổ. Sự đau khổ luôn luôn nói bằng cùng một giọng thôi. Nhưng hạnh phúc một khi nó càng trở nên sâu sắc hơn, thì nó nói bằng một giọng càng nhỏ nhẹ hơn.
Khi chúng tôi đặt nỗi bất hạnh lên một bên bàn cân, thì mỗi người trong chúng ta cũng sẽ đặt lên bàn cân bên kia cái quan niệm về hạnh phúc mà anh ta tạo nên cho bản thân mình. Một kẻ man rợ sẽ đặt cái ý nghĩ về rượu, thuốc súng, lông chim. Một người văn minh sẽ đặt đôi ba cây vàng hay vài ngày lãng du. Nhưng một nhà thông thái sẽ đặt cả ngàn sự vật mà chúng ta không thấy được - có thể là toàn bộ tâm hồn mình và thậm chí là nỗi bất hạnh được ông ta thần thánh hóa trong bản thân mình.
LIIKhông có gì công bằng hơn hạnh phúc, không có cái gì có thể thu nhận một cách đáng tin cậy đến thế những đường nét của tâm hồn chúng ta, có thể tự mình lấp đầy một cách chính xác đến thế mọi không gian được sự thông thái khai mở cho nó. Nhưng tuy thế không có cái gì lại kiệm lời đến thế, như hạnh phúc. Thiên thần buồn thương nói bằng đủ mọi thứ tiếng và biết hết mọi lời lẽ; nhưng thiên thần hạnh phúc cất tiếng chỉ khi nó có thể nói về cái hạnh phúc mà một kẻ man rợ cũng có thể hiểu được. Sự đau khổ đã rời bỏ tuổi thơ từ hàng trăm thế kỷ trước. Nhưng có thể cho rằng, hạnh phúc cho đến giờ vẫn còn say giấc thơ ngây.
Có ít người học được cách là người hạnh phúc. Song những người tiếp thêm tiếng nói của mình cho vị thượng đăng thần thầm lặng soi sáng tâm hồn họ đang ở nơi đâu? Biện giải thế nào đây cho sự im lặng bất công như thế? Nói về hạnh phúc có nghĩa là phần nào truyền dạy về nghệ thuật làm người hạnh phúc hay không? Hằng ngày gọi tên nó có phải cũng là kêu cầu nó hay không? Phải chăng một trong những bổn phận của một người hạnh phúc không phải là để dạy cho những người khác về cái niềm hạnh phúc này? Rõ ràng là có thể học được cách làm một người hạnh phúc và thậm chí chẳng có gì dễ học đến thế, như học về hạnh phúc. Nếu bạn sống giữa những người cầu phúc cho cuộc đời mình, thì bạn sẽ nhanh chóng bắt đầu cầu phúc cho cuộc sống riêng của mình. Nụ cười cũng dễ lây lan như những giọt nước mắt, và những thời đại được gọi là hạnh phúc, thì phần lớn đó là những thời đại có một số người muốn gọi mình là những người hạnh phúc. Thông thường thì cáĩ điều chúng ta cần không phải là hạnh phúc, mà là biết cách làm một người hạnh phúc. Một hạnh phúc lớn nhất cũng chẳng dẫn tới đâu, nếu chúng ta không biết rằng chúng ta hạnh phúc. Còn một hạnh phúc nhỏ bé nhất được nhận thức ra sẽ có ý nghĩa trọng đại với sự bình an của chúng ta hơn cái hạnh phúc to lớn mà tâm hồn không hề đoái hoài đến nó. Có quá nhiều người hình dung rằng, hạnh phúc - đó không phải là những gì họ đang nắm giữ; và đó chính là lý do tại sao những người hạnh phúc có nghĩa vụ chỉ cho chúng ta thấy rằng, thực chất thì những gì họ sở hữu trong con tim mình đó chính là những gì mà người khác cũng có.
Là một người hạnh phúc có nghĩa là vượt qua được tâm trạng thấp thỏm trông chờ hạnh phúc. Luôn cần có một ai đó được số phận đặc biệt ưu ái, được ban thưởng hạnh phúc ngời ngời khiến người ta ghen tị, một siêu nhân đến và đơn giản tuyên bố với chúng ta: “Tôi nhận được tất cả những gì mà hằng ngày các vị mong mỏi kêu cầu. Tôi có đủ hết nào giàu sang, sức khỏe, nào tuổi trẻ, vinh quang, nào oai hùng cùng tình yêu. Giờ đây tôi có thể gọi mình là người hạnh phúc, nhưng chẳng phải vì những phúc lợi được số phận ban cho tôi, mà vì những phúc lợi này đã dạy tôi biết nhìn vượt cao hơn hạnh phúc. Nếu tôi qua những chuyến viễn du kỳ diệu của mình, qua những thắng lợi của mình, bằng sức mạnh của mình và bằng tình yêu của mình mà có được sự bằng an và hạnh phúc mà tôi đã tìm kiếm, thì chỉ vì chúng khai mở cho tôi thấy rằng, hạnh phúc đích thực và sự bằng an không nằm trong chúng. Trước những thắng lợi của tôi, sự bằng an và hạnh phúc đã ở sẵn ngay trong tôi rồi. Sau những thắng lợi, chúng vẫn ở chỉ trong tôi mà thôi, và tôi nhận ra rằng, với sự thông thái nhiều hơn đôi chút là tôi có thể sở hữu tất thảy những gì tôi đang sở hữu, mà chẳng cần phải có niềm hạnh phúc như thế. Tôi biết rằng, ngày hôm nay tôi hạnh phúc hơn ngày hôm qua, bởi rốt cục tôi đã hiểu ra rằng, tôi không cần hạnh phúc nữa để giải thoát tâm hồn mình, trấn an suy nghĩ của mình”.
LIIINhà thông thái biết tất cả những điều này, mà không cần cái hạnh phúc siêu nhân đến và dạy ông ta về chân lý này. Một người công chính cũng biết tất cả những điều này mặc dù anh ta không thông thái bằng nhà thông thái, và sự hiểu biết của anh ta có vẻ như không sâu rộng bằng, bởi có một điều đáng chú ý là, một hành động công minh hay nhân hậu đem theo mình sự nhận thức, dẫu không được phân tích đầy đủ, nhưng lại thường hữu hiệu hơn, tận tụy hơn, mang tình mẫu tử hiền từ hơn cái nhận thức được sinh ra từ một tư tưởng thâm thúy. Một hành động như thế đem theo mình một sự nhận thức vô cùng tinh tế về hạnh phúc. Bất chấp mọi nỗ lực của chúng ta, những suy nghĩ cao cả nhất hóa ra hầu như luôn mơ hồ và hay thay đổi, trong khi đó cõi nhân gian được soi sáng nhờ hành động phúc lành lại hằng thường và bất biến. Một tư tưởng thâm thúy thường chỉ là cái nhận thức tô điểm cho cuộc đời, trong khi đó một tình yêu quên mình hay việc thực hiện một nghĩa vụ anh hùng luôn là nhận thức đích thực, tức là niềm hạnh phúc trong hành động. Một Marc-Aurèle tha thứ cho sự xúc phạm tột cùng, một Washington từ bỏ quyền lực của mình vào thời điểm khi vinh quang của ông có thể sẽ trở thành nguồn gốc của sự sai lầm đối với nhân dân của ông, và một người đáng khinh và thấp kém, - nếu cứ cho là có một giả định khó tin như thế đi, - ngẫu nhiên phát hiện ra định luật vạn vật hấp dẫn vĩ đại, - thì tất cả họ hạnh phúc không theo cùng một kiểu.
Từ cái lý trí được thỏa mãn đến một con tim mãn nguyện là cả một con đường dài bên lề chỉ trồng duy nhất những niềm vui sướng không biết sợ đông giá.
Hạnh phúc, nói đúng ra, là sự sinh trưởng của một đời sống đạo đức, hơn là của một đời sống trí tuệ. Sự nhận thức nói chung và đặc biệt là nhận thức về hạnh phúc giấu những kho báu lớn nhất của mình không phải ở miền lý trí. Thậm chí đôi khi có thể cho rằng, những yếu tố cao quý và an ủi nhất của lý trí không biến thành nhận thức, nếu trước đó chúng không trải qua một hành động có đức hạnh. Phát hiện ra một chân lý mới trong thế giới tư tưởng hay thực tại là chưa đủ. Một chân lý trở thành cái chân lý thiết thân với chúng ta chỉ từ thời điểm nó làm biến đổi, thanh lọc, trấn an một cái gì đó trong tâm hồn chúng ta. Một nhận thức chân chính, bản chất tích cực của nó nằm trong nhận thức về việc hoàn thiện đạo đức. Có những người rất lý trí chẳng bao giờ tập trung lý trí của mình vào việc phát hiện những sai lầm về đạo đức hay khích lệ tình cảm yêu thương. Điều này đặc biệt thường thấy ở phụ nữ. Nếu lấy ra một người đàn ông và một người phụ nữ có trí lực như nhau, thì chúng ta sẽ thấy người phụ nữ luôn hướng phần nhỏ nhất sức lực của mình vào việc nhận thức bản thân mình về mặt đạo đức. Quả thật là, cái lý trí không đưa tới nhận thức thì chẳng khác gì việc vỗ cánh trong chân không. Mọi sức mạnh trí óc của chúng ta không chảy thẳng vào những chiếc bình tinh khiết nhất của con tim chúng ta sẽ có nguy cơ bị hư hỏng hay mất mát đi. Trong mọi trường hợp nó sẽ là cái hạnh phúc xa lạ và thậm chí dễ dàng liên minh với nỗi bất hạnh. Có thể có một lý trí rất mạnh mẽ và cao cả nhưng chẳng bao giờ tiếp cận hạnh phúc. Nhưng khi có một tâm hồn hiền hòa, thanh khiết và nhân hậu, thì không thể nào lại chỉ biết đến những bất hạnh. Quả thật là, những ranh giới giữa lý trí và nhận thức không phải lúc nào cũng rất dễ nhận thấy như được nói đến ở đây, nhưng một suy nghĩ tuyệt vời thường cũng là một hành động tuyệt vời. Thế nhưng, hiển nhiên là một suy nghĩ tuyệt vời không phải do một hành động tốt đẹp sinh ra, và bản thân nó cũng không sinh ra một hành động tốt đẹp, thì sẽ chẳng bổ sung được gì cho hạnh phúc của chúng ta, trong khi một hành động tốt đẹp, thậm chí ngay cả khi nó không làm nảy sinh một tư tưởng nào, luôn giống như một cơn mưa mát lành làm hồi sinh sự nhận thức của chúng ta về hạnh phúc.
LIV“Cần phải giã từ hạnh phúc, - Renan đã thốt lên khi nói về sự tự chối từ của Marc-Aurèle, - cần phải từ bỏ hạnh phúc để đi tới những thái cực như thế. Chúng ta sẽ không bao giờ hiểu tất thảy những gì mà trái tim kiệt lực khốn khổ này phải chịu đựng, biết bao đau khổ âm thầm ẩn chứa sau vầng trán xanh xao, luôn trầm tĩnh và hầu như luôn mãn nguyện này. Đúng là thế, từ “vĩnh biệt” được nói ra với hạnh phúc là khởi đầu của sự thông thái và là phương sách đúng đắn hơn cả để có được hạnh phúc. Chẳng có gì khoan khoái hơn sự trở lại của niềm vui sướng đến sau việc chối từ niềm vui sướng. Chẳng có gì sinh động hơn, sâu sắc hơn và tuyệt vời hơn sự quyến rũ của một người thất vọng”.
Một nhà thông thái đã mô tả niềm hạnh phúc của một nhà thông thái khác bằng những lời như thế, nhưng tuy nhiên, phải chăng hạnh phúc của chính Renan, cũng như Marc-Aurèle chỉ nằm trong sự trở lại của niềm vui sướng đến sau việc chối từ hạnh phúc và trong sự quyến rũ của một người thất vọng? Nếu đúng thế, thì nhẽ ra phải thích là một người ít thông thái hơn, để ít bị thất vọng hơn mới phải. Nhưng sự thông thái này, nó khao khát vươn tới cái gì, khi tự tuyên bố rằng mình thất vọng? Nó tìm kiếm cái gì, nếu không phải là chân lý, và cái chân lý đó, cái chân lý có thể hủy hoại chính tình yêu chân lý trong nơi thẳm sâu của một trái tim chân thành, là thứ chân lý nào đây?
Nếu chân lý dạy bạn rằng, con người là độc ác, thiên nhiên là bất công, tính công chính là vô ích, còn tình yêu thì bất lực, thì hãy tự nhủ với mình rằng, cái chân lý này sẽ chẳng dạy được cái gì cho bạn đâu, nếu đồng thời nó không khai mở được một chân lý nào đó, một chân lý lớn lao hơn làm rạng ngời mọi nỗi thất vọng ấy bằng một thứ ánh sáng khác rạng rỡ hơn và ít rã rời hơn hàng ngàn ngọn lửa mau chóng tàn lụi mà nó đã dập tắt quanh bạn. Đối với chân lý thì không có giới hạn. Và đó chính là lý do tại sao sự thông thái không bao giờ có quyền bằng cái cách như thế dựng lên cho bằng được cái lều bé nhỏ đáng thương của nỗi thất vọng và sự chối từ ở ngay ngã tư đầu tiên của niềm kiêu hãnh. Bởi việc tuyên bố mình thỏa mãn với cái điều rằng, chẳng có gì có thể làm chúng ta thỏa mãn, là dấu hiệu của một sự kiêu hãnh quá mức và khá mong manh. Sự thỏa mãn như thế thực chất là một sự bất mãn thậm chí chẳng đủ sức đứng vững. Mà bất mãn, thực chất, là một người chẳng cố gắng để hiểu.
Dù một người có hình dung đến chừng nào rằng, nghĩa vụ của anh ta là ở việc chối bỏ hạnh phúc, thì liệu anh ta có chối bỏ cái vẫn còn chưa là hạnh phúc hay không? Và rồi sau đó cần phải nói “lời từ biệt” đã bị mất đi sự hồn nhiên này với những phúc lợi nào của cuộc đời nữa đây? Tất nhiên, sự công tâm đòi hỏi chúng ta loại bỏ khỏi bản thân mình bất kể niềm hạnh phúc nào đem lại đau khổ cho những người khác; nhưng phải chăng cái hạnh phúc gây ác với những người khác sẽ là niềm hạnh phúc dài lâu trong con mắt của nhà thông th?